Bản án về tội nhận hối lộ số 192/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 192/2024/HS-PT NGÀY 14/03/2024 VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ

Ngày 14/3/2024, tại Điểm cầu trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và Điểm cầu thành phần: Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn, mở phiên toà xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai, vụ án hình sự thụ lý số 116/2024/TLPT-HS ngày 26/01/2024. Do có kháng cáo của bị cáo Lưu Việt D, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2023/HS-ST ngày 14/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn.

* Bị cáo có kháng cáo: Lưu Việt D (tên gọi khác: Không), sinh ngày 25/8/1989, tại Bắc K; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 11C, phường Đức X, thành phố Bắc K, tỉnh Bắc K; nghề nghiệp trước khi phạm tội: Điều tra viên Công an huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn (đã bị tước danh hiệu Công an nhân dân theo Quyết định số 2983/QĐ-CAT-PX01 ngày 28/11/2022 của Giám đốc Công an tỉnh Bắc Kạn); trình độ học vấn: 12/12; trình độ chuyên môn: Đại học; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Minh Đ và bà Vi Thị D; vợ Hoàng Thị Vân A và có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/11/2022 đến nay; hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Kạn; có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Hải N và ông Trần Văn B - Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH T; Vắng mặt. Bị cáo từ chối Luật sư tại phiên tòa.

* Trong vụ án còn có: Bị cáo Sằm Văn B và một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng không kháng cáo, không liên quan đến nội dung kháng cáo, nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 19/02/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn bắt quả tang vụ đánh bạc xảy ra tại Bản He, xã Xuân Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn; ra lệnh tạm giữ các đối tượng Đồng Thanh Toàn, Triệu Văn Ổn, Nguyễn Tiến D, Trần Văn B, Lô Văn Th, Đằng Văn Hòa, Trịnh Văn D, Dương Xuân D và gia hạn tạm giữ đến ngày 01/3/2022 đối với các đối tượng trên. Ngày 25/02/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1, Điều 321 Bộ luật Hình sự; phân công ông Trần Việt Đông - Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra chỉ đạo; các Điều tra viên Lưu Việt D, Sằm Văn B và một số cán bộ tiến hành điều tra vụ án. Quá trình điều tra vụ án, lợi dụng nhiệm vụ được phân công Lưu Việt D đã thông qua một số người quen của người bị tạm giữ đưa ra thông tin: Muốn không bị tạm giam thì gia đình mỗi người phải nộp 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) thì được tại ngoại, cụ thể:

Đối với trường hợp của Trần Văn B ở tiểu khu 2, thị trấn Nà Phặc, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn: Ngày 27/02/2022, chị Nông Thị Lê (vợ của B) nhận được một cuộc điện thoại của người đàn ông không quen biết, nói: Mang 30.000.000 đồng đến Công an huyện Chợ Đồn thì hết ngày 28/02/2022 B sẽ được thả. Do không có đủ tiền, chị Lê vay của chị Hoàng Thị Yến, giáo viên trường THCS Nà Phặc 6.000.000 đồng và chị Bế Thị Kiều, ở gần nhà 5.000.000 đồng (chuyển khoản vào số tài khoản 8604205001079 của chị Lê). Chị Lê nhờ cháu Phạm Thị Trang Ly rút tiền mặt và đưa cho chị Lý Thị U, phường Phùng Chí Kiên, thành phố Bắc Kạn (là chị dâu của B) 30.000.000 đồng và nhờ chị U mang tiền sang Công an huyện Chợ Đồn giúp. Sau khi nhận từ Ly số tiền 30.000.000 đồng, chị U cùng con gái là Trần Lý Khánh Huyền, sinh năm 2015, đến Công an huyện Chợ Đồn khoảng 16 giờ ngày 27/02/2022. Cháu Huyền ngồi trên xe ở ngoài cổng chờ, một mình chị U vào khai báo tại trực ban, đăng ký gặp đồng chí D và được chỉ vào phòng làm việc của Đội hình sự. Chị U đi vào thì có một cán bộ hỏi U đến làm gì, U trả lời: Đến công việc của B, thì được chỉ vào một căn phòng ở tầng 1, dãy nhà ngang (cạnh phòng trực ban). Tại đây, chị U nói chuyện với Lưu Việt D và được yêu cầu để lại túi xách và điện thoại di động. Sau đó, Lưu Việt D bảo Sằm Văn B (khi đó đang làm việc ở phòng bên cạnh) nhận tiền của chị U. Sằm Văn B dẫn chị U sang phòng làm việc chung của Đội Cảnh sát hình sự, B cầm tờ giấy A4 rồi viết “Người nhà của ai”, chị U đọc và trả lời “Là người nhà của Trần Văn B, đến lo việc cho B”. B viết tiếp “Có đem theo gì không”, chị U gật đầu. B viết “Cho vào ngăn kéo”. Do để túi xách và điện thoại ở phòng làm việc sát với phòng trực ban, chị U quay lại nơi để túi và điện thoại, lấy túi nilon chứa phong bì đựng 30.000.000 đồng, đi sang phòng gặp Sằm Văn B, kéo ngăn kéo bàn ra, để tiền vào rồi ra xe đi về. Sau khi chị U ra khỏi phòng, B mở ngăn kéo lấy tiền cất vào tủ cá nhân rồi ra phòng làm việc lớn tiếp tục làm việc.

