TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 215/2022/HS-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 205/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 220/2022/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 8 năm 2022 đối với các Bị cáo:
1. Họ và tên: Lường Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1961 T Điện Biên; Nơi cư trú: Bản P, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá (học vấn): 7/10; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lường Văn T (đã chết) và Con bà: Quàng Thị P (đã chết); Vợ: Hà Thị X, sinh năm 1966; Bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1996; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 24/02/2014 Bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đ B xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 64/2014/HSST, Bị cáo đã được xóa án tích nhưng Bị cáo có nhân thân xấu.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 24/4/2022, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt T phiên tòa).
2. Họ và tên: Nguyễn Quang M; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1972 T Thái Bình; Nơi thường trú: Thôn T P, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Quang L (đã chết) và Con bà: Nguyễn Thị H (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1974; Bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1994, con nhỏ nhất sinh năm 2001; Tiền sự: Không; Tiền án: Có 01 tiền án, Ngày 22/9/2020 Bị cáo bị toà án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” T bản án số 215/2020/HSST ngày 22/9/2020. Ngày 09/8/2021 Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống, Bị cáo chưa được xoá án tích; Nhân thân: Ngày 30/7/1996, bị Công an huyện Đ B bắt và lập danh chỉ bản về hành vi Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nhưng không có tài liệu thể hiện hình thức xử lý đối với hành vi trên. Ngày 13/5/2008, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên ra Quyết định số 563/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng. Bị cáo đã chấp hành xong Quyết định trên.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 24/4/2022, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt T phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến T phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 24/4/2022, Lường Văn T đi bộ một mình từ nhà ở Bản P, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên mục đích để đi tìm mua Heroine về sử dụng và bán. Khi đi Bị cáo mang theo 200.000 đồng. Khi đi bộ đến khu vực cánh đồng thuộc bản P, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên thì Bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ). Bị cáo hỏi người đàn ông đó là: “Có Heroine bán không? Bán cho 200.000 đồng?”. Người đàn ông trả lời: “Có, đưa tiền đây tao bán cho”. Nghe vậy Bị cáo lấy tiền từ người ra 200.000 đồng đưa cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền rồi đưa lại cho Bị cáo 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, miệng gói được xoắn lại, Bị cáo cầm lấy xem qua và biết bên trong gói có Heroine rồi đồng ý mua. Mua bán xong người đàn ông đi đâu Bị cáo không biết. Bị cáo cất gói Heroine vừa mua được vào trong túi quần bên phải đang mặc, rồi đi bộ quay về nhà. Khi về đến nhà không thấy ai ở nhà, Bị cáo lấy gói Heroine cất giấu ở túi quần bên phải đang mặc ra và dùng tay cấu chia nhỏ gói Heroine đó thành 07 gói, các gói Bị cáo đều nhặt mảnh nilon màu trắng ở nhà gói lại và đều hơ lửa hàn kín miệng các gói lại, sau đó T cho 07 gói Heroine vừa chia được vào trong mảnh nilon màu xanh, gói Heroine ban đầu, rồi xoắn miệng gói Heroine lại, cất giấu gói Heroine đó vào trong túi quần bên phải đang mặc và sinh hoạt bình thưởng. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày Bị cáo đi bộ ra khu vực đường: Bản P, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên thì gặp Nguyễn Quang M; Sinh năm: 1972; Nơi thường trú: Thôn T P, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên. M hỏi Bị cáo là: “Có Heroine bán không? Bán cho em một ít về để sử dụng?”