Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 113/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 113/2024/HS-ST NGÀY 20/09/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 104/2024/HSST ngày 06 tháng 9 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2024/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2024, đối với các bị cáo:

1/ TRẦN VĂN TH - Sinh năm 2003 - Tại TP Đà Nẵng; Nơi đăng ký HKTT: tổ 53, phường X, quận Th Khê, TP Đà Nẵng; Nơi ở trước khi bị bắt: tổ 3, phường P, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hoá: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; Con ông không rõ và bà Trần Thị Hồng N; gia đình có hai anh em bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 01/4/2024 – Có mặt tại phiên tòa.

2/ LÊ VĂN Q - Sinh năm 1995 - Tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký HKTT: tổ 66, phường A, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng; Nơi ở trước lúc bị bắt: phòng 202 Chung cư S4, phường Th Quang, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hoá: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; Con ông Lê Văn C và bà Nguyễn Thị T; Gia đình có ba anh chị e bị cáo là con thứ ba;

Tiền án: 02 tiền án.

+ Ngày 30/12/2016, bị Tòa án nhân dân quận Th Khê, TP.Đà Nẵng tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản", buộc phải bồi thường cho bị hại số tiền 2.500.000 đồng (Bản án số 157/2016/HSST, chưa chấp hành việc bồi thường số tiền 2.500.000 đồng, bị hại không có đơn yêu cầu).

+ Ngày 31/5/2017, bị Tòa án nhân dân TP.Đà Nẵng xử phạt 03 năm 06 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản", buộc phải bồi thường cho bị hại số tiền 4.945.000 đồng (Bản án số 28/2017/HSST). Tổng hợp hình phạt 02 năm 06 tháng tù tại Bản án số 157/2016/HSST ngày 30/12/2016, buộc phải chấp hành hình phạt chung là 06 năm tù giam (đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 17/10/2021, chưa chấp hành việc bồi thường số tiền số tiền 4.945.000 đồng, bị hại không có đơn yêu cầu).

- Tiền sự: không.

- Nhân thân: Ngày 02/4/2015, bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng quyết định đưa vào cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 15 tháng (Quyết định số 42).

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 01/4/2024– Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Trịnh Phương Th, sinh năm 1994; Nơi cư trú: số 07 đường Trần Khát Chân, phường M, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng, vắng mặt.

- Bà Trần Thị Hồng N, sinh năm 1979; Nơi cư trú: tổ 53, phường X, quận Th Khê, TP Đà Nẵng, có mặt.

- Bà Huỳnh Thị Hoàng Y, sinh năm 1994; Nơi cư trú: số 788 đường T, phường Hoà Phát, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, vắng mặt.

- Ông Trần Sư K, sinh năm 1995; Nơi cư trú: thôn Vân Dương 1, xã H, huyện Hoà Vang, TP Đà Nẵng, vắng mặt.

- Bà Lê Thị Na, sinh măm 1995; Nơi cư trú: tổ 84, phường N, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng, vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị Thùy An (sinh năm: 2006; trú: tổ 33, phường Th Quang, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng - có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 22 giờ ngày 01/4/2024, tại khu vực trước nhà số: 299 đường Chính Hữu (phường P, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng), Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà thấy Lê Văn Q có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, qua kiểm tra phát hiện trong túi quần bên phải phía trước của Q đang mặc có 01 gói ni lông dạng túi Zíp bên trong có chứa 04 viên nén màu xám, hình mặt người, Q khai là thuốc lắc, Q cất giấu nhằm mục đích sử dụng.

Vật chứng tạm giữ: 01 gói ni lông dạng túi Zip bên trong chứa 04 viên nén màu xám, hình mặt người (đã niêm phong, ký hiệu là “Q”); 01 xe mô tô Honda SH, màu đen bạc, BKS: 43G1 – X, số khung: 7309GY016832; số máy: JF73E0016863; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12, màu xanh, IMEI: 353241894432627, gắn sim số: 0935.869.X; Số tiền 2.600.000 đồng.

* Tại kết luận giám định số: 270/GĐ-KTHS, ngày 09/4/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP.Đà Nẵng, kết luận: các viên nén màu xám ký hiệu “Q” gửi giám định là ma túy, loại MDMA; khối lượng mẫu “Q”: 1,846 gam.

