Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 334/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 334/2021/HS-ST NGÀY 27/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận quận H, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 330/2021/TLST-HS ngày 25/11/2021; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 331/2021/QĐXXST-HS ngày 09/12/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Thị N; Giới tính: Nữ; Sinh năm 1993; HKTT: Thôn T, xã B, huyện V, tỉnh T;

Hiện đang thuê trọ tại nhà ông Nguyễn Đức L, sinh năm 1979 và bà Nguyễn Thị Ngọc Ch, sinh năm 1982 tại số nhà 27, ngách 467/146 đường L, phường L, quận H, Thành phố Hà Nội (theo hợp đồng thuê nhà ngày 17/7/2020 giữa ông Nguyễn Đức L, bà Nguyễn Thị Ngọc Ch và ông Hoàng Mạnh Q);

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Phạm Đức L - sinh năm 1971; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị Nc- sinh năm 1972; Anh, chị, em ruột: Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ nhất; Chồng: Hoàng Mạnh Q - sinh năm 1991 (chưa đăng ký kết hôn); Con: có 01 con (Hoàng An N, sinh ngày 28/10/2019);

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 29/07/2021 đến ngày 07/08/2021; hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, kể từ ngày 07/08/2021.

Danh chỉ bản số 656 do Công an quận Hà Đông lập ngày 06.8.2021.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thị N, sinh năm: 1993, hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã B, huyện V, tỉnh T; thuê trọ tại: số 27, ngách 146, ngõ 477, đường L, quận H, thành phố Hà Nội, là đối tượng sử dụng chất ma túy.

Do muốn có tiền ăn tiêu và sử dụng ma túy, N nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại kiếm lời. Thông qua bạn bè giới thiệu, N có số điện thoại 0989091102 của người tên T (N không biết tên, địa chỉ, nhân thân, lai lịch). Sáng ngày 28/7/2021, sau khi điện thoại cho T, N một mình đi xe ôm của người không quen biết đến khu vực gầm cầu vượt đường TC như đã hẹn. Tại đây, N gặp một người nam giới không quen biết khoảng 28 tuổi (do N chưa gặp T lần nào nên không biết có phải là T không), N đến gần người nam giới và nói: “Em đến lấy ma túy”. Người nam giới nói: “Đưa tiền đây”. N đã đưa cho người nam giới số tiền 3.400.000 đồng, người nam giới đưa lại cho N 01(một) túi ni lông màu trắng, kích thước khoảng 3x5cm, bên trong có 05 viên nén màu xanh kích thước như nhau là ma túy loại MDMA và 02(hai) túi bên ngoài bọc bằng ni lông màu trắng, kích thước như nhau khoảng 2x2cm, bên trong các túi đều chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Ketamine. Sau khi mua được ma túy, N cất vào túi xách màu đen mang theo và mang về để ở phòng trọ. Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 29/7/2021, khi N đang ở phòng trọ thì có một người nam giới dùng số điện thoại 0878324426 gọi đến số điện thoại 0813675xxx của N, tự giới thiệu là bạn của Nam “mít” (bạn quen biết xã hội của N), hỏi mua 01 chỉ ma túy tổng hợp Ketamine và 05 viên ma túy tổng hợp dạng “thuốc lắc”, N đồng ý thỏa thuận giá là 6.500.000 đồng và hẹn giao số ma túy ở khu vực chung cư M, phường M, quận Hà Đông. Sau khi thỏa thuận, N mang theo túi xách màu đen bên trong có 01 chỉ ma túy tổng hợp Ketamine và 05 viên ma túy tổng hợp dạng “thuốc lắc”, rồi nhờ anh Hoàng Mạnh Q-sinh năm 1991; HKTT: Số 13, ngõ 1, đường Q, phường Q, thị xã S, Hà Nội (là chồng của N), điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave an- pha, màu xanh, BKS 29P1-40xxx chở N đi đến chỗ hẹn. Khi đi đến cổng A chung cư M, phường M, quận H, N bảo Q đứng đợi ở ngoài còn N đi bộ một mình vào sảnh của chung cư M. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày 29/7/2021, N đi đến sảnh A, chung cư M, phường M, quận H để bán ma túy cho người nam giới như đã hẹn. Trong khi N đang chuẩn bị bán ma túy cho người nam giới hỏi mua thì bị lực lượng Công an phường M quận Hà Đông, thành phố Hà Nội kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang, người nam giới hỏi mua ma túy của N bỏ chạy mất.

Ngày 30/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an quận H ra Lệnh khám xét khẩn cấp số 157 và tiến hành khám xét nơi ở của Phạm Thị N tại số 27 ngách 146 ngõ 467 đường L, phường L, quận H, TP.Hà Nội, nhưng không thu giữ gì.

Vật chứng thu giữ:

- 01(một) túi bên ngoài bọc bằng ni lông màu trắng, kích thước (3x5)cm, bên trong chứa 05 viên nén màu xanh, kích thước như nhau, nghi là ma túy;

- 02(hai) túi bên ngoài bọc bằng ni lông màu trắng, đều có kích thước (2x2)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy;

- 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu xám, số imei: 35204607968xxxx, lắp sim số 081367xxxx, đã qua sử dụng;

Ngày 29/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an quận H đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với 01(một) túi bên ngoài bọc bằng ni lông màu trắng, kích thước (3x5)cm, bên trong chứa 05 viên nén màu xanh, kích thước như nhau và 02(hai) túi bên ngoài bọc bằng ni lông màu trắng, đều có kích thước (2x2)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, đều nghi là ma túy đã thu giữ nêu trên của Phạm Thị N. Tại bản Kết luận giám định số 6165/KLGĐ-PC09 ngày 05/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, kết luận:

“- Tinh thể màu trắng, bên trong 02 túi ni lông màu trắng, đều là ma túy loại Ketamine, có tổng khối lượng 1,521 gam.

