Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 349/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 349/2020/HS-ST NGÀY 04/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 12 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 338/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 338/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức C, sinh ngày 17 tháng 01 năm 1990 tại: Huyện H, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm B xã A, huyện H, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 5 đường T, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Nhân viên Công ty cấp nước Nam Định; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình T và bà Đỗ Thị H; chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30-5-2020 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Trần Triều D Anh Trần Vũ P

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 19-5-2020, Trần Triều D, sinh năm 1998, trú tại: Đường V, phường L1, thành phố N; Trần Vũ P, sinh năm 1997, trú tại: Đường V, phường L1, thành phố N; Trần Hữu T1, sinh năm 1998, trú tại: Đường T, phường L1, thành phố N; Nguyễn Thanh T2, sinh năm 1998, trú tại: Đường T1, phường L1, thành phố N; Trần Công C1, sinh năm 1998, trú tại: Đường V, phường L1, thành phố N; Đỗ Quốc Đ, sinh năm 1998, trú tại: Đường V1, phường L1, thành phố N; Trần Quang A, sinh năm 1998, trú tại: Đường V, phường L1, thành phố N; Hùng (chưa xác định được lai lịch) và một số bạn đi ăn mừng sinh nhật Trần Công C1 tại quán V, địa chỉ: Đường S, phường K, thành phố N. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, P và D bàn với cả nhóm ăn xong sẽ đi hát Karaoke và sử dụng ma túy tổng hợp thì mọi người đồng ý. P đưa cho D số tiền 1.500.000 đồng và D bỏ thêm số tiền 1.500.000 đồng để mua ma túy trước, cả nhóm thống nhất còn những ai cùng đến và sử dụng ma túy thì sẽ góp tiền lại trả sau. Khoảng 20 giờ 53 phút cùng ngày, D sử dụng điện thoại lắp sim số 0947.202.198 nhắn tin vào số điện thoại 0942.776.597 của Nguyễn Đức C để hỏi mua 10 viên ma túy tổng hợp dạng thuốc “lắc” thì Nguyễn Đức C đồng ý. Nguyễn Đức C và D thỏa thuận số tiền mua 10 viên ma túy tổng hợp là 3.000.000 đồng (300.000 đồng/01 viên). Sau đó, D gọi điện vào số điện thoại 0912.032.364 cho Vũ Thị T3, sinh năm 1968, trú tại: Đường Đ, phường L2, thành phố N nói: “Cho cháu 01 phòng tầng 1, khoảng 21 giờ 30 phút cháu qua” để đặt 01 phòng hát tại quán Karaoke K, địa chỉ: Đường Đ, phường L2, thành phố N do Vũ Thị T3 và chồng là Trần Quang T4 làm chủ quán. P cùng Hùng, T1 đi đến quán Karaoke K trước, rồi vào phòng hát ở tầng 1. Sau đó D; Đ; Quang A; Đặng Đức T5, sinh năm 1999, trú tại: Đường V1, phường L1, thành phố N và Uyên (chưa xác định được lai lịch) đến. Tiếp theo có Trần Đức M, sinh năm 2000, trú tại: Đường V, phường L1, thành phố N; Nguyễn Thị Phương O, sinh ngày 23-8-2004, trú tại: Đường P, phường X, thành phố N và Hà Thanh T6, sinh ngày 28-10-2005, trú tại: Tổ dân phố LX, phường L2, thành phố N do P rủ đến phòng hát, rồi đến Trần Công C1; Nguyễn Thanh T2 và Tùng “Cong” (chưa xác định được lai lịch) đến phòng hát tại tầng 1 của quán Karaoke K.