Đối với các trường hợp Trịnh Văn D, trú tại thôn Cốc Tộc, xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể; Nguyễn Tiến D, trú tại thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể; Dương Xuân D, trú tại thôn Bản Nản, xã Khang Ninh, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn: Trưa ngày 27/02/2022, bà Trương Thị D (mẹ của D) nhận được điện thoại của một người đàn ông không quen biết, nói: Muốn D được tại ngoại thì chuẩn bị 30.000.000đ mang đến Công an huyện Chợ Đồn ngay trong ngày. Người này nhờ bà D thông báo cho chị Hoàng Thị N (là vợ của Dương Xuân D) và chị Nguyễn Thị H (là vợ của Nguyễn Tiến D) và cho bà D số điện thoại 098106xxxx để khi đến Công an huyện thì gọi liên lạc. Bà D gọi điện thông báo cho chị N biết. Còn chị H, do không quen biết và không có số điện thoại, bà D đã bảo em trai là Trương Thanh T gọi, nói chuyện: Phải mang 30.000.000 đồng trong ngày 27/02/2022 đưa Công an huyện Chợ Đồn, nếu không chồng của chị sẽ bị tạm giam. Bà D nói: Thống nhất rồi thì chuẩn bị tiền cùng nhau đi lo luôn. Chị N xin số điện thoại của chị H từ bà D để gọi, nói chuyện và thống nhất là chị H sẽ thuê xe ô tô đi ra đón chị N rồi qua đón người nhà bà D để cùng đi sang Công an huyện Chợ Đồn. Khoảng 19 giờ ngày 27/02/2022, anh Đồng Minh T, ở thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, điều khiển xe ô tô BKS 97A-054.22 do chị H thuê, đi đón chị N sau đó đi đón ông Trịnh Văn K (là chồng bà D, bố của Trịnh Văn D) rồi đi thẳng đến Công an huyện Chợ Đồn.

