TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 32/2022/HS-ST NGÀY 18/02/2022 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Trong ngay 18 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Huế xét xử sơ thâm công khai vu an hình sự sơ thẩm thụ lý số : 302/2021/HSST ngay 30 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 274/2022/QĐXXST-HS ngay 04 tháng 01 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2022/HSST-QĐ ngày 19 tháng 01 năm 2022, Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 21/TB-TA ngày 09 tháng 02 năm 2022, đôi vơi bi cáo:
Tôn Anh L (Tên gọi khác: G), sinh ngày 25 tháng 12 năm 1995 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú: Số 33/4/8 Đường A, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Thợ sắt; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tôn Anh V và bà Hồ Thị H; có vợ: Ngô Thị N và 2 con, con lớn sinh năm 2016 và con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Lúc nhỏ sống với cha mẹ, đi học hết lớp 06/12 thì nghỉ học phụ giúp gia đình; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 01/9/2021 cho đến nay, có mặt.
- Bị hại: Chị Ngô Thị Thu P, sinh năm 1990. Nơi cư trú: Số 21 Đường P, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Tôn Anh V, sinh năm 1964. Nơi cư trú: Số 33/4/8 Đường A, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người làm chứng: Chị Ngô Thị N, sinh năm 1998. Nơi cư trú: Số 21 Đường P, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do nảy sinh mâu thuẫn vợ chồng giữa Tôn Anh L và Ngô Thị N nên chị N bỏ về nhà mẹ mình tại 21 Đường P, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế để ở. Ngày 20/6/2021, L lên nhà mẹ vợ tìm N nhưng không thấy và có hành vi quậy phá tại đây. Ngô Thị Thu P (chị em chú bác với N) ở cạnh đó báo cho N biết nên N điện thoại và nhắn tin chửi bới L. Nghĩ vợ mình bị P xúi giục nên L nảy sinh mâu thuẫn với chị P.
Khoảng 15 giờ ngày 22/6/2021, L mang theo một cây rựa có đặc điểm: dài khoảng 45cm, lưỡi bằng kim loại có móc nhọn, cán bằng gỗ rồi điều khiển xe mô tô 75B1-357.17 (xe đứng tên Tôn Anh V – bố L) đi lên nhà tìm chị P. Khi đến nhà chị P, thấy nhà không có người, cửa khóa, L đi ra phía sau, dùng rựa mang theo đập phá cửa hông để vào nhà. Vào trong nhà, L dùng rựa đập phá tủ thờ và những vật dụng trên tủ cho hả giận rồi bỏ về. Khi trở về, chị P phát hiện nhà mình bị đập phá nên trình báo Công an.
* Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 cây rựa có đặc điểm: dài khoảng 45cm, lưỡi bằng kim loại có móc nhọn, cán bằng gỗ.
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, đăng ký biển kiểm soát 75B1-356.17, màu đen, đã qua sử dụng - 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 75B1-356.17 tên Tôn Anh V và sổ hộ khẩu gia đình do Tôn Anh V là chủ hộ.
- 01 giấy CMND số 191899277 do Công an tỉnh Thừa Thiên Huế cấp ngày 02/4/2018 cho Tôn Anh L.
- 02 cây đèn bát thờ bằng gỗ cao 70cm, đường kính 20cm đã bị hư hỏng.
- 02 bát xông trầm, 01 quả bồng và 15 cái ly nhỏ đều bằng sứ đã bị hư hỏng.
- 01 bát giang bằng đồng không bị hư hỏng.
Tại Bản kết luận giám định số 154/KL-HĐĐGTS ngày 12/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H đã xác định giá trị thiệt hại là:
- 02 cây đèn bát thờ bằng gỗ cao 70cm, đường kính 20cm đã bị hư hỏng: 3.000.000 đồng.
- 02 bát xông trầm bằng sứ bị vỡ hoàn toàn: 50.000 đồng.
- 01 quả bồng bằng sứ bị vỡ hoàn toàn: 30.000 đồng - 15 cái ly nhỏ bằng sứ bị vỡ hoàn toàn: 100.000 đồng - 01 tủ thờ bằng gỗ bị đập sứt mẻ 01 vết: 500.000 đồng - 01 lá cửa gỗ bị phá hỏng 01 ô nhỏ có diện tích 0,12 x 0,57: 50.000 đồng.