Tiếp đó, vào lúc 23 giờ 15 phút ngày 01/4/2024, Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà nhận được tin báo tại nhà trọ (tổ 03, phường P, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng) có nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong phòng có Trần Văn Th và Nguyễn Thị Thùy An (sinh năm: 2006; trú: tổ 33, phường Th Quang, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng, khi kiểm tra An đang trong nhà tắm, không liên quan đến hành vi phạm tội của Th). Trên nền nhà có 01 ly thủy tinh bên trong có chứa chất bột màu trắng, Th khai nhận là ma túy Ketamin, Th lấy ra để sử dụng một mình. Tiếp tục kiểm tra phát hiện trên kệ sắt trong phòng Th còn có: 01 gói ni lông kích thước (05x09)cm bên trong có 21 viên nén màu xám hình mặt người, 01 gói ni lông kích thước (04x05)cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng, 01 gói ni lông kích thước (04x08)cm bên trong có chứa 10 viên nén màu xám mình mặt người, 01 gói ni lông kích thước (04x08)cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng. Th khai nhận số tang vật trên đều là ma túy, Th cất giấu để sử dụng và bán lại kiếm lời.

Vật chứng tạm giữ: 01 gói ni lông kích thước khoảng (05x09) cm bên trong có chứa 21 viên nén màu xám hình mặt người; 01 gói ni lông kích thước khoảng (04x05) cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng; 01 gói ni lông kích thước khoảng (04x08) cm bên trong chứa: 10 viên nén màu xám hình mặt người và 01 (một) gói ni lông kích thước khoảng (04x08) cm bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng.

Tất cả được niêm phong trong bì thư màu trắng, ký hiệu “T1”.

- 01 gói ni lông kích thước khoảng (04x08) cm bên trong có chứa chất bột màu trắng được chiết tách trong ly thủy tinh, niêm phong trong bì thư màu trắng, ký hiệu “T2”;

- 01 ly thủy tinh chiều cao khoảng 04cm, đường kính miệng ly khoảng 03cm bên trong bám dính chất bột màu trắng, niêm phong trong bì thư màu trắng, ký hiệu “T3”;

- 01 CCCD mang tên Trần Văn Th;

- 05 vỏ bao ni lông kích thước khoảng (04x08)cm;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu tím, gắn sim số 0935.024.X, số Imei: 353751257319898;

- 01 xe mô tô hiệu Honda AirBlade, màu đỏ, BKS 43AD – X, số khung: RLHJK1406NZ039001; số máy: JK14E0066924;

* Tại kết luận giám định số 271/GĐ-MT, ngày 11/4/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP.Đà Nẵng, kết luận:

- Mẫu niêm phong ký hiệu T1 được chia thành 02 mẫu như sau: 31 viên nén màu xám, hình mặt người chứa trong 02 gói ni lông được ký hiệu là T1a; Tinh thể rắn màu trắng trong 02 gói ni lông được ký hiệu là T1b.

+ Viên nén màu xám ký hiệu T1a là ma túy, loại MDMA, khối lượng: 14,639 gam;

+ Tinh thể rắn màu trắng ký hiệu T1b là ma túy, loại Ketamine, khối lượng: 2,160 gam;

- Tinh thể rắn màu trắng ký hiệu T2 là ma túy, loại Ketamine, khối lượng mẫu: 0,038 gam.

Theo hướng dẫn tại điểm b, khoản 3, điều 5 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy thì tổng tỉ lệ phần trăm là:

 

KETAMINE

MDMA

TỔNG

KHỐI LƯỢNG MA TÚY THU ĐƯỢC

2,160g + 0,038g = 2,198 gam

1,846g + 14,639g = 16,485 gam

 

PHẦN TRĂM (so với mức tối thiểu đối với từng chất tại điểm tương ứng quy định tại khoản 3 điều 251 BLHS)

 (2,198:100) x 100% = 2,1%

 (16,485:30) x 100% = 54,9%

57% (dưới 100%)

 Qua điều tra xác định:

Trong khoảng thời gian từ ngày 30/3/2024 đến ngày 01/4/2024, do muốn có ma túy để sử dụng và có tiền tiêu xài cá nhân, Trần Văn Th đã 03 lần có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, cụ thể như sau:

Lần 01: Vào khoảng 22 giờ ngày 30/3/2024, do có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy nên Lê Thị Na (sinh năm: 1993; trú: tổ 84, phường N, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng) sử dụng tài khoản facebook “Lynda Na” nhắn tin đến tài khoản facebook “Văn Th Trần” của Trần Văn Th hỏi mua ma tuý thuốc lắc. Lúc này, sẵn còn dư 01 viên ma tuý thuốc lắc lần trước đi chơi ở quán Bar còn dư, nên Th đồng ý bán lại cho Na với giá 300.000 đồng. Sau đó, Th mang viên ma túy đến quán Bar Top TV, TP.Đà Nẵng bán cho Na và lấy số tiền 300.000 đồng.

Lần 02: Đến khoảng 08 giờ ngày 01/4/2024, Trần Văn Th sử dụng tài khoản Telegram tên “Shyn” liên hệ với người tên Hiền (chưa rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 50 viên ma tuý thuốc lắc thì Hiền đồng ý bán với giá 12.500.000 đồng và hẹn đến đường (không nhớ tên đường) gần khu vực bến xe Trung tâm TP.Đà Nẵng để mua bán ma túy. Sau đó, Th điều khiển xe mô tô BKS: 43AD-007.62 đến địa điểm trên gặp Hiền, Th đưa cho Hiền 12.000.000 đồng, rồi có một thanh niên (không rõ lai lịch) dẫn Th đến chỗ cất giấu ma túy ở gốc cây gần đó, Th lấy 01 gói ni nông bên trong có 50 viên ma túy thuốc lắc và 01 gói ni lông chứa ma tuý Ketamine (Hiền cho thêm, không tính tiền). Sau khi mua được ma túy, Th mang số ma túy đó về phòng trọ tại đường Phước Trường 16 (phường P, quận Sơn Trà) cất giấu. Khoảng 20 giờ ngày 01/4/2024, có một thanh niên tên Bi (chưa rõ nhân thân, lai lịch) gọi qua telegram cho Th hỏi mua 15 viên ma tuý thuốc lắc và hẹn giao tại vỉa hè đường Đống Đa (đoạn gần quán Bar New Phương Đông), TP.Đà Nẵng, Th đồng ý, sau đó lấy 15 viên ma túy thuốc lắc trong số ma túy đã mua được nêu trên bỏ vào 01 túi zíp đến địa điểm trên bán cho Bi, Bi trả cho Th 4.500.000 đồng tiền mặt.

Lần 03: Khoảng 20 giờ ngày 01/4/2024, Lê Văn Q nhắn tin qua ứng dụng messenger của Th hỏi mua 04 viên ma tuý thuốc lắc, Th đồng ý bán với giá 1.200.000 đồng và hẹn đến khu vực quán cà phê nhà số: 299 đường Chính Hữu (phường P, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng) để bán ma túy. Th tiếp tục lấy 04 viên ma túy thuốc lắc trong số 50 viên đã mua được đem đến địa điểm trên bán cho Q, Q trả cho Th 1.200.000 đồng. Q cất giấu số ma tuý trên vào túi quần bên phải phía trước, rồi tiếp tục ngồi uống nước thì bị phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên. Còn Th về lại phòng trọ, đến khoảng 23 giờ cùng ngày Th lấy một ít ma tuý Ketamine ra chuẩn bị sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.

Ngoài ra, Trần Văn Th còn khai nhận trước đó khoảng đầu năm 2024 (không nhớ cụ thể thời gian, địa điểm, số tiền), Th đã 02 lần bán 02 viên ma tuý thuốc lắc cho 02 người (không nhớ là ai).

