Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 67/2022/HS-ST NGÀY 03/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2022/QĐXXST-HS ngày 23/5/2022 đối với các bị cáo:

1. Phạm Nguyên V (tên gọi khác: T, Xấu T), sinh năm 1990 tại Ninh Thuận; Hộ khẩu thường trú: Khu phố 5, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nơi ở hiện nay: Khu phố 3, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ V hóa 09/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ông Phạm V M (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; Có vợ Lê Thị Xuân Hoa Anh Đ (đã ly hôn) và 02 con; Tiền sự: không.

Tiền án:

- Ngày 17/01/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/01/2019.

- Ngày 07/11/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/5/2021.

Nhân thân: Ngày 26/7/2013, bị Công an phường Mỹ Đông xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000 đồng về hành vi đánh nhau.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/12/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh thuận (có mặt).

2. Võ Thị Thanh T, sinh năm 2001 tại Ninh Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 5, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: không; Trình độ V hóa 05/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ V L và bà Bùi Thị H. Chồng, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/12/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh thuận (có mặt).

- Người làm chứng:

Anh Lê V T, sinh năm 2001.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 28/12/2021, tại ngã tư đường Nguyễn Khoái - đường 16/4, thuộc khu phố 4, phường Mỹ Hải, TP. Phan Rang - Tháp Chàm, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Ninh Thuận phối hợp Công an phường Mỹ Hải bắt quả tang Võ Thị Thanh T đang cầm trong lòng bàn tay phải: 01 gói nylon hàn kín và 01 gói nylon dạng miệng khép dính viền màu đỏ bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M1). Ngoài ra, còn tạm giữ: 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen và 01 xe mô tô hiệu Airblade, biển số: 85C1-39817.

Tại Cơ quan điều tra Võ Thị Thanh T khai nhận: 02 bịch nylon (ký hiệu M1) là ma tuý đá mà Cơ quan điều tra thu giữ là của T, T vừa mua của Phạm Nguyên V, khi T đang trên đường về nhà cất giấu để sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang.

Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Nguyên V tại khu phố 3, phường Mỹ Hải, TP. Phan Rang - Tháp Chàm, phát hiện, thu giữ: 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M2); 01 nỏ thuỷ tinh; 01 nắp chai nhựa màu đỏ đục 02 lỗ, 01 lỗ gắn một ống hút; 01 cuộn băng keo màu đen; 04 gói nylon dạng miệng kép viền màu đỏ. Ngoài ra còn tạm giữ: 01 thẻ ngân hàng Vietcombank mang tên Lê V T; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh; 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen; số tiền 1.600.000 đồng; 01 xe mô tô hiệu Honda, biển số: 85D1-49025.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Nguyên V khai nhận để có nguồn ma túy sử dụng, bán lại kiếm lời, V đã mua 02 lần, 02 bịch ma túy đá của một người đàn ông tên Vũ (Chưa xác định được nhân thân, lai lịch) ở khu vực phường Thanh Sơn, với giá: 900.000 đồng, sau đó phân chia ra thành nhiều bịch nhỏ cất giấu để sử dụng và bán lại kiếm lời.

Quá trình điều tra xác định, trong khoảng thời gian từ ngày 21/12/2021 đến ngày 28/12/2021, Phạm Nguyên V đã có 03 lần, bán 03 bịch ma túy đá cho Võ Thị Thanh T, thu được tổng số tiền là 700.000 đồng, cụ thể:

+ Lần 1: Khoảng 11 giờ ngày 21/12/2021, T dùng zalo tên “Kim Nhi” gọi qua zalo của V tên “Tuệ Phạm” hỏi mua 01 bịch ma tuý (đá) với giá 200.000 đồng, V đồng ý bán và hẹn đến nhà T tại khu phố 5, phường Mỹ Bình, TP. Phan Rang - Tháp Chàm để giao dịch. Một lúc sau, V đi xe mô tô biển số 85B1- 641.14 đến hàng rào nhà T. Tại đây, V bán cho T 01 bịch ma túy đá cất trong vỏ gói thuốc Jet với giá 200.000 đồng.