Đối với Sằm Văn B, sau khi nhận tiền 30.000.000 đồng của chị Lý Thị U, B ngồi làm việc tại phòng, khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau Lưu Việt D nói với B: Để ý điện thoại, tối có hội Ba Bể gọi thì tiếp họ và nhận tiền, B đồng ý. Khi Đồng Minh T lái xe đến gần Công an huyện Chợ Đồn, ông K gọi điện thoại vào số máy 098106xxxx (số máy của Sằm Văn B do bà D cung cấp) thì B bảo đi thẳng vào Công an huyện. B đi ra cửa phòng làm việc của Đội cảnh sát hình sự, vẫy ông K vào trước, dẫn ông K vào phòng làm việc ở dãy nhà ngang. B cầm bút viết vào tờ giấy A4 “Người nhà của ai” và đưa ông K đọc. Ông K nói “Trịnh Văn D”, B viết tiếp dòng chữ “Để tiền vào ngăn kéo”, rồi chỉ tay vào ngăn kéo bàn đã mở sẵn. Ông K lấy phong bì có 30 triệu đồng để vào ngăn kéo rồi đi ra ngoài và bảo chị H đi vào phòng. Khi chị H đi vào phòng, B chỉ tay vào một tờ giấy để trên bàn có ghi sẵn chữ: “Người nhà của ai”, chị H nói: “Em là vợ của anh D, đến lo việc cho anh D”. B tiếp tục cho đọc dòng chữ “Để tiền vào ngăn kéo” và chỉ tay vào ngăn kéo bàn đã mở sẵn. Chị H hiểu ý, lấy phong bì bên trong có 30.000.000 đồng để vào ngăn kéo bàn rồi đi ra (Mặt trước phong bì có in dòng chữ CÔNG AN HUYỆN CHỢ ĐỒN, Kính gửi: Bà Nguyễn Thị H. Đây là phong bì của Công an huyện Chợ Đồn gửi cho chị H, thông báo việc tạm giữ Nguyễn Tiến D. Chị H đã ghi chữ “dầu hào, ống áo, bóng đèn, găng tay” vào mặt trước. Kết quả khám xét, Cơ quan điều tra đã thu giữ vỏ phong bì này trong tủ làm việc của Sằm Văn B). Khi chị H đi ra thì chị N đi vào phòng. Chị N thấy trên bàn có 01 tờ giấy A4 và 01 chiếc bút. Trên giấy ghi:

D, D theo hàng dọc. Chị N hiểu là ghi tên người nhà bị tạm giữ nên chị N viết chữ D (bên dưới). Chị N có hỏi Sằm Văn B là: Chạy tiền có chắc chắn mai chồng chị được về không? B lấy bút viết lên giấy: Chắc chắn ngày mai được về. Chị N lấy tiền ra đếm đủ 30.000.000 đồng thì B chỉ tay vào ngăn kéo. Chị N tự mở ngăn kéo ra, cho tiền vào rồi đi ra. Sau đó cả ba người lên xe ô tô đi về. Sau khi 03 người ở huyện Ba Bể về, Sằm Văn B mở ngăn kéo bàn lấy tiền cất vào tủ cá nhân tại cơ quan, rồi ra phòng làm việc lớn làm việc tiếp. Khoảng 21 giờ cùng ngày, B bóc phong bì ra đếm được 120.000.000 đồng, cho vào một túi bóng đen đưa sang phòng cho Lưu Việt D.

Nhưng D nói “Ông cứ cầm đi” nên B lại mang cất trong tủ cá nhân. Ngày 28/02/2022, sau khi làm việc xong với các đối tượng vụ đánh bạc, khoảng 20 giờ, Sằm Văn B cầm số tiền trên đưa cho D thì D bảo “Mai nhận nốt tiền của Lô Văn Th rồi đưa” nên B lại cất tiền vào tủ cá nhân.

Ngày 28/2/2022, Lưu Việt D viết “Báo cáo đề xuất” gửi Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn, đề xuất hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giữ đối với Lô Văn Th, Trần Văn B, Trịnh Văn D, Nguyễn Tiến D, Đằng Văn Hòa, Dương Xuân D và trình Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra ký Công văn số 54/ĐN-CSĐT-HS ngày 28/02/2022 “Đề nghị Viện KSND huyện Chợ Đồn hủy bỏ biện pháp ngăn chặn”. Trên cơ sở công văn đề nghị này, Viện KSND huyện Chợ Đồn đã ra quyết định trả tự do cho những người bị tạm giữ nêu trên trước khi hết thời hạn tạm giữ.