Sau khi D hỏi mua ma túy, Nguyễn Đức C gọi điện cho Trọng (chưa xác định được lai lịch) hỏi mua 10 viên ma túy tổng hợp thuốc “lắc” thì Trọng đồng ý. Trọng và Nguyễn Đức C thỏa thuận giá mua 10 viên ma túy tổng hợp là 270.000 đồng/01viên x 10 viên = 2.700.000 đồng và hẹn Nguyễn Đức C ra chân cầu Tân Phong, xã Nam Phong, thành phố Nam Định để lấy ma túy. Nguyễn Đức C điều khiển xe máy biển kiểm soát 18H1-279.72 đến chân cầu Tân Phong gặp Trọng lấy 01 túi ni-long màu trắng, bên trong có chứa 10 viên ma túy tổng hợp thuốc “lắc” hình đầu lâu màu xanh lá cây và hẹn sẽ trả tiền sau. Đến 21 giờ 58 phút cùng ngày, khi Nguyễn Đức C đang trên đường mang ma tuý đến thì D lại gọi điện cho Nguyễn Đức C nói: “Anh lấy thêm cho em 03 viên thuốc “lắc” và nửa chỉ Ketamine”. Nguyễn Đức C đồng ý. Nguyễn Đức C đến cổng quán Karaoke K và gọi điện cho D ra lấy ma túy. D đi ra cổng trước quán Karaoke K, Nguyễn Đức C đưa qua khe cổng cho D 01 túi ni-long màu trắng, bên trong có 10 viên ma túy tổng hợp thuốc “lắc”. D trả cho Nguyễn Đức C 3.000.000 đồng. Nguyễn Đức C nhận tiền D đưa rồi đi luôn. Đến 22 giờ 18 phút cùng ngày, D nhắn tin và gọi điện cho Nguyễn Đức C giục mua thêm 03 viên thuốc “lắc” và nửa chỉ Ketamine. Hai bên thỏa thuận giá mua 03 viên thuốc “lắc” là 900.000 đồng, nửa chỉ Ketamine là 1.500.000 đồng, tổng cộng là 2.400.000 đồng và D bảo: “Anh cho em nợ tiền, sáng mai em trả anh”. Nguyễn Đức C đồng ý và gọi điện cho Trọng hỏi mua tiếp 03 viên thuốc “lắc”, nửa chỉ Ketamine và thỏa thuận giá mua 03 viên thuốc “lắc” là 270.000 đồng/01viên = 810.000 đồng, nửa chỉ Ketamine là 1.350.000 đồng, tổng cộng là 2.160.000 đồng. Nguyễn Đức C đến gặp Trọng tại cầu Tân Phong lấy 03 viên thuốc “lắc”, nửa chỉ Ketamine và đưa cho Trọng số tiền 3.000.000 đồng (gồm 2.700.000 đồng trả tiền mua 10 viên thuốc “lắc trước đó) và nói: “Có gì mai thanh toán nốt”. Khoảng 22 giờ 52 phút cùng ngày, Nguyễn Đức C mang ma túy đến cho D thì D rủ Nguyễn Đức C vào sử dụng cùng. Nguyễn Đức C đồng ý. Tại trước cửa phòng hát tầng 01 quán Karaoke K, Nguyễn Đức C đưa cho D 01 túi ni-long, bên trong có chứa 3 viên thuốc “lắc” hình đầu lâu màu xanh lá cây và 01 túi ni-long chứa Ketamine. D cầm số ma túy vào phòng hát, mượn Đ 01 thẻ ATM màu xanh của ngân hàng Agribank, số thẻ: 9704.0508.4493.6596, chủ thẻ: “NGUYEN THI KIEU NGAN” và cầm theo 01 đĩa sứ vào nhà vệ sinh trong phòng hát. Tại đây, D đốt giấy vệ sinh hơ nóng đĩa sứ và đổ ma túy Ketamine ra đĩa rồi dùng thẻ ATM mượn của Đ để nghiền nhỏ các hạt tinh thể Ketamine cho mịn (gọi là xào ke). Tại phòng hát, tất cả các đối tượng đều tham gia sử dụng ma túy, chỉ có M không sử dụng ma túy. Số ma túy vừa mua của Nguyễn Đức C thì cả nhóm đã sử dụng hết. Sau khi dùng thẻ ATM xong, D đã trả lại, Đ cầm chiếc thẻ ATM bỏ vào phía bên trong ốp điện thoại của mình.