* Về xử lý vật chứng:
- Đối với 02 cây đèn bát thờ bằng gỗ cao 70cm, đường kính 20cm đã bị hư hỏng, 02 bát xông trầm, 01 quả bồng và 15 cái ly nhỏ đều bằng sứ đã bị hư hỏng, 01 bát giang bằng đồng không bị hư hỏng: Sau khi định giá tài sản, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 183A ngày 01/10/2021 trả lại cho chị Ngô Thị Thu P.
- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, đăng ký biển kiểm soát 75B1- 356.17, màu đen, đã qua sử dụng; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 75B1-356.17 tên Tôn Anh V và sổ hộ khẩu gia đình do Tôn Anh V là chủ hộ: Trong quá trình điều tra xác định ông V không biết việc L sử dụng để phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 94A ngày 01/10/2021 trả lại cho ông Tôn Anh V.
- Đối với 01 giấy CMND số 191899277 do Công an tỉnh Thừa Thiên Huế cấp ngày 02/4/2018 cho Tôn Anh L là giấy tờ cá nhân của bị cáo nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 94A ngày 01/10/2021 trả lại cho bị cáo.
* Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo đã bồi thường cho chị Ngô Thị Thu P số tiền 3.730.000 đồng, chị P có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại Cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 391/CT-VKS-HS ngày 26/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế truy tố Tôn Anh L về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tôn Anh L phạm tôi “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điêu 178 của Bô luât hinh sư.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Tôn Anh L từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng.
Về xử lý vật chứng: Đối với 01 cây rựa có đặc điểm dài khoảng 45cm, lưỡi bằng kim loại có móc nhọn, cán bằng gỗ, là Phương tiện phạm tội của bị cáo, không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho chị Ngô Thị Thu P số tiền 3.730.000 đồng, không ai có yêu cầu gì thêm nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đây đu, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố H, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H và người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan này trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Do có mâu thuẫn nghi ngờ chị Ngô Thị Thu P xúi giục chị Ngô Thị N (là vợ của bị cáo) gọi điện thoại, nhắn tin chửi bới mình, nên khoảng 15 giờ ngày 22/6/2021, tại nhà chị Ngô Thị Thu P, số 21 Đường P, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Tôn Anh L đã có hành vi đập phá tài sản của chị P có tổng giá trị thiệt hại là 3.730.000 đồng (Ba triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng). Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Tôn Anh L về tôi “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy đinh tai khoản 1 Điêu 178 Bô luât hinh sư là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thấy rằng:
Bị cáo là người có đủ năng L trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng bản chất nóng nảy, không làm chủ được bản thân, xem thường pháp luật dẫn đến việc phạm tội. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền tài sản của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Do vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử và tuyên phạt mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra là cần thiết để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy tại thời điểm phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nơi cư trú ổn định nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đã đủ tác dụng răn đe.
[5] Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, thu nhập không ổn định nên miễn khấu trừ thu nhập để sung công quỹ Nhà nước nhưng cần buộc bị cáo phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ theo yêu cầu của Chính quyền địa phương và phải thực hiện nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.
[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 cây rựa có đặc điểm dài khoảng 45cm, lưỡi bằng kim loại có móc nhọn, cán bằng gỗ, là Phương tiện phạm tội của bị cáo, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho chị Ngô Thị Thu P số tiền 3.730.000 đồng, không ai có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1/ Tuyên bố bị cáo Tôn Anh L phạm tội: "Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
- Căn cứ khoản 1 Điều 178; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Tôn Anh L 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.
Giao bị cáo Tôn Anh L cho Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo .
Trường hợp bị cáo Tôn Anh L thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát bị cáo thực hiện theo Điều 92 Luật thi hành án hình sự năm 2019.
Buộc bị cáo Tôn Anh L phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ theo yêu cầu của Chính quyền địa phương và thực hiện nghĩa vụ quy định tại Luật Thi hành án hình sự.
2/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự; tịch thu tiêu hủy 01 cây rựa có đặc điểm dài khoảng 45cm, lưỡi bằng kim loại có móc nhọn, cán bằng gỗ (như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H và cơ quan Thi hành án thành phố H ngày 29/11/2021).
3/ Về án phí: Áp dụng các Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Tôn Anh L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.
Bản án về tội ố ý làm hư hỏng tài sản số 32/2022/HS-ST
Số hiệu: | 32/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/02/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về