Đối với trường hợp của Lô Văn Th, sinh năm 1973, trú tại Khu Chợ 2, xã Bằng Vân, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Chiều tối ngày 28/02/2022, trong lúc chờ làm thủ tục cho tại ngoại tại phòng làm việc chung của Đội cảnh sát hình sự, Lưu Việt D gọi riêng Th ra ngoài sân và nói: Anh Th chuẩn bị 30.000.000 nhé, mai xuống làm việc, vẫn đang trong giai đoạn điều tra tôi có thể bắt anh lại. Nghe vậy, anh Th đồng ý và được cho về. Th đi nhờ cùng xe ô tô với Trần Văn B (đối tượng tham gia đánh bạc và bị bắt cùng Lô Văn Th) do gia đình B đến đón. Th kể lại việc Lưu Việt D yêu cầu chuẩn bị 30.000.000 đồng cho B nghe. Về đến nhà, Th kể cho vợ là Lý Thị Bảy việc Công an yêu cầu nộp tiền để được tại ngoại. Chị Bảy nói trước đó có vay của chị Lô Thị Lý 40.000.000 đồng dự định cho con đi học và mua cây giống, thuê người trồng cây, bảo Th mang đi lo việc trước. Sáng ngày 01/3/2022, Th mang 30.000.000 đồng, đi ô tô cùng Trần Văn B xuống Công an huyện Chợ Đồn gặp Lưu Việt D nói đã mang tiền đến nộp. D bảo, lát mang qua cho Sằm Văn B. Sau khi làm việc xong, Th đi sang phòng làm việc (phòng lớn) của Đội cảnh sát hình sự gặp B thì B bảo sang phòng nhỏ tại tầng 1, trong phòng chỉ có hai người, Th đưa phong bì có 30.000.000 đồng cho Sằm Văn B, không ai nói gì, sau đó Th đi về. Trên đường về, Th kể cho Trần Văn B việc Th đưa 30.000.000 đồng cho cán bộ Công an huyện Chợ Đồn.

Đến khoảng 23 giờ ngày 01/3/2023, Sằm Văn B cầm túi nilon đựng tiền sang phòng đưa cho D và nói “05 người, tổng cộng 150.000.000 đồng”, D nhận và cất vào tủ cá nhân trong phòng làm việc.

Tháng 3/2022, Sằm Văn B đưa vợ đi khám tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Kạn, Lưu Việt D đến gặp và đưa cho B 10.000.000 đồng trong số tiền đã nhận của gia đình các đối tượng đánh bạc. Cơ quan điều tra đã thu lại số tiền này, chuyển theo hồ sơ vụ án.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2023/HS-ST ngày 14/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lưu Việt D phạm tội “Nhận hối lộ”. Áp dụng điểm c, g khoản 2 Điều 354; các điểm b, s, v khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 54, Điều 17 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lưu Việt D 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 28/11/2022. Ngoài ra, Bản án còn tuyên tội danh và hình phạt đói với Sằm Văn B, quyết định xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 27/12/2023, bị cáo Lưu Việt D kháng cáo giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lưu Việt D giữ nguyên nội dung kháng cáo. Bị cáo thừa nhận bản án sơ thẩm quy kết về hành vi phạm tội là đúng pháp luật, không oan. Bị cáo cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới, trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, con nhỏ, bố mẹ già yếu và bị bệnh, lao động chính trong gia đình… Đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt xuống mức thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thị Quỳnh Trâm về tội “Buôn lậu” theo điểm c, g khoản 2 Điều 354 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; về hình phạt xử phạt 04 (Bốn) năm tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị chấp kháng cáo và sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Giảm một phần hình phạt cho bị cáo từ 03 tháng đến 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định, nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Tại phiên tòa, do Luật sư vắng mặt không có lý do, bị cáo D từ chối Luật sư bào chữa.