Khoảng 02 giờ ngày 20-5-2020 thì Hà Thanh T6 có biểu hiện mắt trợn ngược, hò hét và nằm quằn quại trên ghế salon. Sau đó T6 được D cõng ra ngoài, đặt lên sập ở phòng khách quán Karaoke K. Thành, Uyên, M và bà T3 thay nhau chăm sóc cho T6. Khoảng hơn 03 giờ ngày 20-5-2020 thì cả bọn nghỉ không hát nữa. P đã chuyển khoản trả cho bà T3 số tiền 2.000.000 đồng, D thanh toán nốt cho cho bà T3 số tiền 1.280.000 đồng.

Các đối tượng ra về, trong khi đó T6 vẫn đang có biểu hiện sốc ma túy, sức khỏe yếu. D gọi xe taxi đến, sau đó O lên ngồi ghế phụ phía trên, M và T6 ở ghế sau của xe taxi. Tất cả đi đến Nhà nghỉ Hà Anh, địa chỉ: Số 49 đường Nguyễn Viết Xuân, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định. M thuê 2 phòng số 302 và số 303 của nhà nghỉ. T1 cõng T6 lên phòng số 303, sau đó để T6 ở lại cùng M, rồi T1 và O sang phòng số 302.

Đến 04 giờ 30 phút ngày 20-5-2020, phát hiện thấy T6 đã tử vong nên O, M, T1 bỏ về. Đến khoảng 6 giờ 30 phút cùng ngày, bà Nguyễn Thị Nga là lễ tân nhà nghỉ Hà Anh phát hiện tử thi Hà Thanh T6 nằm trên giường tại phòng số 303 của nhà nghỉ nên đã trình báo cơ quan Công an.

Ngay sau khi tiếp nhận tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã chủ trì phối hợp cùng các đơn vị chức năng khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi Hà Thanh T6, thu thập tài liệu chứng cứ, triệu tập 11 đối tượng liên quan đến vụ việc gồm: Nguyễn Đức C, Trần Đức M, Trần Triều D, Trần Hữu T1, Trần Vũ P, Trần Công C1, Đỗ Quốc Đ, Trần Quang A, Nguyễn Thanh T2, Nguyễn Thị Phương O, Đặng Đức T5 lên làm việc.

Khám xét khẩn cấp tại quán Karaoke K, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định thu giữ ở ngoài sân phía tay phải trước nhà 01 đĩa sứ màu trắng, hình tròn, đường kính 25 cm; thu giữ trong ngăn bàn lễ tân 01 âu nhựa màu hồng, bên trong có 02 thẻ nhựa: 01 thẻ nhựa màu xanh, trên mặt có ghi chữ TECHCOMBANK và số 9704078843989167, 01 thẻ nhựa màu vàng trên mặt có chữ VIETNAMMOBILE, trên bề mặt cả 02 thẻ nhựa đều có chất bám dính, dạng chất bột màu trắng, đã niêm phong.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã lấy 11 mẫu nước tiểu của Nguyễn Thanh T2, Trần Công C1, Trần Triều D, Đỗ Quốc Đ, Trần Đức M, Trần Quang A, Trần Hữu T1, Nguyễn Thị Phương O, Nguyễn Đức C, Trần Vũ P, Đặng Đức T5. Đồng thời thu giữ của Đỗ Quốc Đ 01 thẻ ATM màu xanh của ngân hàng Agribank, số thẻ 9704.0508.4493.6596, chủ thẻ “NGUYEN THỊ KIEU NGAN”.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại các bản kết luận giám định số 548/GĐKTHS ngày 24-5-2020, số 559/GĐKTHS ngày 26-5-2020, số 573/GĐKTHS ngày 02- 6-2020, số 683/GĐKTHS ngày 21-6-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận:

- Mẫu bột trắng bám dính trên bề mặt 01 thẻ ATM màu xanh của ngân hàng Agribank, số thẻ 9704.0508.4493.6596, chủ thẻ “NGUYEN THI KIEU NGAN” là ma túy, loại ma túy: Ketamine, không xác định được khối lượng ma túy.

