Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 56/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 56/2021/HS-ST NGÀY 22/10/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2021/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần P; sinh năm: 1979 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: B đường N, Phường T, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lưu Đại Đ (chết) và bà: Trần Ái L; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt giữ ngày: 08/3/2021.

(Bị cáo có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Ông Lưu Kiến H – Sinh năm: 1980 (vắng mặt).

Địa chỉ: B đường N, Phường T, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/Ông Đào Văn Q – Sinh năm: 1970 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp S, xã X, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 08/3/2021, tại trước Lô B Chung cư Hòa Bình, hẻm 666 đường 3/2, Phường 14, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra Tội phạm về ma túy Công an Quận 10 phát hiện Trần P đang điều khiển xe mô tô biển số: 72X3-3237 có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện tại móc treo đồ phía dưới yên xe có 01 túi nylon đựng 01 ly trà sữa và 01 cục sạc điện thoại di động, bên trong cục sạc có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, P khai là ma túy tổng hợp. Công an Phường 12, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; sau đó chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tại Bản Kết luận giám định số: 1659/KLGĐ- MT ngày 16/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon là ma túy thể rắn, có tổng khối lượng 8,6029 gram, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, xác định: Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, có đối tượng tên Mập (không rõ lai lịch, số điện thoại 0765773456) gọi điện thoại cho P hỏi mua một hộp mười ma túy đá. P đồng ý bán với giá 4.200.000 đồng, Mập hẹn địa điểm giao ma túy tại trước nhà số 666/46 đường 3/2, Phường 14, Quận 10. Sau đó, P gọi điện thoại liên hệ trước rồi điều khiển xe mô tô biển số: 72X3- 3237 đến cổng Công viên Văn Lang, Quận 5 gặp một người đàn ông tên Út (không rõ lai lịch, số điện thoại 0909315551) mua ma túy với giá 4.000.000 đồng, mục đích bán lại cho Mập kiếm lời. Trên đường mang ma túy bán cho Mập thì P bị bắt giữ. P khai trước đó vào ngày 05/3/2021 đã mua của Út 01 gói ma túy với giá 180.000 đồng rồi bán lại cho Mập với giá 200.000 đồng, hưởng lợi 20.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố điều tra đối với Trần P về hành vi “Mua bán trái phép chất ma tuý” Riêng đối với đối tượng tên Út và Mập, hiện chưa xác định được lai lịch, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 tiếp tục truy xét, làm rõ và xử lý sau.

Vật chứng vụ án:

Đối với: 01 gói vật chứng đã được niêm phong, bên trong chứa ma túy; 01 túi nilon màu trắng; 01 cục sạc điện thoại di động màu đen dùng để cất giấu ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Mastel, số Imei: 358414101441773, số thuê bao: 0773175321 Trần P sử dụng để liên lạc mua bán ma túy cơ quan Công an đã tạm giữ lại.

Đối với: 01 xe mô hiệu Attila, biển số: 72X3-323; qua xác minh, chiếc xe trên do ông Đào Văn Q đứng tên đăng ký xe, đầu năm 2017 ông Quốc đã bán xe cho một người không rõ lai lịch, địa chỉ; Trần P khai mượn của em ruột là Lưu Kiến H để sử dụng, sau đó dùng làm P tiện phạm tội; ông Lưu Kiến H khai mua xe trên của một người đàn ông không rõ lai lịch vào khoảng đầu năm 2019 sử dụng làm P tiện đi lại, việc P sử dụng chiếc xe trên làm P tiện phạm tội thì ông Hào không biết; Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.

