TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 19/2022/HS-PT NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 12 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh BL xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số : 28/2022/TLPT-HS ngày 24 tháng 02 năm 2022 đôi vơi bi cao Cao Minh L do có kháng cáo của bị cáo đôi vơi Ban an hinh sư sơ thâm sô : 116/2021/HSST ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố BL, tỉnh BL.
Bị cáo có kháng cáo:
- Họ và tên: CAO MINH L, sinh ngày 05/10/1978, tại ST;
Nơi cư trú: ấp Nàng R, thị trấn Phú L, huyện T, tỉnh ST; Nghề nghiệp: Mua bán; Trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Minh Đ, sinh năm 1952 và bà Tăng Thị U, sinh năm 1952; bị cáo có vợ tên Nguyễn Bích P, sinh năm 1980 (đã ly hôn) và có 02 người con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 15/7/2011 bị Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử phạt 02 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Bị cáo tại ngoại (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tháng 11 năm 2017, Cao Minh L mua một xe ô tô tải nhãn hiệu CHEVROLET. Ngày 06/11/2017, được Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ Công an tỉnh Sóc Trăng cấp biển kiểm soát 83C-059.08 và giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số: 008693, tên chủ xe: CAO MINH L. Do cần tiền để kinh doanh Cao Minh L làm hồ sơ vay thế chấp tài sản là xe ô tô nói trên với Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - Chi nhánh Tiền Giang vay số tiền 647.000.000 đồng. Phía Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - Chi nhánh Tiền Giang giữ bản chính giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô này và giao lại cho Lợi 01 bản phô tô có chứng thực để sử dụng. Hiện tại Cao Minh L chưa tất toán hợp đồng nhưng vẫn thực hiện trả vốn lẫn lãi đầy đủ cho ngân hàng theo định kỳ.
Khoảng tháng 10 năm 2018, Cao Minh L sử dụng số điện thoại 0942888079 của mình liên hệ với một tài khoản Zalo khác (không nhớ tên cụ thể) để thuê làm giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô giả và gửi kèm bản phô tô giấy chứng nhận xe ô tô nói trên cho bên nhận làm giả, khoảng 04 ngày sau L nhận được 02 giấy chứng nhận đã đặt làm trước đó.
Tháng 01 năm 2019, Cao Minh L sử dụng một giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô giả để thế chấp vay tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh BL (gọi tắt là BIDV BL). Do không biết là giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô giả nên ngày 28/01/2019, Lợi được Ngân hàng BIDV BL cho vay số tiền 350.000.000 đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng L đã thực hiện nghĩa vụ trả lãi đúng thỏa thuận. Ngày 20/01/2021 Cao Minh L đã tất toán xong hợp đồng với Ngân hàng BIDV BL, Ngân hàng xác định không có thiệt hại đối với hợp đồng vay này.
Đến tháng 4 năm 2019, do cần tiền để kinh doanh, Cao Minh L tiếp tục sử dụng giấy chứng nhận đăng ký xe giả còn lại để vay thế chấp tài sản là xe ô tô biển kiểm soát 83C-059.08 cho Ngân hàng TMCP Phương Đông – Chi nhánh BL (gọi tắt là Ngân hàng Phương Đông chi nhánh BL) theo hợp đồng số: ST19006030/2019/PTB/HĐTD, ngày 22/4/2019 với hạn mức cho vay 400.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng Công chứng viên phát hiện thông tin trên giấy chứng nhận đăng ký xe do Cao Minh L cung cấp sai lệch nên Ngân hàng nghi ngờ L có hành vi lừa đảo nên đã tố giác với cơ quan Công an. Qua làm việc Cao Minh L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản kết luận giám định số 67/GĐ-2019 ngày 16/6/2019, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BL kết luận: Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô thu tại Ngân hàng BIDV BL là giấy giả, không xác định được thời gian làm giả; Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô thu tại Ngân hàng Phương Đông – BL là giấy giả, không xác định được thời gian làm giả; Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô thu tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Tiền Giang là giấy thật.
