Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 59/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 59/2022/HS-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 56/2021/TLST- HS ngày 03 tháng 06 năm 2022; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2022/HSST-QĐ ngày 28 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Đỗ Ngọc L (Tên gọi khác: Không); sinh ngày: 21/12/2002, tại thành phố K, tỉnh K; nơi cư trú: khu T, phường Ninh Dương, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: không; con ông: Đỗ Ngọc L1, sinh năm 1976 và bà Trần Thị Thạch S, sinh năm 1979; gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: chưa; bị cáo bị bắt quả tang ngày 11/01/2022, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Móng Cái. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Chị Vy Thị Th, sinh năm 1989; địa chỉ: khu 2, phường Y, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa không lý do.

* Người chứng kiến: Anh Ngô Văn Tr, sinh năm 1999, địa chỉ: số A Tuệ Tĩnh, khu 3, phường K, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 20 phút ngày 11/01/2022, tại khách sạn Mai Linh thuộc Khu 3, phường K, thành phố Móng Cái, Công an phường K bắt quả tang Đỗ Ngọc L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm mục đích để bán. Thu giữ trong túi áo khoác phía trước bên trái của L: 01 gói giấy vệ sinh bên trong có 02 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng (kí hiệu M1, M2), 02 viên nén hình ngũ giác màu xanh (kí hiệu M3), 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo lắp sim số 0867669xxx và 037456xxxx.

Tại bản Kết luận giám định số 263/KLGĐ ngày 18/01/2022, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Mẫu vật gửi giám định kí hiệu M1, M2 là ma tuý loại Ketamine, tổng khối lượng 1,283 gam (Một phẩy hai trăm tám mươi ba gam); M3 là ma tuý loại MDMA, khối lượng 0,899 gam (Không phẩy tám trăm chín mươi chín gam).

Kết quả điều tra làm rõ: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 11/01/2022, Đỗ Ngọc L nhận được cuộc gọi từ số điện thoại 0782.281.445 của một người không quen biết, giới thiệu tên là Trung - nhà ở Trà Cổ, thành phố Móng Cái, nói là biết L bán ma tuý nên hỏi mua 01 gam ma tuý Ketamine. L đồng ý bán và báo giá là 2.000.000 đồng/01 gam Ketamine, đồng thời yêu cầu Trung phải gặp mặt và đưa tiền mua ma tuý cho L trước. Sau đó, Trung đến gặp và đưa cho L số tiền 2.020.000 đồng (gồm 2.000.000 đồng là tiền mua ma tuý và 20.000 đồng cho L tiền xăng xe). Sau khi nhận tiền, L gọi điện thoại cho người phụ nữ (theo L khai tên là Vy Thị Th - trú tại khu 2, phường H, thành phố Móng Cái, có số điện thoại 0965.691.952) hỏi mua 01 gam ma tuý Ketamine. Th đồng ý bán và hẹn L đến chỗ lối đi vào chùa Xuân Lan, xã, thành phố Móng Cái, để giao dịch. Tại đây, L đã mua 01 gam ma tuý Ketamine của Th với giá 2.000.000 đồng, rồi quay lại khách sạn Mai L đưa cho Trung.

Đến buổi tối cùng ngày, Trung tiếp tục gọi điện thoại cho L hỏi mua 02 gam ma tuý Ketamine và 02 viên ma tuý “thuốc lắc”. L đồng ý bán và báo giá là 2.000.000 đồng/01 gam Ketamine, 600.000 đồng/01 viên “thuốc lắc”. Trung đồng ý mua và hứa sẽ trả thêm cho L 50.000 đồng tiền công khi L giao ma tuý cho Trung ở phòng 302 khách sạn Mai L . Sau đó, L gọi điện thoại cho Vy Thị Th hỏi mua 02 túi ma tuý Ketamine và 02 viên “thuốc lắc”. Th hẹn L đến địa điểm cũ để giao dịch. Tại điểm hẹn, L đưa trước cho Th 01 triệu đồng tiền mua ma tuý. Th bảo L đi ra đầu đường đợi. Một lúc sau, Th gọi điện thoại cho L nói ma tuý để ở dưới gốc cây bàng gần đó. Theo chỉ dẫn, L tìm lấy 01 gói giấy vệ sinh bên trong có 02 túi ma tuý Ketamine và 02 viên “thuốc lắc” cất giấu trong túi áo khoác phía trước bên trái và đi đến sảnh khách sạn Mai Linh để bán cho Trung, thì bị Công an phường K kiểm tra, phát hiện bắt giữ.

Quá trình điều tra, ban đầu Đỗ Ngọc L khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, tuy nhiên sau đó L thay đổi lời khai không thừa nhận việc bán ma tuý cho Trung mà khai cả 02 lần L đều mua giúp ma tuý cho Trung để được trả tiền công.

