Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 36/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 36/2019/HS-ST NGÀY 21/02/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 02 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 715/2018/TLST-HS, ngày 03/12/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 340/2019/QĐXXST-HS ngày 25/01/2019, đối với các bị cáo:

1. Trần Hoàng H, sinh ngày 21/12/1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 132/10 A, Phường 14, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 38 D, Phường 14, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn F (1972) và bà Huỳnh Thị Thúy G (1975); có vợ là bà Mai Thị Ánh H (1997) và 02 con (lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2017); Tiền án: không; Tiền sự: không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 06/02/2018 (có mặt).

2. Từ Hải H1, sinh ngày 19/01/1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 161/26A I, Phường 3, Quận J, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 3/12; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Từ Chí K (1970) và bà Huỳnh Thúy L (1973); chưa có vợ, con; Tiền án: không; Tiền sự: không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 06/02/2018 (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Hoàng H: Ông Đỗ H Bình - Luật sư của Văn phòng luật sư Quốc Anh, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Mai Thị Ánh M, sinh năm: 1997 - Chỗ ở: 38 T, Phường 14, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 18 giờ ngày 06/02/2018, tại trước nhà số 98 Mai Xuân T, Phường 1, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy - Công an Quận 6 phát hiện bắt quả tang Từ Hải H1 đang cất giấu trái phép chất ma túy để bán cho các đối tượng nghiện ma túy tên Lê Thành D (sinh năm 1994; hộ khẩu thường trú: A1/7 ấp 1, thị trấn N, huyện O, Thành phố Hồ Chí Minh) và Nguyễn Thanh P (sinh năm 1990; hộ khẩu thường trú: xã Q, thị xã R, tỉnh S). Vật chứng thu giữ của H1 là 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1735g, loại Methamphetamine (dưới đất chỗ H1 đang đứng).

Lúc 19 giờ 15 phút ngày 06/02/2018, tại trước nhà số 98 Mai Xuân T, Phường 1, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy - Công an Quận 6 phát hiện bắt quả tang Trần Hoàng H điều khiển xe gắn máy biển số 59C1-X chở Lê Anh T(sinh năm 1995; hộ khẩu thường trú: X Bến Đ, Phường 16, Quận 8) đang cất giấu trái phép chất ma túy để bán. Vật chứng thu trong túi quần phía trước bên pH của H 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9967g, loại Methamphetamine.

Lúc 22 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận 6 tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Hoàng H tại số 38 T, Phường 14, Quận 8, vật chứng thu giữ tại lầu 1 gồm 02 bịch nylon chứa tinh thể không màu, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 56,2681g, loại Methamphetamine.

Toàn bộ số ma túy thu giữ trong vụ án đã được trưng cầu giám định, kết quả thể hiện tại bản Kết luận giám định số 464/KLGĐ-H ngày 13/02/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra, Trần Hoàng H khai nhận là đối tượng sử dụng ma túy và mua bán trái phép chất ma túy từ tháng 01/2018 cho đến ngày bị bắt. Trước đó, vào khoảng tháng 12/2017, H quen biết người phụ nữ tên Lê M L (sinh năm 1972; HKTT tại 1XA An Bình, Phường 5, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở:

192/6/6 Phạm Văn Chí, Phường 4, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh) có bán ma túy, nên H đã 03 lần đến chỗ của L mua ma túy vào các ngày 01/01/2018, 01/02/2018 và ngày 06/02/2018, mỗi lần mua 50g ma túy đá (tổng cộng 150g) với giá 20.000.000 đồng/50g. Sau khi mua được ma túy, H đem về chỗ ở tại số 38 T, Phường 14, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh cất giấu để sử dụng và phân chia bán lại cho người khác để thu lợi. Mỗi lần bán hết 50g ma túy đá, H thu lợi khoảng 5.000.000 đồng.