- 05 viên nén màu xanh, bên trong 01 túi ni long màu trắng, đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 1,683 gam.”.

Tại Cáo trạng số 324/CT-VKS-HĐ ngày 18.11.2021, Viện kiểm sát nhân dân quận H đã truy tố Phạm Thị N về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt mức hình phạt nhẹ nhất cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đề nghị Xử phạt: Phạm Thị N từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai nhận tội của các bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hoàn toàn đúng với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Sáng ngày 28/7/2021, tại khu vực cầu vượt đường T, Hà Nội, Phạm Thị N đã mua 01 chỉ ma túy tổng hợp Ketamine và 05 viên ma túy tổng hợp dạng “thuốc lắc” với giá 3.400.000 đồng với mục đích để bán kiếm lời. Đến 12 giờ 30 phút ngày 29/07/2021, Nmang số ma túy gồm: 01(một) túi bên ngoài bọc bằng ni lông màu trắng kích thước (3x5)cm, bên trong chứa 05 viên nén màu xanh là ma túy loại MDMA, khối lượng 1,683 gam và 02(hai) túi bên ngoài bọc bằng ni lông màu trắng, đều có kích thước (2x2) cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Ketamine có khối lượng 1,521 gam, tổng khối lượng của hai chất ma túy là 3.204 gam, đến khu vực chung cư M, phường M, quận H để bán thì bị Công an phường M kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng.

[3]. Hành vi trên của bị cáo là trái phép, đủ yếu tố cấu thành tội phạm; tội phạm do bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an an toàn xã hội. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải có mức hình phạt nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân chưa tiền án, tiền sự; bị cáo đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4]. Về xử lý vật chứng: 01(một) phong bì thư của Công an thành phố Hà Nội dán kín, tại các mép dán có chữ ký của Phạm Thị N, cán bộ Công an phường M Vương Văn D và giám định viên Trần Huy V bên trong có ma túy là vật cấm lưu hành và 01 túi xách mầu đen N sử dụng để cất giữ ma túy cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động Iphone 6plus màu xám, có số sim 081367xxxx bị cáo sử dụng trong quá trình mua bán ma túy nên cần tịch thu, phát mại, sung quỹ nhà nước.

[5]. Về nguồn gốc ma túy thu giữ trong vụ án: Phạm Thị N khai mua của một người nam giới tên là T (N không biết tên cụ thể, nhân thân, lai lịch) ở khu vực đường T, quận Đ, TP.Hà Nội, có sử dụng số điện thoại là 0989091xxx. Kết quả điều tra xác định: số điện thoại 0989091xxx được đăng ký chủ thuê bao mang tên Nguyễn Thanh T, SN 1992, HKTT: số 159, tổ 3, phường T, quận Tthành phố Hà Nội. Công an phường T, quận T, thành phố Hà Nội cung cấp không xác định được tại địa chỉ trên không có ai là Nguyễn Thanh T- sinh năm 1992, không có căn cước công dân và chứng minh thư nhân dân lưu trong dữ liệu quản lý của công an phường T, quận T, thành phố Hà Nội. Nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để điều tra làm rõ. Do đó, Cơ quan điều tra đã tách đối tượng bán ma túy khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh; khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với người nam giới sử dụng số điện thoại 0878324xxx gọi đến số điện thoại 0989091xxx của N thỏa thuận mua ma túy. Kết quả điều tra xác định: số điện thoại 0878324xxx được đăng ký chủ thuê bao mang tên Nguyễn Th, SN 1985, HKTT: xã Q, huyện Q, tỉnh TTH. Anh Nguyễn Th khai không sử dụng số điện thoại 0878324xxx cũng như không cho ai mượn chứng minh nhân dân và cũng không đăng ký hộ ai số thuê bao điện thoại 0878324xxx nêu trên nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để điều tra làm rõ. Do đó, Cơ quan điều tra đã tách đối tượng mua ma túy khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh; khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với Hoàng Mạnh Q (là chồng của N nhưng chưa đăng ký kết hôn). Ngày 29/7/2021, Q điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Hond Wave an-pha, màu xanh, BKS 29P1-40xxx chở Nđi từ nhà đến chung cư M thuộc phường M, quận H, thành phố Hà Nội. Kết quả điều tra xác định: Q không biết việc N mang theo ma túy và không biết N mang ma túy đi bán cho người khác, đến khi N bị Công an bắt thì Q với biết N mang theo ma túy để bán. Cơ quan CSĐT Công an quận H không đề cập xử lý đối với Q trong vụ án này với vai trò đồng phạm với hành vi của N .

[6]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1- Tuyên bố bị cáo Phạm Thị N phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

2- Xử phạt: bị cáo Phạm Thị N 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam (từ ngày 29/7/2021 đến 07/8/2021).

3- Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01(một) phong bì thư của Công an thành phố Hà Nội dán kín, tại các mép dán có chữ ký của Phạm Thị N, cán bộ Công an phường M Vương Văn D và giám định viên Trần Huy V; 01 túi xách màu đen.

Tịch thu, phát mại sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone 6 plus màu xám có số thuê bao 0813675xxx.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/12/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận H và Chi cục thi hành án dân sự quận H).

4- Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Thị N phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Thị N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

452
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 334/2021/HS-ST

Số hiệu:334/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;