+ Lần 2: Khoảng 12 giờ ngày 23/12/2021, T dùng zalo tên “Kim Nhi” gọi qua zalo của V tên “Tuệ Phạm” hỏi mua 01 bịch ma tuý (đá) với giá 200.000 đồng, V đồng ý bán và hẹn đến đầu hẽm nhà V tại khu phố 3, phường Mỹ Hải, TP. Phan Rang - Tháp Chàm để giao dịch. Tại đây, V đã bán cho T 01 bịch ma túy (đá) cất trong vỏ gói thuốc Jet, với giá 200.000 đồng.

+ Lần 3: Khoảng 11 giờ ngày 28/12/2021, T dùng điện thoại di động hiệu Iphone, dùng zalo tên “Kim Nhi” gọi qua zalo của V tên “Tuệ Phạm” (V dùng điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh) hỏi mua 01 bịch ma tuý (đá) với giá 400.000 đồng, V đồng ý bán và hẹn đến nhà V tại khu phố 3, phường Mỹ Hải, TP. Phan Rang - Tháp Chàm để giao dịch. Một lúc sau, T điều khiển xe mô tô hiệu Airblade, biển số: 85C1-39817 đến nhà V; V dẫn T vào phòng ngủ. Tại đây, V bán cho T 02 bịch ma tuý đá, với giá 300.000 đồng, T đưa cho V số tiền 500.00 đồng (gồm: số tiền 300.000 đồng là tiền mua ma tuý và số tiền 200.000 đồng là tiền T trả nợ V mua dùm thẻ game). Sau khi mua được ma tuý, T cầm trong lòng bàn tay phải rồi điều khiển xe mô tô hiệu Airblade, biển số: 85C1-39817 chạy về nhà thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số: 17/KLGĐ-PC09 ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận, kết luận: Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nylon hàn kín và 01 gói nylon dạng miệng khép dính viền màu đỏ (ký hiệu M1) là Methamphetamine, có khối lượng: 0,2523g; Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nylon hàn kín (ký hiệu M2) là Methamphetamine, có khối lượng:

0,1035g. (Hoàn lại đối tượng sau giám định: Mẫu vật còn lại sau giám định M1 có khối lượng: 0,1768g, M2 có khối lượng: 0,0756g, cùng bao gói gửi đến giám định) Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung vụ án đã nêu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, hay khiếu nại gì về Kết luận giám định nêu trên.

Bản cáo trạng số 41/CT-VKSPRTC ngày 04/4/2022 của Viện kiểm sát TP. Phan Rang – Tháp Chàm, truy tố bị cáo Phạm Nguyên V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Truy tố bị cáo Võ Thị Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân TP. Phan Rang – Tháp Chàm giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Nguyên V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng: Điểm b, q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Nguyên V mức án từ 07 năm đến 08 năm tù; Bị cáo Võ Thị Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Thị Thanh T mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về vật chứng của vụ án và biện pháp tư pháp đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo pháp luật.

Các bị cáo không tranh luận, nói lời sau cùng:

Bị cáo Phạm Nguyên V: Bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị cáo Võ Thị Thanh T: Bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Trong khoảng thời gian từ ngày 21/12/2021 đến ngày 28/12/2021, trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Phạm Nguyên V đã 03 lần thực hiện hành vi bán trái phép 03 bịch ma túy cho Võ Thị Thanh T, thu được số tiền 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng) Phạm Nguyên V đã tái phạm, chưa được xoá án tích, nay lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm truy tố bị cáo Phạm Nguyên V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với hai tình tiết định khung phạm tội 02 lần trở lên và tái phạm nguy hiểm theo điểm b, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với Võ Thị Thanh T khoảng 11 giờ 50 phút ngày 28/12/2021, tại ngã tư đường Nguyễn Khoái - đường 16/4, thuộc khu phố 4, phường Mỹ Hải, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm bị Công an bắt quả tang về hành vi tàng trữ 0,2523 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng. Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm truy tố bị cáo Võ Thị Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội: Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Hành vi của các bị cáo xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy; Tội phạm về ma túy ngày một gia tăng trong thời gian gần đây, là nguyên nhân để gây ra các loại tội phạm khác.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên hôm nay, bị cáo V và bị cáo T thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình đây là tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự.

Ngoài ra, bị cáo Phạm Nguyên V tự nguyện nộp lại số tiền 700.000 đồng thu lợi bất chính từ hành vi mua bán trái phép chất ma tuý nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự.