. Bị cáo trả lời: “Có, mua bao nhiêu tiền?" M trả lời: “Bán cho em 100.000 đồng". Bị cáo nói: "Đưa tiền đây". Nghe vậy M lấy tiền từ người ra 100.000 đồng đưa cho Bị cáo, Bị cáo cầm tiền của M đưa cho và cất vào trong túi quần bên phải đang mặc, rồi mở gói Heroine cất ở túi quần bên phải đang mặc ra lấy 02 gói, các gói đều được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng trắng, miệng các gói đều được hơ lửa hàn kín, bên trong các gói đều có Heroine đưa cho M, M cầm lấy xem rồi đồng ý mua. Mua bán ma túy xong M đi đâu Bị cáo không biết. Nguyễn Quang M khai nhận sau khi mua được Heroine của Lường Văn T xong thì M cầm 02 gói Heroine vừa mua được ở bên tay phải rồi đi bộ về nhà. Đang trên đường đi bộ về thuộc khu vực bản P, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên thì gặp tổ công tác Công an huyện Đ B và Công an xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên làm nhiệm vụ. Tổ công tác yêu cầu M đứng lại để kiểm tra. Qua kiểm tra tổ công tác phát hiện, thu giữ ma túy trên T tay phải của M đang cầm, tổ công tác đã tiến hành lập biến bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong thu giữ toàn bộ số vật chứng trên, theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi hoàn tất thủ tục tổ công tác đưa Nguyễn Quang M cùng toàn bộ hồ sơ vật chứng vụ án đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B để điều tra làm rõ. Lường Văn T sau khi bán ma túy cho Nguyễn Quang M xong số Heroine còn lại, T gói lại như cũ, cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi bộ về nhà. Khi về đến nhà T lấy gói Heroine còn lại được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, miệng gói được xoắn lại, bên trong có 05 gói các gói đều được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, miệng các gói đều được hơ lửa hàn kín, bên trong các gói đều có Heroine cất ở túi quần bên phải đang mặc ra và cất giấu vào chân chạm bát trong góc bếp nhà của T, cất giấu Heroine xong T đi ra khu vực sân nhà để dọn dẹp. Khi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ B đến nhà và giữ Lường Văn T lại, thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với Lường Văn T. Qua khám xét tổ công tác phát hiện, thu giữ T túi quần bên phải của Lường Văn T đang mặc có số tiền 100.000 đồng và thu giữ T chân chạm bát trong góc bếp nhà của Lường Văn T có 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, miệng gói được xoắn lại, mở bên trong có 05 gói, các gói đều được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, miệng tất cả các gói đều được hơ lửa hàn kín, mở bên trong tất cả các gói đều có cục bột là Heroine. Ngoài ra tổ công tác không phát hiện, thu giữ gì khác của T. Lường Văn T khai nhận số tiền mà tổ công tác thu giữ là tiền của T bán 02 gói Heroine cho Nguyễn Quang M mà có được, còn 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh, miệng gói được xoắn lại, bên trong có 05 gói Heroine mà tổ công tác phát hiện, thu giữ là Heroine của T, T mua về cất giấu mục đích để sử dụng và bán. Tổ công tác đã lập biên bản niêm phong thu giữ toàn bộ số vật chứng trên theo đúng quy định của pháp luật và thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lường Văn T. Sau khi hoàn tất thủ tục tổ công tác đã đưa Lường Văn T cùng toàn bộ hồ sơ vật chứng vụ án đến Cơ quan CSĐT Công tác huyện Đ B để điều tra làm rõ.
Ngày 24/4/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B tiến hành cân xác định khối lượng số vật chứng thu giữ của Nguyễn Quang M như sau: Toàn bộ số cục bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của Nguyễn Quang M có khối lượng:
0,18 gam gửi toàn bộ giám định, hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,13 gam.
Ngày 24/4/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B tiến hành cân xác định khối lượng số vật chứng thu giữ của Lường Văn T như sau: Toàn bộ số cục bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của Lường Văn T có khối lượng: 0,41 gam gửi toàn bộ giám định, hoàn lại sau khi giám định là 0,35gam.
T bản kết luận giám định số: 593/KL - KTHS ngày 01/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lường Văn T gửi giám định là ma túy loại Heroine.
T bản kết luận giám định số: 594/KL - KTHS ngày 02/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Nguyễn Quang M gửi giám định là ma túy loại Heroine.