Quá trình mua bán trái phép chất ma túy, Trần Hoàng H đã bán ma túy cho Từ Hải H1 03 lần, mỗi lần 05g ma túy đá với giá 2.800.000 đồng. Trong đó, lần thứ nhất vào ngày 15/01/2018; lần thứ hai vào ngày 20/01/2018; lần thứ ba vào khoảng 18 giờ ngày 06/02/2018, H1 gọi điện cho H đặt mua 05g ma túy đá, H đồng ý bán và hẹn gặp tại tiệm Internet số 98 Mai Xuân T, Phường 1, Quận 6 để thực hiện việc mua bán ma túy, đến khoảng 19 giờ cùng ngày, H đem 05g ma túy đá đến điểm hẹn, nhưng chưa gặp H1 thì bị bắt quả tang cùng vật chứng như trên. Ngoài ra, H còn bán cho H2 (không rõ lai lịch) 03 lần, mỗi lần 20g với giá 10.000.000 đồng vào các ngày 16/01/2018, ngày 21/01/2018 và ngày 28/01/2018 tại khu vực Bến xe Quận 8, đường Tạ Quang B, Quận 8. Bán cho một người nghiện (không rõ lai lịch) 02 lần, mỗi lần 05g với giá 2.800.000 đồng tại khu vực Bưu điện Quận 5 vào các ngày 26/01/2018 và ngày 03/02/2018.

Từ Hải H1 khai nhận phù hợp với lời khai của Trần Hoàng H, H1 mua bán trái phép chất ma túy từ ngày 15/01/2018 đến ngày 06/02/2018. Trong thời gian này, H1 đã mua ma túy từ Trần Hoàng H 02 lần đem về cất giấu tại chỗ ở 161/26A Phạm Văn Chí, Phường 3, Quận 6 phân chia bán lại cho người nghiện (không rõ lai lịch) kiếm lời; đến lần thứ ba sau khi đặt mua ma túy của H, H1 chưa kịp gặp H để nhận ma túy thì bị bắt. Trong đó, H1 đã bán cho Lê Thành D 03 lần, mỗi lần 200.000 đồng; lần sau cùng vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 06/02/2018, D gọi điện cho H1 hỏi mua 02 gói ma túy đá với giá là 200.000 đồng/gói, hẹn nhau tại tiệm Internet số 98 Mai Xuân T, Phường 1, Quận 6 để giao dịch bán ma túy, H1 đồng ý. Khi đến điểm hẹn, H1 đã bán cho D 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng do D chỉ đủ tiền mua 01 gói, H1 giữ lại 01 gói ma túy đá. Cùng lúc đó, Nguyễn Thanh P đến tiệm Internet trên gặp H1 mua ma túy đá về sử dụng, nhưng chưa kịp mua thì H1 bị bắt quả tang như đã nêu trên; trước đó H1 bán cho P02 lần, mỗi lần 150.000 đồng ma túy đá. Lê Thành D và Nguyễn Thanh P khai nhận phù hợp với lời khai của Từ Hải H1.

Đối với Lê M L, quá trình điều tra xác định ngày 08/3/2016, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xử phạt L 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, nhưng do điều kiện sức khỏe yếu nên được tạm hoãn thi hành án theo Quyết định số 01/2017/QĐ-CA ngày 29/11/2017 của Tòa án nhân dân Quận 5. Căn nhà số 192/6/6 Phạm Văn Chí, Phường 4, Quận 6 do chủ nhà đã thế chấp cho bà Lê Thị T là mẹ của L từ năm 2014, sau đó bà T đã đến ở căn nhà này. Lê M L đến ở cùng với bà T và có đăng ký tạm trú tại đây. Đến cuối tháng 12/2017, do L tái phát bệnh nên về nhà số 1XA An Bình, Phường 5, Quận 5 ở để điều trị bệnh. Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã gửi giấy mời L đến làm việc, nhưng do sức khỏe yếu, L không đến được. Sau đó, Điều tra viên phối hợp với Cảnh sát khu vực Công an Phường 5, Quận 5 đến nhà số 1XA An Bình, Phường 5, Quận 5 gặp trực tiếp L để ghi lời khai và cho L nhận dạng H qua ảnh. Tại buổi làm việc với sự có mặt của bà Lê Thị T, kết quả L không nhận ra ai là Trần Hoàng H trong bản ảnh và không thừa nhận đã bán ma túy cho Trần Hoàng H. Tại thời điểm bắt Trần Hoàng H, Công an Quận 6 xác định L không có mặt tại địa chỉ 192/6/X Phạm Văn C, Phường 4, Quận 6, nên không tiến hành khám xét chỗ ở của L. Ngoài lời khai của Trần Hoàng H không có chứng cứ nào khác để xác định L có quan hệ mua bán ma túy với H, nên chưa đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với L về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Cơ quan Điều tra tiếp tục điều tra, xác minh khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Lê Thành D và Nguyễn Thanh P là người nghiện ma túy, ngày 06/02/2018, D và P đến gặp H1 để mua ma túy sử dụng, nhưng chưa kịp thì H1 bị Công an Quận 6 bắt quả tang như trên, sau khi ghi lời khai xong Công an Quận 6 cho D về, riêng P không có nơi cư trú ổn định nên Công an Quận 6 bàn giao cho Công an Phường 1, Quận 6 lập hồ sơ xử lý hành chính.