Tất cả số tiền có được từ việc bán trái phép chất ma túy, Th đã tiêu xài và trả nợ hết. Qua xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể của Lê Văn Q, Nguyễn Thị Thùy An, Lê Thị Na, Trần Văn Th cho kết quả: Q, An, Th âm tính với chất ma túy, Na dương tính với chất ma túy Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số: 103/CT-VKS-ST ngày 06/9/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng thì bị cáo Trần Văn Th bị truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 BLHS; Bị cáo Lê Văn Q bị truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố nhà nước vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: b, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Văn Th từ 09 năm đến 10 năm tù.

- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Văn Q từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong chứa mẫu hoàn trả sau giám định kèm theo kết luận giám định số 270 ngày 09/4/2024 và 02 bì niêm phong chứa mẫu hoàn trả sau giám định kèm theo kết luận giám định số 271 ngày 09/4/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng; 01 ly thủy tinh chiều cao khoảng 04cm, đường kính miệng ly khoảng 03cm (niêm phong trong bì ký hiệu T3); 05 vỏ bao ni lông kích thước khoảng (04x08)cm và hai sim điện thoại số 0935.024.X; 0935.869.X.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12, màu xanh, IMEI: 353241894432627 của Lê Văn Q; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu tím, số Imei: 353751257319898 của Trần Văn Th.

- Trả lại cho Lê Văn Q số tiền: 2.600.000 đồng của Lê Văn Q do không liên quan đến hành vi phạm tội, tuy nhiên cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho Trần Văn Th 01 CCCD mang tên Trần Văn Th.

- Truy thu số tiền thu lợi bất chính 6.000.000 đồng của từ việc mua bán ma túy của Trần Văn Th.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Do muốn có ma túy để sử dụng và có tiền tiêu xài cá nhân, trong khoảng thời gian từ ngày 30/3/2024 đến ngày 01/4/2024, tại một số địa điểm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Trần Văn Th đã 03 lần có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, cụ thể:

- Lần 01: Khoảng 22 giờ ngày 30/3/2024, tại quán Bar Top TV, TP.Đà Nẵng, Th bán cho Lê Thị Na 01 viên ma tuý thuốc lắc với giá 300.000 đồng.

- Lần 02: Khoảng 20 giờ ngày 01/4/2024, tại vỉa hè đường Đống Đa (đoạn gần quán Bar New Phương Đông), TP.Đà Nẵng, Th bán cho một thanh niên tên Bi (chưa rõ nhân thân, lai lịch) 15 viên ma tuý thuốc lắc với giá 4.500.000 đồng tiền mặt.

- Lần 03: Khoảng 20 giờ ngày 01/4/2024, tại khu vực quán cà phê nhà số: 299 đường Chính Hữu (phường P, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng), Th bán cho Lê Văn Q 04 viên ma tuý (1,846 gam) loại MDMA với giá 1.200.000 đồng. Lê Văn Q mua số ma túy trên về nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Ngoài ra Trần Văn Th còn tàng trữ 14,639 gam ma túy loại MDMA; 2,198 gam ma túy loại Ketamine nhằm mục đích bán lại kiếm lời.

Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Văn Th đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Bị cáo Lê Văn Q đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng số: 103/CT-VKS -ST ngày 06/9/2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà TP. Đà Nẵng đã truy tố và đề nghị mức hình phạt như trên đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì nên HĐXX không xem xét.

[2] Xét hành vi phạm tôi của các bị cáo thì thấy:

[2.1] Đối với bị cáo Trần Văn Th: Là thanh niên mới lớn, có công việc làm nhưng bị cáo không lo tu dưỡng rèn luyện, lao động để trở thành công dân có ích cho xã hội. Chỉ vì hãm lợi, muốn có tiền một cách nhanh chóng nên bị cáo sa vào con đường mua bán ma tuý, chỉ trong thời gian ngắn bị cáo thực hiện 3 lần mua bán trái phép chất ma tuý. Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo Trần Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” hai lần trở lên thuộc điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra theo Tại kết luận giám định số 271/GĐ-MT, ngày 11/4/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP.Đà Nẵng, kết luận: Mẫu niêm phong ký hiệu T1 được chia thành 02 mẫu như sau: 31 viên nén màu xám, hình mặt người chứa trong 02 gói ni lông được ký hiệu là T1a; Tinh thể rắn màu trắng trong 02 gói ni lông được ký hiệu là T1b. Viên nén màu xám ký hiệu T1a là ma túy, loại MDMA, khối lượng: 14,639 gam; Tinh thể rắn màu trắng ký hiệu T1b là ma túy, loại Ketamine, khối lượng: 2,160 gam; Tinh thể rắn màu trắng ký hiệu T2 là ma túy, loại Ketamine, khối lượng mẫu: 0,038 gam.