Riêng đối với: 01 điện thoại di động hiệu Gionee số thuê bao: 09032011158 là tài sản riêng của Trần P không liên quan đến hành vi phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã giao lại chiếc điện thoại cho ông Lưu Kiến H quản lý theo yêu cầu của Trần P Tại Cáo trạng số 47/CT-VKSQ10 ngày 26 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Trần P về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo Trần P đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải); đã đề nghị Hội đồng xét xử tương ứng áp dụng điểm i khoản 2, 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo:

Trần P: Từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù, phạt bổ sung đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về vật chứng và các biện pháp tư pháp: Đề nghị xử lý theo đúng quy định pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, qua lời khai nhận tội của bị cáo, đối chiếu với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Trần P thực hiện hành vi cất giữ trái phép 8,6029 MA (Methamphetamine) nhằm mục đích để bán lại cho người khác, chiếu theo danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành theo Nghị định số: 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ thì đó là chất ma túy ở thể rắn, nên bị cáo Trần P bị truy tố và xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Riêng đối với việc bị cáo khai đã mua ma tuý và bán lại cho Mập một lần trước đó, thu lợi 20.000 đồng; xét thấy ngoài lời khai của bị cáo thì không còn chứng nào khác chứng minh; do vậy kiến nghị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 tiếp tục truy xét, làm rõ và xử lý sau cùng với số tiền thu lợi bất chính nếu có.

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Ma túy là mối hiểm họa cho gia đình và xã hội, nó đã lây lan và phát triển một cách nghiêm trọng, làm suy đồi và băng hoại nhân cách con người, là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm hình sự khác; trong khi chính quyền nhân dân các cấp đang ra sức thực hiện mục tiêu 3 giảm: “Giảm ma túy, giảm mại dâm, giảm tội phạm”; nhưng bị cáo đã đi ngược lại mục tiêu chung trên. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa P. Ngoài ra, áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền nộp ngân sách Nhà nước.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Đối với: 01 gói vật chứng đã được niêm phong (bên trong có chứa ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh Cường và cán bộ điều tra Bùi Hữu Hoa), là vật lưu hành bất hợp pháp; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy.

Đối với: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Mastel (số thuê bao 0773175321 và số Imei: 358414101441773), 01 cục sạc pin điện thoại di động màu đen; là P tiện dùng vào việc mua bán trái phép chất ma túy; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 túi nylon màu trắng, không đáng giá trị; vậy căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe môtô biển số 72X3-3237 (loại xe: Hai bánh từ 50- 175cm3, nhãn hiệu: SYM, số loại: Attila, màu sơn: Đen đỏ xám, dung tích xi lanh: 124, số khung: RLGKA12LD-BD002480, số máy: VMVT3C-D-002480); qua xác minh, chiếc xe trên do ông Đào Văn Q đứng tên đăng ký xe, đầu năm 2017 ông Quốc đã bán xe cho một người không rõ lai lịch, địa chỉ; Trần P khai mượn của em ruột là Lưu Kiến H để sử dụng, sau đó dùng làm P tiện phạm tội; ông Lưu Kiến H khai mua xe trên của một người đàn ông không rõ lai lịch vào khoảng đầu năm 2019 sử dụng làm P tiện đi lại, việc P sử dụng chiếc xe trên làm P tiện phạm tội thì ông Hào không biết; nên hiện chưa xác định chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, trong khi chiếc xe trên lại là P tiện dùng vào việc phạm tội; do vậy giao cho Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành thông báo trong thời hạn nhất định, nếu không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận, thì đề nghị căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 228 Bộ luật Dân sự năm 2015, tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm i khoản 2, 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Trần P;

Xử phạt bị cáo Trần P 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/3/2021.

Phạt bổ sung bị cáo P 5.000.000 (năm triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy: 01 gói vật chứng đã được niêm phong (bên trong có chứa ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh Cường và cán bộ điều tra Bùi Hữu Hoa).

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Mastel (số thuê bao 0773175321 và số Imei: 358414101441773), 01 cục sạc pin điện thoại di động màu đen.

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy: 01 túi nylon màu trắng.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 228 Bộ luật Dân sự năm 2015; giao Chi cục thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thông báo với thời hạn 12 tháng đối với 01 chiếc xe môtô biển số 72X3-3237 (loại xe: Hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu: SYM, số loại: Attila, màu sơn: Đen đỏ xám, dung tích xi lanh: 124, số khung: RLGKA12LD-BD002480, số máy: VMVT3C-D-002480), để chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp (nếu có) đến nhận, trong thời hạn trên kể từ ngày đăng báo mà không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận thì tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/10/2021 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo P chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 56/2021/HS-ST

Số hiệu:56/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;