Tại bản kết luận giám định bổ sung số 26/GĐ-2020 ngày 17/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BL kết luận: Chữ ký ghi họ tên Đại tá Đặng Hoàng On trên mẫu cần giám định và chữ ký ghi họ tên Đại tá Đặng Hoàng On trên mẫu so sánh không do cùng một người ký ra; Hình con dấu Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ - Công an tỉnh Sóc Trăng trên mẫu cần giám định và hình con dấu Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ - Công an tỉnh Sóc Trăng trên mẫu so sánh không do cùng một con dấu đóng ra.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 18/KL–HĐĐGTS ngày 14/02/2020 và số 60/KL–HĐĐGTS ngày 15/5/2020 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố BL xác định: Giá trị thành tiền của 01 xe ô tô nhãn hiệu CHEVROLET, biển kiểm soát 83C-059.08, Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số: 008693, vào thời điểm ngày 28/01/2019 và ngày 22/4/2019 là 591.750.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 116/2021/HSST ngay 31 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố BL, tỉnh BL đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Cao Minh L, phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Cao Minh L 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Ngày 10/01/2022 bị cáo Cao Minh L kháng cáo xin giảm án và được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BL phát biểu quan điểm:
Đơn kháng cáo của bị cáo đúng về thủ tục, thời hạn nên cấp phúc thẩm chấp nhận và đưa ra xét xử là đúng quy định.
Về nội dung: Căn cứ vào lời khai bị cáo Cao Minh L tại phiên tòa phúc thẩm cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có căn cứ xác định: Vào tháng 10/2018, thông qua mạng xã hội Zalo bị cáo L đã thuê làm 02 giấy chứng nhận xe ô tô giả, biển số 83C-059.08. Vào tháng 01 và tháng 4/2019 bị cáo Cao Minh L đã dùng 02 giấy đăng ký xe ô tô giả nêu trên lần lượt thế chấp xe để vay tiền tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh BL và Ngân hàng TMCP Phương Đông – Chi nhánh BL. Bị cáo đã 02 lần sử dụng giấy tờ giả để thực hiện hành vi trái pháp luật. Do đó, bản án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự là có căn cứ; điều luật có khung hình phạt từ 02 năm đến 05 năm tù. Bị cáo đã 02 lần phạm tội nên cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt ở mức khởi điểm là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo phạm tội nhiều lần nên không đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bị cáo có hành vi gian dối dùng giấy tờ giả để thế chấp vay tiền tại 02 Ngân hàng. Nhưng quá trình điều tra không chứng minh được bị cáo có mục đích chiếm đoạt nên cấp sơ thẩm không xử lý bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là phù hợp.
Từ nhận định trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Minh L, giữ nguyên hình phạt án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Cao Minh L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu trên. Lời khai của bị cáo là phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm, phù hợp với Kết luận giám định cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có căn cứ chấp nhận.
[2] Từ đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Trong tháng 01 và tháng 4 năm 2019 bị cáo Cao Minh L đã sử dụng 02 giấy chứng nhận đăng ký xe giả, thế chấp tài sản là xe ô tô biển kiểm soát 83C-059.08 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh BL và Ngân hàng Phương Đông chi nhánh BL để vay tiền. Hành vi nêu trên của bị cáo Cao Minh L là trái pháp luật, không những đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an của xã hội, đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự. Do đó, bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố BL đã xử phạt bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Cao Minh L, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo là người có nhân thân không tốt, đã từng bị xử lý hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, trong vụ án này, bị cáo phạm vào tội thuộc trường hợp nghiêm trọng và phạm tội nhiều lần nên không đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại khoản 2 Điều 2 và khoản 5 Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, bị cáo đã tất toán xong hợp đồng với Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh BL; sau khi bị phát hiện sử dụng giấy tờ giả bị cáo đã tự nguyện hủy hợp đồng với Ngân hàng Phương Đông chi nhánh BL. Do đó, chỉ cần xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo.
[4] Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Cao Minh L, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; không chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BL.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Cao Minh L kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí.
[6] Các phần Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Cao Minh L. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 116/2021/HSST ngay 31 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố BL, tỉnh BL về hình phạt.
2. Tuyên bố bị cáo Cao Minh L, phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
3. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Xử phạt Cao Minh L 02 (hai) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
4. Về án phí: Bị cáo Cao Minh L không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
5. Các phần Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 19/2022/HS-PT
Số hiệu: | 19/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về