T bản kết luận giám định số: 603/KL - KTHS ngày 03/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Số tiền gồm 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng có số mã hiệu: IM 14420104 và 08 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng có số mã hiệu: PA 20662418, PA 20662419, PA 20662416, PA 20662415, PG 20580750, KF 15054783, TP 14729092, PA 20662413 thu giữ của Lường Văn T gửi giám định là tiền thật.
Quá trình điều tra và T phiên tòa các Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.
T bản cáo trạng số: 120/CT-VKSĐB ngày 22/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lường Văn T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố các bị cáo Nguyễn Quang M về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
T phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên thực hành quyền công tố T phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
* Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Đề nghị xử phạt bị cáo Lường Văn T: Từ 02 năm 06 tháng đến 02 năm 09 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Quang M: Từ 01năm 06 tháng đến 01năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các Bị cáo.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 0,48 gam Heroine (Trong đó của bị cáo Lường Văn T là 0,35 gam; của bị cáo Nguyễn Quang M là 0,13 gam) là vật chứng còn lại sau giám định.
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 100.000 đồng là tiền do bị cáo Lường Văn T phạm tội mà có.
* Về án phí: Theo quy định T Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lường Văn T; Buộc bị cáo Nguyễn Quang M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
T phiên tòa các Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố và không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B.
Lời nói sau cùng của các Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Các Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, các Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các Bị cáo để các Bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng T phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của các Bị cáo: Quá trình điều tra cũng như T phiên tòa, các bị cáo Lường Văn T, Nguyễn Quang M khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với các Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 24/4/2022 T Bản P, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên, Lường Văn T có hành vi cất giấu T nơi ở của mình 0,41 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Trước đó khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, Lường Văn T đã bán 0,18 gam Heroine cho Nguyễn Quang M thu được 100.000 đồng để M sử dụng. Hồi 14 giờ 40 phút cùng ngày khi Nguyễn Quang M cầm 0,18 gam Heroine mua được của Lường Văn T về đến khu vực Bản P, xã N H, huyện Đ B thì bị Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an huyện Đ B phối hợp với Công an xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng của vụ án. Lường Văn T đã bán ma túy cho Nguyễn Quang M 0,18 gam Heroine, nên T phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng khối lượng ma túy thu giữ của T và M là 0,59 gam Heroine.
Vì vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Lường Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định T khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Quang M đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định T điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Các bị cáo Nguyễn Quang M, Lường Văn T là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lường Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Quang M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.
[2] Về tính chất của vụ án: Hành vi mua ma túy sau đó bán lại cho người khác để thu được số tiền 100.000 đồng của bị cáo Lường Văn T là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo Nguyễn Quang M là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vì vậy, việc truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt thỏa đáng đối với các Bị cáo là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, răn đe các Bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các Bị cáo:
- Tình tiết tăng nặng: Ngày 22/9/2020 Bị cáo Nguyễn Quang M bị Toà án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” T bản án số 215/2020/HSST ngày 22/9/2020. Ngày 09/8/2021 Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống; Bị cáo chưa được xoá án tích lại tiếp tục phạm tội mới, chính vì vậy Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định T điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Bị cáo Lường Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định T Điều 52 Bộ luật Hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và T phiên tòa, các Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định T Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
- Về nhân thân:
+ Đối với bị cáo Lường Văn T: Bị cáo sinh ra và lớn lên T huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên và được gia đình nuôi dưỡng học hết lớp 7/10 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình. Năm 1986, Bị cáo chuyển lên sinh sống T Bản P, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên. Năm 1990 kết hôn với chị Hà Thị Xoan, sinh năm 1966 và có 02 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1996. Ngày 30/10/2013 Công an huyện Đ B bắt và Tòa án nhân dân huyện Đ B xử phạt 3 năm 6 tháng tù giam về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo bản án số 64/HSST ngày 24/02/2014, đến ngày 30/12/2016 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống, Bị cáo đã được xoá án tích nhưng có nhân thân xấu. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2013 cho đến ngày bị bắt.
