TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 40/2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2022/TLST - HS ngày 17/3/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2022/QĐXXST - HS ngày 30 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:
Dương Văn C, sinh năm 1988 ĐKHKTT và cư trú: Thôn CT, xã A, huyện L, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Hồng P và bà Lưu Thị H; Có vợ là Trần Thị N và 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2019.
Tiền án, tiền sự : Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/01/2022 đến ngày 13/01/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa).
* Người làm chứng:
- Anh Vũ Xuân Q, sinh năm 1971. Địa chỉ: Số 24 N, khu L, P.M, TP. H, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt)
- Anh Phạm Văn C, sinh năm 1957. Địa chỉ: Số nhà 10 ngõ 7 V, P. M, thành phố H, tỉnh Hải Dương. ( Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do có nhu cầu mua pháo nổ về sử dụng dịp Tết Nguyên đán nên ngày 28/12/2021, Dương Văn C sử dụng điện thoại IPhone XS max, lắp sim số 0912 611 xxx C mình đăng nhập vào tài khoản Facebook tên “Dương K” để tìm mua pháo nổ. Thấy tài khoản Facebook tên “Pháo A T” (không rõ lai lịch, địa chỉ) đăng thông tin bán pháo nổ nên C nhắn tin qua ứng dụng Messenger thỏa thuận mua pháo với giá 2.400.000 đồng/2 bánh và hẹn ngày 10/01/2022 sẽ giao nhận pháo.
Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 10/01/2022, C gọi điện qua ứng dụng Messenger cho người sử dụng tài khoản “Pháo A T” hẹn gặp nhau lúc 15 giờ ngày 10/01/2022 ở cổng khu công nghiệp Đ, thành phố H để giao pháo nổ. Sau đó, C đi bộ từ nhà ra Quốc lộ 281 thuộc xã A, huyện L, tỉnh Bắc Ninh đi xe ôm C một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) về thành phố H. Khi đến khu Công nghiệp Đ, thành phố H, C gọi điện qua ứng dụng Messenger cho người sử dụng tài khoản “Pháo A T” xin số điện thoại để tiện liên hệ thì người này nhắn cho C số điện thoại là 0886 876 xxx (đăng ký chủ thuê bao là anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1978 ở thị trấn Lương Bằng, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên). C gọi điện vào số điện thoại 0886 876 188 thỏa thuận với người đàn ông bán pháo nổ hẹn gặp ở khu vực đường AĐ, lối rẽ vào Công ty F, thuộc phường T, TP. H để mua bán pháo. Khi đến khu vực trên, C nhìn thấy một người đàn ông ngồi trên xe máy (không xác định được nhân thân, lai lịch và biển số xe), C bảo người lái xe ôm đứng chờ còn C đi bộ về phía người đàn ông, người này vẫy tay ra hiệu để C đi theo, C biết đây là người giao pháo nên đi theo. Khi đến gần khu vực công Công ty F (cách khoảng 100m), người đàn ông chỉ vào thùng bìa catton để ở ven đường và nói “hàng đây” ý là pháo nổ và yêu cầu C đưa tiền. C đưa cho người đàn ông số tiền 2.400.000 đồng, sau đó người đàn ông bỏ đi, C mở thùng catton thấy có 03 bánh pháo nổ. Lúc này, khoảng 16 giờ 00 phút cùng ngày, khi C đang bê thùng pháo nổ đi bộ thì bị lực lượng Công an Phòng an ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao - Công an tỉnh Hải Dương phối hợp với Công an phường T, TP. H bắt quả tang, thu giữ vật chứng:
01 thùng bìa catton màu vàng, bên trong có 03 bánh gồm: 01 bánh có kích thước 8,5 cm x 12 cm; 02 bánh có đặc điểm giống nhau có kích thước 8,5 x 36 cm. Quá trình làm việc với cơ quan điều tra, Dương Văn C giao nộp 01 điện thoại IPhone Xs Max, số IMEI 357279090487306 có gắn sim số 0912611xxx.