Đối với Lê Anh Hào, qua điều tra xác định Tlà bạn của H, chỉ đi chơi chung, không biết H hoạt động mua bán ma túy, Công an Quận 6 không xem xét xử lý là có cơ sở.

Riêng đối tượng tên H2, do Trần Hoàng H khai không rõ nhân thân lai lịch, nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ để xử lý.

Vật chứng vụ án: được liệt kê tại Phiếu nhập kho vật chứng số 167/PNK/2018 ngày 23/5/2018 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra (PC04) và Phòng Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (PC10) - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, gồm:

- Thu giữ của Trần Hoàng H:

+ 02 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 464/2018 (gói 2), vụ 464/2018 (gói 3) có chữ ký của giám định viên Lê Thị H và Điều tra viên Nguyễn Văn P, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 điện thoại di động Iphone màu trắng (imei:...007156, có sim mobi) là của H sử dụng để liên lạc với gia đình, bạn bè, không liên quan đến hành vi phạm tội của H.

+ 01 điện thoại di động Nokia màu đen của H sử dụng để liên lạc mua bán ma túy.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng (imei:...008570) thu giữ lúc khám xét là của vợ H sử dụng để liên lạc với gia đình, bạn bè không liên quan đến hành vi phạm tội của H.

+ Số tiền 400.000 đồng là tiền của vợ H đưa cho H để mua thuốc cho con (đã nộp Kho bạc Nhà nước).

+ 01 cân điện tử màu đen là của H sử dụng để phân chia ma túy.

+ 01 bộ dụng cụ phân chia ma túy (02 kìm kẹp kim loại; 01 cây kéo; 01 ống hút nhựa hàn kín một đầu).

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (01 bình thủy tinh; 01 ống thủy tinh; 01 ống hút nhựa) để sử dụng ma túy.

+ 20 bịch nylon rãnh âm dương H sử dụng để phân chia ma túy.

+ 01 xe gắn máy hiệu Honda, biển số 59C1-X (số máy: JF51E- 0089359; số khung: RLHJF510XDY089307). Qua điều tra xác minh chiếc xe trên có số khung, số máy nguyên thủy do ông Ngô Bành S (sinh năm 1966; hộ khẩu thường trú: 103K3/9A Bình Đông, Phường 14, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh) là dượng rể của Trần Hoàng H mua khoảng tháng 7/2016 và đứng tên đăng ký sở hữu. Khoảng 17 giờ ngày 06/02/2018, ông S cho Trần Hoàng H mượn xe để đi, đến khoảng 19 giờ cùng ngày H bị Công an Quận 6 bắt quả về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” và lập biên bản tạm giữ chiếc xe trên chờ xử lý theo quy định. Ông S không biết việc mua bán ma túy của H. Lời khai của ông S phù hợp với lời khai của H.

- Thu giữ của Từ Hải H1:

+ 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 464/2018 (gói 1) có chữ ký của giám định viên Lê Thị H và Điều tra viên Nguyễn Văn P, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 điện thoại di động Iphone màu vàng (imei:…7680339, có sim mobi) là của H1 sử dụng để liên lạc mua bán ma túy.

+ 01 bịch nylon chứa nhiều gói nylon rãnh âm dương loại nhỏ.

+ 02 kéo (gồm: 01 kéo kẹp; 01 kéo cắt) là của H1 sử dụng để phân chia ma túy.

+ 01 cây nhíp bằng kim loại.

+ 01 quẹt gas, 01 bình gas mini màu đen.

