Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 33/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 33/2021/HS-ST NGÀY 25/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 762/2020/HSST ngày 20/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2021/QĐXXST-HS ngày 08/01/2021 đối với bị cáo:

Đỗ Văn H, sinh năm 1974 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: C07 Trệt Chung cư Võ Văn K, phường C, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Phòng số 2, Gác nhà không số (cạnh số nhà 67) đương V, Phường F, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn L và bà Đỗ Thị N;

Nhân thân:

- Ngày 23/7/1990 bị Công an Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh bắt về hành vi “Cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân”. Đến ngày 07/8/1990, Công an Quận A xử lý cảnh cáo tha.

- Tại Bản án số 577/HSST ngày 05/9/1991, bị Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân”, chấp hành xong hình phạt ngày 07/02/1994;

Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt tạm giam ngày 07/7/2020 (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Ngọc L thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi bào chữa cho bị cáo Đỗ Văn H (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ 15 phút ngày 07/7/2020, tại trước nhà số 1 Bùi Thị X, phường P, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an Quận A phát hiện bắt quả tang Đỗ Văn H đang điều khiển xe gắn máy biển số 59L1-625.xx có hành vi cất giấu ma túy để bán. Thu giữ trong túi quần của H 01 gói nylon chứa bột màu trắng, qua giám định là ma túy có khối lượng 37,5180g loại Heroine (Theo Kết luận giám định số 1155/KLGĐ-H ngày 15/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Quá trình điều tra, Đỗ Văn H khai nhận: H quen biết và mua ma túy của người tên T (không rõ lai lịch) mang về bán lại cho người khác kiếm lời. H đã mua được 02 lần, cụ thể:

- Lần 1: Vào ngày 01/7/2020, H mua của T 05 chỉ Heroine với giá 13.500.000 đồng tại khu vực Quốc lộ 50, huyện B. Sau đó, đem đến khu vực Trung Sơn, huyện B bán cho H1 (không rõ lai lịch) với giá 15.500.000 đồng, thu lợi 2.000.000 đồng;

- Lần 2: Khoảng 15 giờ ngày 07/7/2020, H đến khu vực đường Phạm Văn B, Phường C, quận G mua của T 10 chỉ Heroine với giá 27.000.000 đồng. Sau khi nhận được ma túy, H cất vào túi quần rồi đi về để bán lại cho H1 với giá 31.000.000 đồng thì bị phát hiện bắt giữ.

* Vật chứng thu giữ: 01 gói niêm phong số 1155/20, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định; 02 điện thoại di động; 01 bóp màu nâu; 01 đôi giày; 01 khăn; 02 quần Jean; 01 áo; 01 xe gắn máy biển số 59L1-625.xx và số tiền 490.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 558/CT-VKS-P1 ngày 17/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Đỗ Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đỗ Văn H khai nhận: về nội dung sự việc, diễn biến các hành vi như nội dung cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo nhận tội và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình.

Sau khi kiểm tra toàn bộ lời khai của bị cáo cùng với các tài liệu chứng cứ khác được đưa ra xem xét tại phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đỗ Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đỗ Văn H từ 15 đến 16 năm tù; buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Đồng thời, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Luật sư Nguyễn Ngọc L trình bày bài bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát truy tố. Chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; lần phạm tội này được xác định là không có tiền án, tiền sự; học vấn thấp; sức khỏe yếu do bị sơ gan và bị hoại tử tinh hoàn; đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra sớm kết thúc vụ án. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt bị truy tố.

Bị cáo Đỗ Văn H thống nhất với lời bào chữa của vị luật sư, không tranh luận gì thêm.

Đối đáp lại quan điểm của vị luật sư, đại diện Viện kiểm sát cho rằng: Luật sư thống nhất về tội danh và khung hình phạt nên Viện kiểm sát không tranh luận. Về tình tiết giảm nhẹ luật sư cho rằng bị cáo có học vấn thấp, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế là chưa đúng vì trước đây bị cáo đã từng phạm tội, đã được giáo dục khi bị xét xử và trong quá trình thi hành án. Việc bị cáo thành khẩn khai báo đã được áp dụng là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên không có cơ sở để áp dụng điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo.

