Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 36/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MÙ CANG CHẢI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 36/2021/HSST NGÀY 15/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2021/QĐXXST-HS ngày 01/9/2021, đối với bị cáo:

Sùng Thị S Tên gọi khác:Không, sinh năm 1967; tại huyện M, tỉnh Yên Bái; nơi ĐKHKTT và nơi cư trú hiện nay: Bản L, xã L, huyện M, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hoá: không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sùng Su G và bà Giàng Thị M (Đều đa chêt); có chồng là Cứ A V, sinh năm 1961 và 10 con, tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/6/2021, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: ông Nguyễn Đức Đ, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà Nước tỉnh Yên Bái. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Giàng A R, sinh năm 1988, trú tại bản Dào Xa, xã L, huyện M, tỉnh Yên Bái,Vắng mặt.

- Người phiên dịch tiếng Mông: ông Thào A D, trú tại: Tổ 5, thị trấn Mù Cang Chải, huyện M,tỉnh Yên Bái, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 11/6/2021, trên đường đi làm ruộng về nhà, khi đến khu vực đường dân sinh thuộc Bản L, xã L, huyện M Sùng Thị S gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine với tổng số tiền 2.000.000đ. Sùng Thị S mang về nhà cất giấu trong lọ nhựa màu trắng, có nhãn mác màu xanh; đến khoảng 18 giờ cùng ngày, Sú lấy một phần số Heroine đã mua được chia thành 10 gói nhỏ để trong lọ nhựa màu trắng khác, số Heroine còn lại gói vào mảnh nilon màu hồng cất giấu dưới chiếu trên giường trong buồng ngủ không cho ai biết. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Sùng Thị S đang ở nhà một mình thì Giàng A R, sinh năm 1988, trú tại bản D, xã L, huyện M đến hỏi mua ma túy sử dụng; R đưa cho Sú 150.000đ, Sùng Thị S nhận tiền và lấy 03 gói Heroine đưa cho R, R lợi dụng Sùng Thị S không có mặt đã dùng bơm kim tiêm mang theo người từ trước tiêm chích hết Heroine vừa mua được. Khoảng 15 phút sau, tổ công tác Công an xã L, huyện M tiến hành kiểm tra hành chính, Sùng Thị S tự giác vào buồng ngủ lấy và giao nộp 01 lọ nhựa có nắp đậy, màu xanh, bên trong có 01 gói nilon màu hồng được buộc thắt nút một đầu, bên trong chứa chất bột nén màu trắng; 01 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy, không nhãn mác, bên trong có 05 gói nilon màu hồng, được hàn kín một đầu, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột nén màu trắng; 02 gói nilon màu hồng, hàn kín một đầu, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột nén màu trắng; tiền có chữ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.030.000đ. (Trong đó có 150.000đ là tiền do bán ma túy mà có). Kiểm tra Giàng A R không thu giữ đồ vật, tài liệu gì, đồng thời Giàng A R khai nhận bản thân đến nhà Sùng Thị S mua ma túy sử dụng, đã mua được 03 gói Heroine với số tiền là 150.000đ và đã sử dụng hết. Tổ công tác Công an xã L, huyện M lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng toàn bộ vật chứng. Cùng ngày Cơ quan CSĐT- Công an huyện M tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật đối với Sùng Thị S về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Bản Kết luận giám định số 334/GĐMT ngày 18/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Yên Bái kết luận:

Chất bột nén màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Sùng Thị S có tổng khối lượng là 5,7 gam; 0,1 gam trích từ 5,7gam chất bột nén màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine Tại Cáo trạng số 23/CT-VKS-MCC ngày 03/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Sùng Thị S về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên toàn bộ quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ bảy năm đến tám năm tù;

không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; đề nghị tịch thu tiêu hủy vật chứng là toàn bộ số ma túy sau khi giám định.

Người bào chữa trình bày lời bào chữa: nhất trí với tội danh và điều luật truy tố. Đề nghị Tòa án xem xét bị cáo đã thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, nhất thời phạm tội, là người dân tộc thiểu số, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, không được đi học, không biết chữ, khối lượng ma túy ở mức đầu khung, cư trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.Quá trình giải quyết vụ án đã tự giác giao nộp toàn bộ vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội, thể hiện tích cực hợp tác với cơ quan điều tra. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s,t khoản 1 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật, không áp dụng hình phạt bổ sung;

Bị cáo không có ý kiến bổ sung lời bào chữa, không tranh luận gì. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi mình đã thực hiện, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện ngày 11/6/2021tại nhà ở thuộc Bản L, xã L, huyện M, Sùng Thị S đã tàng trữ 5,7g( Năm phẩy bảy gam) ma túy; loại Hereine, mục đích để bán và thực tế đã bán cho Giàng A R 150.000đ. Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách kiểm soát các chất ma tuý của Nhà Nước và làm gia tăng tình trạng nghiện chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán các chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội:" Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm i Khoản 2 Điều 251của Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là người dân tộc thiểu số, không được đi học, không biết chữ, sinh ra và lớn lên ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức xã hội và pháp luật có phần hạn chế, bị cáo không có tiền án, tiền sự nên xác định là người có nhân thântốt, lượng ma túy mà bị cáo mua bán ở mức đầu khung hình phạt.Qúa trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, trong quá trình giải quyết vụ án đã tự giác giao nộp toàn bộ vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội, thể hiện tích cực hợp tác với cơ quan điều tra,nên được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điểm s, t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành ngư- ời có ích cho gia đình, xã hội.Về hình phạt bổ xung, xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ trong vụ án:

- Vật chứng là số ma túy thu giữ được sau khi giám định, hiện đang được niêm phong trong 01 phong bì do phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- 02 vỏ phong bì đã mở niêm phong, các mảnh nilon gói, giấy gói; 02 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy, trong đó 01 lọ nhựa không nhãn mác và 01 lọ nhựa có nhãn mác màu xanh, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 1.030.000đ trong đó có 150.000đ là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung quỹ Nhà nước, số còn lại 880.000đ là tiền không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

[5] Đối với người đan ông bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra bị cáo không biết tên, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng. Do đó, cơ quan điều tra không đủ căn cứ xác minh, làm rõ.

Đối với Giàng A R là người nghiện ma túy. Do đó cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm do là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

[7] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Sùng Thị S phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy - Xử phạt bị cáo Sùng Thị S 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo 12/6/2021.

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

* Tịch thu tiêu huỷ:

- 5,7 gam là ma túy, loại Heroine. Đã trích 0,1 gam để làm mẫu giám định. Khối lượng Heroine còn lại là 5,6 gam,được cho vào một túi nilon màu trắng, niêm phong vào 01 phong bì thư doPhòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành, mặt trước phong bì ghi: Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Sùng Thị S - SN: 1967 tại Bản L, xã L, huyện M, tỉnh Yên Bái ngày 11/6/2021 (sau khi trích mẫu giám định). Mặt sau phong bì các mép được dán kín có chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia mở niêm phong.

- 02 vỏ phong bì đã mở niêm phong, các mảnh nilon gói, giấy gói; 02 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy, trong đó 01 lọ nhựa không nhãn mác và 01 lọ nhựa có nhãn mác màu xanh.

* Tịch thu sung quỹ Nhà Nước :150.000đ của Sùng Thị S.

* Trả lại bị cáo: 880.000đ (Tám trăm tám mươi nghìn đồng) Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sùng Thị S.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

450
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 36/2021/HSST

Số hiệu:36/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mù Căng Chải - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;