+ Số tiền 550.000 đồng, gồm 200.000 đồng là tiền bán ma tuý và 350.000 đồng là tiền riêng của H1 (đã nộp Kho bạc Nhà nước).

Bản cáo trạng số 473/CT-VKS-P1 ngày 07/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Trần Hoàng H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Từ Hải H1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Các bị cáo Trần Hoàng H, Từ Hải H1 đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố và tranh luận: Căn cứ vào lời khai nhận tội của các bị cáo, có cơ sở xác định các bị cáo Trần Hoàng H và Từ Hải H1 đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo Trần Hoàng H và Từ Hải H1 đều khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, các bị cáo chưa có tiền án tiền sự, nên được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, cụ thể như sau:

- Đối với bị cáo Trần Hoàng H: Do bị cáo Trần Hoàng H đã trực tiếp nhiều lần mua ma tuý đem về phân chia bán lại nhiều lần cho Từ H1 H, nên áp dụng tình tiết tăng nặng là phạm tội hai lần trở lên. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52 và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Hoàng H mức án từ 15 năm đến 17 năm tù. Buộc bị cáo pH nộp phạt số tiền 15.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

- Đối với bị cáo Từ Hải H1: Đề nghị áp dụng điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Từ Hải H1 mức án từ 07 năm đến 09 năm tù. Buộc bị cáo nộp pH phạt số tiền 10.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Hoàng H trình bày: Đồng ý với tội danh và điều luật Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với bị cáo Trần Hoàng H. Tuy nhiên, đề nghị không áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Trần Hoàng H và đề nghị xử phạt bị cáo mức án thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đã hối hận về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Quá trình điều và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của các bị cáo Trần Hoàng H và Từ Hải H1 tại phiên tòa cũng như tại các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Vì mục đích tư lợi, từ ngày 01/01/2018 đến khi bị bắt, Trần Hoàng H nhiều lần mua ma túy đem về phân chia bán lại cho người khác trong đó có Từ Hải H1 để thu lợi bất chính. Do không xác định được những người mua ma túy của H để làm rõ số lần, khối lượng ma túy H đã mua bán, nên H chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy đã bán cho H1 và bị bắt quả tang, khám xét thu giữ có tổng khối lượng là 67,2582g Methaphetamine, gồm: 4,9967g Methaphetamine (bắt quả tang) + 56,2681g Methaphetamine (khám xét) + 9,9934g Methaphetamine (02 lần bán cho H1, mỗi lần 4,9967g Methaphetamine). Hành vi của bị cáo Trần Hoàng H đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đối với bị cáo Từ Hải H1, trong khoảng thời gian từ ngày 15/01/2018 đến ngày 06/02/2018, H1 đã 02 lần mua ma túy của Trần Hoàng H đem về phân chia bán lại cho người khác sử dụng, trong đó có Lê Thanh D và Nguyễn Thanh Trung. Do đó, H1 chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy bị bắt quả tang thu giữ và mua của H trước đó có tổng khối lượng là 9,9934g Methaphetamine. Hành vi của bị cáo Từ Hải H1 đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên” “Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” quy định tại các điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Trần Hoàng H và Từ Hải H1 theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nên cần có mức án nghiêm khắc mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng đối với các bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Từ ngày 01/01/2018 đến khi bị bắt, bị cáo Trần Hoàng H đã nhiều lần mua ma túy của người khác đem về phân chia bán lại cho Từ Hải H1, nên thuộc trường hợp phạm tội từ hai lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Từ Hải H1 không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra, các bị cáo đều thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, các bị cáo có nhân thân tốt, bị cáo Trần Hoàng H có con nhỏ, là lao động chính trong gia đình, do đó Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Ngoài ra, Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo, áp dụng khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, buộc bị cáo Trần Hoàng H pH nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước và buộc bị cáo Từ Hải H1 pH nộp phạt số tiền 5.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

[5] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 03 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 464/2018 (1, 2, 3) có chữ ký của giám định viên Lê Thị H và Điều tra viên Nguyễn Văn P, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 05 kéo (gồm: 03 kéo kẹp; 02 kéo cắt); 01 ống hút nhựa hàn kín một đầu); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (nỏ; ống hút; bình thủy tinh); 20 bịch nylon rãnh âm dương; 01 bịch nylon chứa nhiều gói nylon loại nhỏ;