[2]. Về hành vi phạm tội: Bị cáo Lưu Việt D thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm quy kết. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo Sằm Văn B, lời khai của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, các chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với kết luận của cấp sơ thẩm như sau: Bị cáo Lưu Việt D là Đội trưởng đội điều tra, thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn được phân công thụ lý giải quyết vụ án Đánh bạc, xảy ra ngày 19/02/2022 tại Bản He, xã Xuân Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Lợi dụng nhiệm vụ được phân công, Lưu Việt D đã có hành vi yêu cầu người nhà các đối tượng đánh bạc nộp tiền thì sẽ cho tại ngoại, D chỉ đạo Sằm Văn B nhận tiền của 05 gia đình người nhà các đối tượng đánh bạc, tổng số tiền 150.000.000 đồng. Sau khi gia đình nộp đủ tiền, D đã đề xuất hủy bỏ biện pháp tạm giữ, các bị can trong vụ án đánh bạc là Nguyễn Tiến D, Trần Văn B, Lô Văn Th, Trịnh Văn D và Dương Xuân D được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giữ. Hành vi của Lưu Việt D đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Nhận hối lộ”, vi phạm tình tiết định khung: “Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” và “Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt” theo điểm c, g khoản 2 Điều 354 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo tội danh, điểm, khoản, điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với hành vi của Sằm Văn B bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và xử phạt là có căn cứ, đúng pháp luật. Bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo giảm nhẹ hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến uy tín và hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến uy tín, niềm tin của nhân dân đối với cơ quan tư pháp, gây dư luận xấu cho hoạt động của cơ quan có thẩm quyền, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Lợi dụng nhiệm vụ được phân công để nhận số tiền hối lộ là 150.000.000đ. Do vậy, cấp phúc thẩm đồng tình cần có hình phạt thỏa đáng, việc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội là cần thiết, nhằm giáo dục riêng và phòng người tội phạm nói chung. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm xem xét đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội, phân hóa đúng vai trò của bị cáo, áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đồng thời áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lưu Việt D 04 (Bốn) năm tù là thỏa đáng. Tại cấp phúc thẩm, ngoài những tình tiết giảm nhẹ đã được áp dụng, bị cáo thành khẩn nhận tội, thực sự ăn năn hối cải, trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, cung cấp tình tiết có thành tích trong công tác: Xác nhận của Công an tỉnh Bắc Kạn bài viết đưa tin công tác báo chí; Quyết định tặng Giấy khen của Giám đốc Công an tỉnh Bắc Kạn năm 2020, 2021; Quyết định khen tưởng đột xuất Giấy khen của Giám đốc Công an tỉnh Bắc Kạn năm 2020; Đơn đề nghị xin giảm nhẹ của nhiều đồng nghiệp công tác cùng đơn vị; Đơn được chính quyền địa phương xác nhận hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ già yếu, mẹ tai nạn mù vĩnh viễn một mắt, hai con nhỏ, lao động chính; quá trình công tác vợ bị cáo được tặng Bằng khen, Chiến sĩ thi đua cơ sở năm 2023; Bị cáo gửi đơn báo tin tố giác tội phạm đến cơ quan có thẩm quyền... Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới cần tiếp tục áp dụng cho bị cáo được hưởng. Do vậy, có căn cứ chấp nhận kháng cáo để giảm một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội có nhiều thành tích trong công tác, biết ăn năn hối cải, nhưng vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[5]. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ, lập luận và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở, được chấp nhận.

[6]. Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lưu Việt D.

[2]. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2023/HS-ST ngày 14/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn, cụ thể như sau:

Tuyên bố bị cáo Lưu Việt D phạm tội: “Nhận hối lộ”.

Áp dụng điểm c, g khoản 2 Điều 354; các điểm b, s, v khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lưu Việt D 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 28/11/2022.

[3]. Về án phí: Bị cáo Lưu Việt D không phải nộp án phí phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
  • Tên bản án:
    Bản án về tội nhận hối lộ số 192/2024/HS-PT
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    192/2024/HS-PT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    14/03/2024
  • Từ khóa:
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội nhận hối lộ số 192/2024/HS-PT

Số hiệu:192/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành:
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;