- Có tìm thấy thành phần các chất: MDMA, Ketamine, Norketamin và DehydroKetamine (Norketamin và DehydroKetamine là những sản phẩm chuyển hóa của Ketamine trong nước tiểu) trong 05 mẫu nước tiểu của Trần Công C1, Trần Triều D, Trần Quang A, Trần Hữu T1, Nguyễn Đức C.

- Có tìm thấy thành phần MDMA trong 03 mẫu nước tiểu của Nguyễn Thanh T2, Đỗ Quốc Đ, Nguyễn Thị Phương O.

- Không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp trong mẫu nước tiểu của Trần Đức M, Trần Vũ P, Đặng Đức T5.

- Mẫu bột màu trắng bám dính trên 01 chiếc thẻ nhựa màu xanh, trên mặt có ghi chữ TECHCOMBANK và 01 chiếc thẻ nhựa màu vàng, trên mặt có chữ VIETNAMMOBILE đều là ma túy, loại ma túy: Ketamine, không xác định được khối lượng ma túy.

Tại bản kết luận giám định pháp y tử thi số 3031/C09TT1 ngày 22-6-2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:

- Trên cơ thể Hà Thanh T6 không có tác động của ngoại lực dẫn đến tử vong, có dấu hiệu suy hô hấp.

- Tình trạng bộ phận sinh dục: Tiền đình âm đạo có 04 vết xây sát, tụ máu sát gốc màng trinh, màng trinh không rách, trong buồng tử cung không có thai, chỉ xác định tổn thương tại bộ phận sinh dục, không xác định hành vi trước khi chết Hà Thanh T6 có quan hệ tình dục hay không.

- Xét nghiệm mô bệnh học: Hình ảnh tim xung huyết, xuất huyết rải rác, tế bào cơ tim đứt đoạn, thoái hóa, lượn sóng, phổi phù, phế nang xung huyết, xuất huyết M, rách đứt phế nang, các tạng khác xung huyết, thoái hóa tế bào.

- Xét nghiệm độc chất phủ tạng và các chất kích thích: Trong mẫu máu không tìm thấy Ethanol (cồn), có tìm thấy chất ma túy MDMA (3,4 - Methylenedioxymethamphetamine). Trong mẫu phủ tạng, máu không tìm thấy các chất độc thường gặp.

- Nguyên nhân chết của Hà Thanh T6: Sốc do sử dụng ma túy.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã thông báo kết luận giám định trên cho các đối tượng biết. Các đối tượng đều công nhận kết quả trên là đúng, phù hợp với việc các đối tượng đã sử dụng ma túy ngày 19-5-2020. P, T5 khai nhận đã sử dụng ma túy nhưng sau đó bỏ trốn, khi bị triệu tập lên để làm việc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tiến hành thu mẫu nước tiểu của P, T5 và trưng cầu giám định nhưng không phát hiện được chất ma túy trong mẫu nước tiểu.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Đức C đã khai nhận hành vi mua ma túy của Trọng rồi bán lại cho Trần Triều D để hưởng lợi bất chính. Trần Triều D đã khai nhận hành vi mua ma túy của Nguyễn Đức C rồi cùng các đối tượng khác sử dụng ma túy tại quán Karaoke K vào tối ngày 19-5-2020.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Thị T3 khai nhận chiếc đĩa sứ nói trên là của gia đình Thủy dùng để đựng thức ăn, 02 chiếc thẻ ngân hàng TECHCOMBANK và VIETNAMMOBILE Thủy khai nhận nhặt được khi dọn dẹp tại phòng hát tầng 1 của quán Karaoke, không biết của ai. Vợ chồng Thủy cho Trần Triều D và nhóm bạn thuê phòng để hát Karaoke và tổ chức sinh nhật, không cho phép và không biết nhóm D có sử dụng ma túy khi thuê phòng hát.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Nguyễn Đức C, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tách ra để điều tra tiếp, xử lý sau.

Công an thành phố Nam Định đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Đức C, Nguyễn Thanh T2, Trần Công C1, Trần Triều D, Đỗ Quốc Đ, Trần Quang A, Trần Hữu T1, Nguyễn Thị Phương O, Nguyễn Đức C, Trần Vũ P, Đặng Đức T5 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đồng thời đã trả lại cho Trần Triều D chiếc điện thoại đã thu giữ.