[5] Về hình phạt chính:

Đối với bị cáo Phạm Nguyên V có 02 tiền án, chưa được xoá án tích nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân để trở thành công dân tốt, nay lại tiếp tục phạm tội, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thể hiện bị cáo là người xem thường pháp luật nên cần có hình phạt tương xứng đối với bị cáo Phạm Nguyên V để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Đối với bị cáo Võ Thị Thanh T có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, quá trình điều tra, xét xử thành khẩn khai báo nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo Phạm Nguyên V và bị cáo Võ Thị Thanh T không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là phù hợp.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- 01 gói niêm phong, bên trong có 0,2524g chất ma túy, loại Methamphetamine cùng bao gói gửi đến giám định; 01 nỏ thuỷ tinh; 01 nắp chai nhựa màu đỏ đục 02 lỗ, 01 lỗ gắn một ống hút; 01 cuộn băng keo màu đen; 04 gói nylon dạng miệng kép viền màu đỏ; đây là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải tịch thu tiêu huỷ.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen của bị cáo T; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh và số tiền 700.000 đồng của bị cáo V. Đây là công cụ sử dụng vào việc phạm tội và số tiền do bán ma túy mà có nên Hội đồng xét xử xét cần phải tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- Xe mô tô biển số 85B1- 641.14 của bị cáo Phạm Nguyên V, bị cáo V dùng làm phương tiện để đi bán ma tuý cho Võ Thị Thanh T vào ngày 21/12/2021. Ngày 22/12/2021 V đã cầm cố cho ông Đinh V Tính, quá thời hạn cầm cố tài sản V không đến lấy xe nên tháng 02/2022 ông Đinh V Tính đã bán cho cho một người tên Huy ở tỉnh Khánh Hoà nên cơ quan điều tra không truy tìm được.

- 01 thẻ ngân hàng Vietcombank của anh Lê V T, (sinh năm: 2001, trú tại: Thôn Đá Trắng, xã Phước Thái, huyện Ninh Phước). Đây là tài sản không liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử trả lại cho anh Lê V T là phù hợp pháp luật.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Airblade, biển số: 85C1-39817, bị cáo Võ Thị Phương T sử dụng để đi mua ma tuý, quá trình điều tra xác định thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn Ngọc Thanh (sinh năm: 1990, trú tại: Thôn Tri Thuỷ, xã Tri Hải, huyện Ninh Hải, là bạn của T). Khi cho T mượn xe mô tô nêu trên, anh Thanh không biết T sử dụng để làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Thanh là phù hợp pháp luật.

Cơ quan điều tra đã trả lại: 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen và số tiền 900.000 đồng cho Phạm Nguyên V; 01 xe mô tô hiệu Honda, biển số: 85D1-49025 anh Lê Văn D (sinh năm: 1994, trú tại: Thôn Đá Trắng, xã Phước Thái, huyện Ninh Phước, là em của V); Đây là các tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Nguyên V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bị cáo Võ Thị Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm b, q khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Nguyên V 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2021.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Võ Thị Thanh T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2021.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen số Imeil: 359218073042959 của bị cáo Võ Thị Thanh T; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh, loại màn hình cảm ứng, số Imeil 1:

358244100258880 của bị cáo Phạm Nguyên V; số tiền 700.000 đồng (Bảy trăm ngàn đồng) theo ủy nhiệm chi số 07 ngày 15/4/2022 của Kho bạc Nhà nước tỉnh Ninh Thuận, Trả lại 01 (một) thẻ ngân hàng Vietcombank (mang tên Lê V T) cho anh Lê V T.

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) gói niêm phong, bên trong có 0,2524g chất ma túy, loại Methamphetamine cùng bao gói gửi đến giám định; 01 (một) gói niêm phong bên trong có 01 (một) nỏ thuỷ tinh; 01 (một) gói niêm phong bên trong có 01 nắp chai nhựa màu đỏ đục 02 lỗ, 01 lỗ gắn một ống hút; 01 cuộn băng keo màu đen;

04 gói nylon dạng miệng kép dính viền màu đỏ (Theo biên bản giao nhận vật chứng lúc 15 giờ 00 phút, ngày 08/4/2022, giữa Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang – Tháp Chàm).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Nguyên V và bị cáo Võ Thị Thanh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 03/6/2022./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

97
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2022/HS-ST

Số hiệu:67/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;