Tại Kết luận giám định số 259/C09 - P2 ngày 11/01/2022 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Các vật hình trụ, vỏ giấy màu đỏ, một đầu mỗi vật có gắn dây ngòi được liên kết với nhau thành tràng (02 tràng có kích thước (8,5 x 36) cm); Các vật hình trụ, vỏ giấy màu đỏ, một đầu mỗi vật có gắn dây ngòi được liên kết với nhau thành tràng (01 tràng, kích thước (8,5 x 12) cm) đều là pháo nổ. Khối lượng pháo là 10,8 kg (mười phẩy tám kilôgam).
Hoàn trả lại mẫu vật sau khi trích 0,02 kg pháo nổ.
Quá trình điều tra bị cáo Dương Văn C đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội.
Tại bản cáo trạng số 38/CT-VKSTPHD ngày 14/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Dương Văn C về tội Tàng trữ hàng cấm theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 C Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận thành khẩn hành vi tàng trữ hàng cấm là pháo nổ mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Dương Văn C phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”. Áp dụng:
điểm c khoản 1 Điều 191; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự : Xử phạt bị cáo Dương Văn C từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND xã A, huyện L, tỉnh Bắc Ninh giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù C bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp bị cáo vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Áp dụng Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs max màu đen của bị cáo; tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại số 0912.611.xxx. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng16 giờ 00 phút ngày 10/01/2022, tại khu vực trước cổng Công ty F thuộc phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương; Dương Văn C có hành vi tàng trữ trái phép 10.8 kg (Mười phẩy tám ki - lô - gam) pháo nổ để sử dụng thì bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với pháo nổ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận biết được pháo là mặt hàng nhà nước độc quyền quản lý, cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng nhưng vì mục đích muốn có pháo nổ để đốt trong dịp tết nguyên đán bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như trên là là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Gia đình bị cáo có bố đẻ là ông Dương Hồng P được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhì, mẹ đẻ là bà Lưu Thị H là người được ghi danh gia đình người có công với cách mạng nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét thấy: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú cụ thể rõ ràng; trong thời gian bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú bị cáo đã chấp hành tốt pháp luật; bị cáo có khả năng tự cải tạo, việc áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là cần thiết nhưng nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì cũng không ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà cho bị cáo được hưởng án treo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú cũng đảm bảo mục đích giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho xã hội và thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng: Đối với số pháo có khối lượng 10,78 kg là mẫu vật hoàn lại sau giám định, ngày 24/01/2022 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương đã tiêu hủy theo quy định là phù hợp.
Đối với 01 điện thoại di động Iphone Xs max màu đen, số IMEI 057279090487306, lắp sim số 0912.611.xxx thu giữ của Dương Văn C, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo sử dụng chiếc điện thoại trên là công cụ để trao đổi thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước, đối với sim điện thoại cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[8] Về các vấn đề khác: Đối với đối tượng bán pháo cho C và tài khoản Facebook tên Pháo A T, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan CSĐT tiếp tục xác minh khi nào làm rõ nhân thân lai lịch và hành vi vi phạm sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
Kết quả điều tra xác định thuê bao số điện thoại 0886876xxx đăng ký mang tên Nguyễn Văn V, sinh ngày 02/10/1978 ở xã L, huyện K, tỉnh Hưng Yên. Anh V không sử dụng số điện thoại trên, không quen biết Dương Văn C, quá trình điều tra xác minh anh V không liên quan đến hành vi mua, bán, vận chuyển pháo nổ nên không có căn cứ xử lý.
[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1,2,5 Điều 65, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 1 Điều 125, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Luật phí, lệ phí. Nghị quyết số 326/20166/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Dương Văn C phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Dương Văn C 10 (mười) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 (hai mươi tháng) tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND xã A, huyện L, tỉnh Bắc Ninh giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp bị cáo vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 20/CCT - TA ngày 28/3/2022 đối với bị cáo Dương Văn C kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
3. Về vật chứng: Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone Xs max màu đen của bị cáo Dương Văn C; tịch thu cho tiêu hủy 01 sim điện thoại số 0912.611.839 được niêm phong trong phong bì có chữ ký của các thành phần tham gia.
(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Dương và và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương ngày 31/3/2022).
4. Về án phí: Bị cáo Dương Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm
Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 40/2022/HS-ST
Số hiệu: | 40/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về