Trong phần nói lời sau cùng, bị cáo Đỗ Văn H thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình, hòa nhập xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, luật sư và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Văn H không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Luật sư bào chữa cho bị cáo không có ý kiến về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đỗ Văn Hđã khai nhận toàn bộ những hành vi sai trái do bị cáo gây ra như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở xác định: Đỗ Văn Hđã mua ma túy từ một đối tượng tên T (không rõ lai lịch) để mang bán cho đối tượng tên H1 (không rõ lai lịch) nhằm kiếm lời. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 07/7/2020, H điều khiển xe gắn máy biển số 59L1-625.xx đến khu vực đường Phạm Văn Bạch, Phường 12, quận Gò Vấp mua của T 10 chỉ Heroine với giá 27.000.000 đồng. Sau khi nhận được ma túy, H cất vào túi quần rồi đi về để bán lại cho H1. Khi đi đến trước nhà số 154 Bùi Thị Xuân, phường Phạm Ngũ Lão, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, thì bị phát hiện, bắt giữ cùng tang vật. Thu giữ trong túi quần của H 01 gói nylon chứa bột màu trắng, qua giám định là ma túy có khối lượng 37,5180g loại Heroine (Theo Kết luận giám định số 1155/KLGĐ-H ngày 15/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Ngoài ra, H còn khai nhận vào ngày 01/7/2020, H đã mua của T 05 chỉ heroine với giá 13.500.000 đồng rồi đem bán lại cho H1, thu lợi được 2.000.000 đồng. Do chỉ có lời khai của bị cáo, không có chứng cứ nào khác để chứng minh nên không có cơ sở để buộc H phải chịu trách nhiệm hình sự đối với lần mua bán ma túy này.

Với hành vi cất giữ 37,5180 gam ma túy ở thể rắn, loại Heroine, mục đích để bán cho người khác nhằm kiếm lời, đã có cơ sở để tuyên bố bị cáo Đỗ Văn Hphạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, không những gây mất trật tự trị an, sức khỏe con người, làm lây lan tệ nạn nghiện ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, cần thiết phải xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra để răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Đồng thời áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung một khoản tiền để sung vào ngân sách nhà nước.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; lần phạm tội này được xác định là không có tiền án, tiền sự; bị cáo có học vấn thấp nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Không có cơ sở để chấp nhận quan điểm của luật sư đề nghị áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm t khoản 1 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt bị truy tố.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Văn H còn khai nhận: vào ngày 01/7/2020, bị cáo đã mua ma túy của T rồi bán lại cho H1, thu lợi bất chính được 2.000.000 đồng. Do chỉ có lời khai của bị cáo, không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh, bị cáo cũng không bị xem xét xử lý hình sự trong lần mua bán này nên không có cơ sở buộc bị cáo phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính này.

Đối với đối tượng tên T là người bán ma túy và H1 là người mua ma túy, do bị cáo Đỗ Văn H khai không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý là đúng quy định.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Đối với các gói ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và bóp màu nâu, đôi giày, khăn, quần Jean, áo là vật dụng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 điện thoại di động, bị cáo khai nhận dùng để liên lạc mua bán ma tuý, đây là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 xe gắn máy biển số 59L1-625.xx thu giữ của bị cáo, qua xác minh xe do Nguyễn Hoàng A đứng tên sở hữu, hiện Nguyễn Hoàng A đã bỏ địa phương đi đâu không rõ. H khai mua xe này của một người không rõ lai lịch và không làm thủ tục sang tên. Cơ quan điều tra đã có công văn gửi Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị đăng báo tìm người sở hữu để xử lý theo qui định. Do chưa lấy được lời khai của Nguyễn Hoàng A nên chưa xác định được chính xác ai hiện đang là chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đối với xe gắn máy trên. Vì vậy, cần yêu cầu cơ quan thi hành án tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp, sau 06 tháng nếu xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì trả lại cho người đó, nếu không xác định được thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với số tiền 490.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội và cũng không phải là tiền do phạm tội mà có nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Đỗ Văn H 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/7/2020.

Buộc bị cáo phải nộp 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong số 1155/20 có chữ ký của Giám định viên Phan Tấn Quốc thuộc Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP. Hồ Chí Minh và Cán bộ điều tra Trần Trọng Nghĩa, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 (một) bóp màu nâu; 01 (một) đôi giày; 01 (một) khăn; 02 (hai) quần Jean;

01 (một) áo.

- Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, imei 1: 357740106161458, imei 2: 357740106661457 và 01 (một) điện thoại di động màu đen, imei 1: 272071497219213, imei 2: 272071422411144 - Thông tin tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp trên báo chí, sau 06 tháng kể từ ngày đăng báo, nếu chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp không đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với: 01 xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu Honda, số loại: Wave, biển số 59L1-625.xx, dung tích xi lanh: 97, số khung: RLHHC09026Y087343, số máy: HC09E-6087298.

- Trả lại cho bị cáo Đỗ Văn H số tiền 490.000 (bốn trăm chín mươi ngàn) đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2020/037 ngày 10/11/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh và Giấy nộp tiền vào tài khoản Cơ quan CSĐT Công an Thành phố Hồ Chí Minh ngày 21/10/2020).

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 33/2021/HS-ST

Số hiệu:33/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;