Đối với hành vi hoạt động Karaoke quá giờ được phép của Trần Quang T4 và Vũ Thị T3 là chủ quán Karaoke K, Công an thành phố Nam Định đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Đối với hành vi có dấu hiệu không cứu giúp người trong trạng thái nguy hiểm đến tính mạng của Trần Đức M, Trần Hữu T1, Nguyễn Thị Phương O, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ để xử lý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tách ra tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Đối với hành vi có dấu hiệu chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, qua điều tra chưa có đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh việc Vũ Thị T3 và Trần Quang T4 biết và đồng ý để cho nhóm D thuê phòng hát tại quán Karaoke K để sử dụng ma túy nên chưa đủ có căn để cứ xử lý, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tách ra tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, xử lý sau.

Trong quá trình điều tra vụ án này, đối tượng Trần Đức M còn khai: Thời điểm M ở cùng phòng 303 Nhà nghỉ Hà Anh cùng với Hà Thanh T6, trong khi T6 đang trong trạng thái sốc ma túy như đã nêu trên, M đã có hành vi hiếp dâm T6. Tuy nhiên tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tách ra tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, xử lý sau.

Đối với hành vi của các đối tượng Hùng, Tùng “Cong” và Uyên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định chưa xác minh, triệu tập được, nên chưa có căn cứ để xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định tách ra tiếp tục làm rõ, xử lý sau.

Bản cáo trạng số 337/CT-VKSTPNĐ ngày 16-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Nguyễn Đức C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức C khai nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy như bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Nguyễn Đức C tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy vật chứng là các mẫu ma túy và mẫu nước tiểu; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước chiếc điện thoại di động Nokia X6.

Bị cáo Nguyễn Đức C nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức C không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Đức C tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản khám xét ngày 20-5-2020; sơ đồ hiện trường; biên bản thu giữ vật chứng; các bản kết luận giám định số 548/GĐKTHS ngày 24-5-2020, số 559/GĐKTHS ngày 26-5-2020, số 573/GĐKTHS ngày 02-6-2020, số 683/GĐKTHS ngày 21-6-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; bản kết luận giám định pháp y tử thi số 3031/C09TT1 ngày 22-6-2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an; lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 23 giờ ngày 25-8-2020, tại quán Karaoke K, địa chỉ: Đường Đ, phường L2, thành phố N, tỉnh Nam Định, bị cáo Nguyễn Đức C đã có hành vi bán trái phép chất ma túy MDMA và Ketamine cho Trần Triều D, sau đó cùng với các đối tượng khác đã sử dụng hết số ma túy đã mua.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Đức C là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội; bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi mua bán ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; toàn bộ số ma túy bị cáo đã mua bán hiện các đối tượng đã sử dụng hết, không xác định được khối lượng nên bị cáo Nguyễn Đức C đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì bị cáo Nguyễn Đức C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, gia đình bị cáo có công với cách mạng nên bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [4] Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Đức C là nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đối với an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Nam Định, nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. Tuy nhiên do bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử sẽ giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét thấy bị cáo Nguyễn Đức C có hoàn cảnh khó khăn nên Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Các mẫu ma túy và mẫu nước tiểu đã có kết luận giám định sẽ tiêu hủy. Xét thấy chiếc điện thoại di động Nokia X6 là công cụ bị cáo Nguyễn Đức C sử dụng trong việc liên hệ mua bán ma túy nên sẽ tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí:

Bị cáo Nguyễn Đức C bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C 02 năm 06 tháng tù (hai năm sáu tháng tù). Thời hạn tù tính từ ngày 30-5-2020.

2. Xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy các mẫu ma túy và tiêu hủy các mẫu nước tiểu đã được niêm phong số 548/GĐKTHS, 559/GĐKTHS 573/GĐKTHS, 683/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước chiếc điện thoại di động Nokia X6 đã được niêm phong trong túi mã số 1905904.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16-11-2020).

3. Án phí:

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Đức C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Đức C có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 349/2020/HS-ST

Số hiệu:349/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;