01 cây nhíp bằng kim loại; 01 quẹt gas; 01 bình gas mini màu đen. Xét thấy các tang vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 01 cân điện tử màu đen, bị cáo Trần Hoàng H khai nhận đây là điện thoại bị cáo dùng vào việc phạm tội; 01 điện thoại di động Iphone màu vàng (imei:…7680339, có sim mobi) bị cáo Từ Hải H1 khai nhận đây là điện thoại bị cáo dùng vào việc phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử tịch thu, sung quỹ Nhà nước các tang vật này.

- Đối với 01 điện thoại di động Iphone màu trắng (imei:...007156, có sim mobi) là của H sử dụng để liên lạc với gia đình, bạn bè, không liên quan đến hành vi phạm tội của H; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng (imei:...008570) thu giữ lúc khám xét là của bà Mai Thị Ánh M (là vợ của H) sử dụng để liên lạc với gia đình, bạn bè không liên quan đến hành vi phạm tội của H, nên giao trả lại cho bà Mai Thị Ánh M.

- Đối với số tiền 400.000 đồng là tiền của bà Mai Thị Ánh M đưa cho H để mua thuốc cho con (đã nộp Kho bạc Nhà nước), nên giao trả lại cho bà M.

- Đối với số tiền 550.000 đồng thu giữ của bị cáo Từ Hải H1, bị cáo khai nhận trong số tiền này gồm 200.000 đồng là bị cáo có được từ việc bán 01 gói ma túy cho Lê Thành D và 350.000 đồng là bị cáo có được từ việc bị cáo làm thêm (đã nộp Kho bạc Nhà nước). Do đó, tịch thu sung quỹ số tiền 200.000 đồng và hoàn trả lại cho bị cáo số tiền 350.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Honda, biển số 59C1-X (số máy: JF51E- 0089359; số khung: RLHJF510XDY089307). Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã trả lại cho ông Ngô Bành S (sinh năm 1966; hộ khẩu thường trú: 103K3/9A Bình Đông, Phường 14, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh) theo Quyết định xử lý vật chứng số 85-16 ngày 20/4/2018, nên không xem xét xử lý.

[6] Về án phí: Các bị cáo pH nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Hoàng H, Từ Hải H1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Hoàng H 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/02/2018.

Buộc bị cáo Trần Hoàng H nộp phạt số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.

2. Áp dụng điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Từ Hải H1 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/02/2018.

Buộc bị cáo Từ Hải H1 nộp phạt số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.

3. Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 03 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 464/2018 (1, 2, 3) có chữ ký của Giám định viên Lê Thị H và Điều tra viên Nguyễn Văn P, bên trong là ma túy còn lại sau giám định;

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (nỏ, ống hút, bình thuỷ tinh);

+ 01 ống hút nhựa hàn kín một đầu;

+ 20 bịch nylon rãnh âm dương;

+ 01 bịch nylon chứa nhiều gói nylon loại nhỏ;

+ 05 kéo (gồm: 03 kéo kẹp; 02 kéo cắt);

+ 01 cây nhíp bằng kim loại; 01 quẹt gas; 01 bình gas mini màu đen.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động Nokia màu đen;

+ 01 điện thoại di động Iphone màu vàng (imei:…7680339, có sim mobi);

+ 01 cân điện tử màu đen;

+ Số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo Từ Hải H1.

- Trả lại cho bị cáo Trần Hoàng H 01 điện thoại di động Iphone màu trắng (imei:...007156, có sim mobi) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho bà Mai Thị Ánh M 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng (imei:...008570).

Giao trả cho bị cáo Từ Hải H1 số tiền 350.000 (ba trăm năm mươi ngàn) đồng, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Giao trả cho bà Mai Thị Ánh M số tiền 400.000 (bốn trăm ngàn) đồng.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 100/19 ngày 22/11/2018 của Cục Thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh và Giấy nộp tiền vào tài khoản số 394909059775.00000 tại Kho bạc Nhà nước Quận 10 ngày 29/5/2018.) Mỗi bị cáo pH nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bà Mai Thị Ánh M được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 36/2019/HS-ST

Số hiệu:36/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;