Ngày 24/4/2022 Bị cáo bị Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma tuý Công an huyện Đ B phối hợp với Công an xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên bắt quả tang về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đ B ra Quyết định khởi tố Bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với Bị can theo quy định của pháp luật.
+ Đối với bị cáo Nguyễn Quang M: Bị cáo sinh ra và lớn lên T huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và được gia đình nuôi dưỡng học hết lớp 7/12 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình. Năm 1993 kết hôn với chị Nguyễn Thị Huyền, sinh năm 1974 và có 03 người con chung, con lớn nhất sinh năm 1994, con nhỏ nhất sinh năm 2001.
Ngày 30/7/1996, bị Công an huyện Đ B bắt và lập danh chỉ bản về hành vi Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nhưng không có tài liệu thể hiện hình thức xử lý đối với hành vi trên.
Ngày 13/5/2008, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên ra Quyết định số 563/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng. Bị cáo đã chấp hành xong Quyết định trên.
Ngày 09/6/2020 Công an huyện Đ B bắt, Tòa án nhân dân huyện Đ B xử phạt 15 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số:
215/HSST ngày 22/9/2020. Đến ngày 09/8/2021 Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống. Bị cáo chưa được xóa án tích. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2008 cho đến ngày bị bắt.
Ngày 24/4/2022 Bị cáo bị Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma tuý Công an huyện Đ B phối hợp với Công an xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên bắt quả tang về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đ B ra Quyết định khởi tố Bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với Bị can theo quy định của pháp luật.
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm của Viện kiểm sát đề nghị, HĐXX thấy có đủ cơ sở để chấp nhận. Tuy nhiên đối với mức hình phạt hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị từ 02 năm 06 tháng tù đến 02 năm 09 tháng tù đối với bị cáo Lường Văn T và từ 01 năm 06 tháng tù đến 01 năm 09 tháng tù đối với bị cáo Nguyễn Quang M. HĐXX thấy rằng có thể xử mức hình phạt cao hơn mức đề nghị mới mang tính chất răn đe, giáo dục Bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[4] Về hình phạt bổ sung:
Ngoài hình phạt chính, theo quy định T khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”; do đó các Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các Bị cáo T phiên tòa đều cho thấy các Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập từ làm ruộng, làm tự do thấp, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với các Bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng gồm: 0,48 gam Heroine (Trong đó của bị cáo Lường Văn T là 0,35 gam; của bị cáo Nguyễn Quang M là 0,13 gam) là vật chứng còn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ; đối với số tiền 100.000 đồng do bị cáo Lường Văn T đã bán ma tuý cho bị cáo Nguyễn Quang M mà có. Vì vậy cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước theo quy định T điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[6] Về các vấn đề khác: Bị cáo Lường Văn T khai nguồn gốc số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ của Bị cáo và bị cáo M là do Bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu) nên không đủ thông tin để xác minh, triệu tập điều tra làm rõ. Vì vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B, tỉnh Điện Biên không đề cập xử lý trong vụ án này, nên HĐXX không xem xét xử lý.
Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và T phiên tòa Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
[8] Về án phí: Theo quy định T khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo Lường Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.
Tuy nhiên gia đình bị cáo Lường Văn T thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo của xã, T phiên toà Bị cáo xin miễn án phí HSST. Vì vậy theo quy định T điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
Theo quy định T Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Quang M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[9] Về kháng cáo: Các Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn T phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma túy".
Xử phạt Bị cáo: 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (24/4/2022).
* Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quang M phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Xử phạt bị cáo: 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (24/4/2022).
Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các Bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 0,48 gam Heroine (Trong đó của bị cáo Lường Văn T là 0,35 gam; của bị cáo Nguyễn Quang M là 0,13 gam) là vật chứng còn lại sau giám định.
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền là: 100.000 đồng là tiền do bị cáo Lường Văn T phạm tội mà có.
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/6/2021 giữa Công an huyện Đ B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lường Văn T; Buộc bị cáo Nguyễn Quang M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự các Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 215/2022/HS-ST
Số hiệu: | 215/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về