Tại bản Cáo trạng số: 59/CT-VKS-MC, ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh truy tố Đỗ Ngọc L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Ngọc L đã khai nhận 02 lần thực hiện hành vi mua bán ma túy cho đối tượng tên Trung, trong đó lần thứ nhất bị cáo hưởng lợi 20.000đ (hai mươi nghìn đồng) và đã tiêu xài cá nhân hết, lần thứ hai bị cáo được Trung hứa hẹn cho 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) nhưng chưa kịp giao ma túy để nhận tiền công thì đã bị bắt.

* Phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: diểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Đỗ Ngọc L từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 11/01/2022.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 1,19 gam Ketamine và 0,76 gam MDMA sau giám định hoàn lại đã được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Tịch thu sung ngân sách nhà nước của Đỗ Ngọc L 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh số IMEI 1: 864716040312221; số IMEI 2: 846716040312213, bên trong lắp 02 sim số 0867.660.xxx và 0374.567.xxx, điện thoại cũ đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng máy bên trong.

+ Truy thu của Đỗ Ngọc L số tiền 20.000đ (hai mươi nghìn đồng) do phạm tội mà có sung ngân sách nhà nước.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

* Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về những chứng cứ xác định bị cáo có tội, về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người làm chứng, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, vật chứng thu giữ, bản kết luận giám định, cùng toàn bộ tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án, hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 11/01/2022, tại khu 3, phường Ka Long, thành phố Móng Cái, Đỗ Ngọc L có hành vi bán trái phép 01 túi ma tuý cho đối tượng tên là Trung với giá 2.020.000 đồng. Tiếp đến, hồi 22 giờ 20 phút cùng ngày, cũng tại địa điểm trên, Đỗ Ngọc L có hành vi tàng trữ trái phép 1,283 gam Ketamine và 0,899 gam MDMA, mục đích để bán cho đối tượng tên Trung với giá 5.250.000 đồng, thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Đỗ Ngọc L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái truy tố bị cáo Đỗ Ngọc L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

...

b) Phạm tội 02 lần trở lên;”...

[3] Đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về các chất ma túy, tiếp tay cho tệ nạn ma túy phát triển; gây mất trật tự, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Nên việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, xử lý nghiêm, tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo đồng thời tuyên truyền phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tự khai ra hành vi phạm tội trước đó nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét bị cáo không có việc làm và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng gồm:

- 1,283 gam Ketamine và 0,899 gam MDMA; sau giám định hoàn lại 1,19 gam Ketamine và 0,76 gam MDMA, là vật nhà nước cấm cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh số IMEI 1: 864716040312221; số IMEI 2: 846716040312213, bên trong lắp 02 sim số 0867.660.xxx và 0374.567.xxx. Điện thoại cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng máy bên trong, thu giữ của bị cáo sử dụng dùng vào việc phạm tội, cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- Đối với số tiền 20.000đ (hai mươi nghìn đồng) do bán ma túy mà có bị cáo đã sử dụng nay cần truy thu sung ngân sách nhà nước.

[10] Về lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát: Xét những chứng cứ mà Kiểm sát viên dùng để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đã được cơ quan điều tra thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng Hình sự quy định; Tại phiên tòa bị cáo cũng đã thừa nhận thực hiện hành vi như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nên lời buộc tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về án phí: bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Liên quan đến vụ án có đối tượng tên Trung, quá trình điều tra không xác minh được lai lịch địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Vy Thị Th, ngay sau khi bắt giữ Đỗ Ngọc L, Cơ quan điều tra đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Th và triệu tập Th lên lấy lời khai, tuy nhiên qua khám xét không thu giữ được đồ vật, tài liệu có liên quan; kiểm tra dữ liệu điện tử trong điện thoại của Th có cuộc gọi đến và đi với số điện thoại của L nhưng Th không thừa nhận việc mua bán ma túy cho L. Quá trình điều tra sau đó Th không có mặt tại nơi cư trú nên không đối chất được giữa Th và L. Hiện tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ để khởi tố đối với Vy Thị Th.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Đỗ Ngọc L (tên gọi khác: không) Phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251, Điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Đỗ Ngọc L 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 11/01/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 1,19 gam Ketamine và 0,76 gam MDMA vật chứng trong vụ án, sau giám định hoàn lại niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Mặt trước phong bì ghi: “Phòng kỹ thuật hình sự Đội giám định số 263/KLGĐ mẫu vật hoàn lại kèm theo kết luận giám định số 263 ngày 18/01/2022”.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh số IMEI 1: 864716040312221; số IMEI 2: 846716040312213, bên trong lắp 02 sim số 0867.660.xxx và 0374.567.xxx.

Điện thoại cũ đã qua sử dụng, thu giữ của bị cáo Đỗ Ngọc L sử dụng dùng vào việc phạm tội.

(Vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng số: 78/2022/THA ngày 02/06/2022, tại Chi cục Thi hành án Dân sự, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) - Truy thu của Đỗ Ngọc L số tiền 20.000đ (hai mươi nghìn đồng) do phạm tội mà có sung ngân sách nhà nước.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đỗ Ngọc L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 1 Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo Đỗ Ngọc L. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

81
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 59/2022/HS-ST

Số hiệu:59/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;