Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 36/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 36/2021/HS-ST NGÀY 04/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 03năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:31/2021/TLST- HS ngày 08/02/2021 theoQuyết định đưa vụ án ra xét xử số:32/2021/QĐXXST-HS ngày19/02/2021đối với bị cáo:

Lò Văn T,Sinh năm: 1993; ĐKNKTT: Bản K, xã Ă, huyện M, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái Tôn giáo: Không;Văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lò Văn K ; Con bà: Lò Thị No; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 09/12/2020 bị Công an quận Nam Từ Liêm xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy với mức phạt 750.000 đồng (đã nộp phạt).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 03/11/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội. Số giam:5318V1/19 ( Bị cáo có mặt) Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn T là bà Lê Thu H Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03/11/2020 tại khu vực số 1B ngõ 145 Đ, phường M, quậnN, Hà Nội, tổ công tác Công an phường Đ, quận N, thành phố Hà Nội tiến hành kiểm tra phát hiện Lò Văn T mang theo 01 gói nilon bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy. Tại chỗ T khai số ma túy trên T đang mang đến bán cho khách tại ngõ 145 Đ, phường M, quận N. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang,thu giữ tang vật: 01 (một) gói nilong màu đen bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 (một) điện thoại di động OPPO A57 màu trắng gắn số sim 0364372922.

Quá trình điều tra xác định:

Do bản thân là người nghiện nên khoảng 19 giờ ngày 02/11/2020, Lò Văn T đi bộ từ phòng trọ của bạn ở số 5 ngách 34 ngõ 97 Đ, phường M, quận N ra khu vực bến xe M tìm mua ma túy heroin để sử dụng. Tại đây, T mua được của một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. T mang số ma túy về phòng trọ tại số 5 ngách 34 ngõ 97 Đ sử dụng một phần, số còn lại cất vào trong túi quần bên phải. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 03/11/2020 T đang ăn trưa tại khu vực Đ, phườngM thì có một người đàn ông (không rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 0965556930 gọi đến số 0364.372.922 của T hỏi mua 100.000 đồng ma túy và hứa trả thêm 50.000 đồng tiền công. Lúc này đang sẵn có số ma túy còn lại trong túi quần nên T đồng ý và hẹn gặp tại khu vực cổng làng Đ để giao dịch mua bán. Đến 13 giờ 30 phút cùng ngày, T mang theo ma túy đến khu vực số 1B ngõ 145 Đ, phường M, quận N để bán cho người đàn ông trên bị lực lượng Công an phường Đ kiểm tra, bắt giữ.

Tại bản kết luận giám định số 9586/KLGĐ-PC09 ngày 09/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội kết luận: chất bột màu trắng bên trong gói nilong màu đenthu giữ của Lò Văn T là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,116 gam.

Quá trình điều tra, Lò Văn T khai nhận hành vi phạm tội nhưđã nêu trên, lời khai của bị can phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lò Văn T, ngày 09/12/2020, Công an quận Nam Từ Liêm đã ra quyết định số 628/QĐ-XPHC xử phạt hành chính với mức phạt tiền là 750.000 đồng.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Lò Văn T vào ngày 02/11/2020 tại khu vực bến xe My và người đàn ông liên hệ mua ma túy của Lò Văn T vào ngày 03/11/2020 (như T khai). Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

Tại bản cáo trạng số: 34/CT-VKS ngày 03/2/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tốLò Văn Tvề tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố tại bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáoLò Văn Tmức án từ 30 đến 36 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn phạt tù tính từ ngày 03/11/2020.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo đang bị tạm giam, không có công việc ổn định nên đề nghị miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự ; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự .

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Lò Văn T, giám định viên và cán bộ Công an phường Đ Tịch thu sung công quỹ: 01 điện thoại đi động nhãn hiệu OPPO A57 màu trắng gắn sim số 0364372922. Tại phiên toà: Bị cáo Lò Văn T khai nhận hành vi của mình, thành khẩn khai báo nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo: Đồng ý với lời luận tội của kiểm sát viên, mong hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận:Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03/11/2020 tại khu vực số 1B ngõ 145 Đ, phường M, quận N, Lò Văn T có hành vi cất giấu trái phép 0,116 gam ma túy loại Heroin mục đích để bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáoLò Văn Tphạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo nhận thức rõ việc sử dụng ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình cất giấu ma túy để bán. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù giam cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo khai báo thành khẩn, thái độ ăn năn hối cải. Vì vậy cần áp dụng Điều 38; điểm s khoản 1Điều 51; Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017đối với bị cáo Lò Văn T.

[4] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Lò Văn T, giám định viên và cán bộ Công an phường Đa Tịch thu phát mại, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại đi động nhãn hiệu OPPO A57 màu trắng gắn sim số 0364372922.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1Điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

+ Xử phạt bị cáoLò Văn T30 (ba mươi) thángtù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/11/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Lò Văn T, giám định viên và cán bộ Công an phường Đ;

+ Tịch thu sung nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại đi động nhãn hiệu OPPO A57 màu trắng gắn sim số 0364372922.

(theo biên bản bàn giao vật chứng số 110ngày05 tháng02 năm 2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm và Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án buộc bị cáo Lò Văn Tphải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai, sơ thẩm bị cáoLò Văn T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 36/2021/HS-ST

Số hiệu:36/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;