Theo hướng dẫn tại điểm b, khoản 3, điều 5 Nghị định 19/2018/NĐ - CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy thì tổng tỉ lệ phần trăm là: (2,198:100) x 100% = 2,1% Ketamine; (16,485:30) x 100% = 54,9%. Tổng là 57% (dưới 100%) nên thuộc điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo Trần Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thuộc điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[2.2] Đối với Lê Văn Q:

Bị cáo đã bị xử phạt 06 năm tù về hành vi trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa bồi thường thiệt hại cho bị hại; đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đáng lý bị cáo phải lấy đó làm bài học cho bản thân để phấn đấu lao động phụ giúp gia đình, trở thành công dân có ích cho xã hội, nhưng bị cáo đã không làm được điều đó mà bị cáo tiếp tục sa vào con đường nghiện ngập ma túy. Để phục vụ cho việc nghiện ma túy của bản thân bị cáo đã liên hệ Th mua ma tuý về sử dụng, khi chưa sử dụng thì bị bắt. Với khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ 1,846 gam loại MDMA đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điềm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Th và tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo Q đã xâm phạm đến chế độ độc quyền trong việc quản lý các chất ma túy của nhà nước, xâm phạm an ninh trật tự, xâm phạm đến sức khoẻ và sự phát triển giống nòi của dân tộc. Do đó các bị cáo cần phải xử phạt mức án nghiêm. Tiếp tục cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay tất cả các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. HĐXX sẽ xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần trách nhiệm hình sự, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[3] Đối với các đối tượng:

- Đối với chị Trịnh Phương Th (sinh năm: 1994; trú: nhà số 07 đường Trần Khát Chân, phường M, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng) là chủ căn nhà trọ nơi Th cất giấu ma túy. Chị Th không biết việc Th cất giấu ma túy tại phòng trọ, nên Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà không đề cập hình thức xử lý là phù hợp.

- Đối với bà Trần Thị Hồng N (sinh năm: 1979; trú: tổ 53, phường X, quận Th Khê, TP.Đà Nẵng – mẹ của bị can Th), là chủ sở hữu xe mô tô BKS: 43AD- 007.62. Bà N không biết việc Th sử dụng xe trên để thực hiện hành vi phạm tội, nên Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà không đề cập hình thức xử lý là phù hợp.

- Đối với chị Huỳnh Thị Hoàng Y (sinh năm: 1994; trú: nhà số 788 đường Trường Trinh, phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ, TP.Đà Nẵng) là chủ sở hữu xe mô tô BKS: 43G1- X, nhưng đã bán xe này cho anh Trần Sư K (sinh năm: 1995; trú: thôn Vân Dương 1, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, TP.Đà Nẵng). Sau đó, anh K cho anh Từ Minh Huy (sinh năm: 1997; trú: tổ 54, phường N, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng) thuê lại. Ngày 01/4/2024, Q mượn xe này của anh Huy nói đi công việc, anh Huy, anh K và chị Y không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của Q, nên Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà không đề cập hình thức xử lý là phù hợp.

- Đối với Nguyễn Thị Thùy An (sinh năm: 2006; trú: tổ 33, phường Th Quang, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng) là người có mặt trong phòng của Th khi bắt quả tang. An không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của Th, nên Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà không đề cập hình thức xử lý là phù hợp.

- Đối với Lê Thị Na, qua xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể cho kết quả dương tính với ma túy, nên ngày 15/4/2024, Công an quận Sơn Trà ra quyết định xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000 đồng là phù hợp.

- Đối với đối tượng có tên “Hiền” là người đã bán ma túy cho Th và người thanh niên tên “Bi” là người đã mua ma túy của Th, cả hai đối tượng đều chưa rõ nhân thân, lai lịch. Do đó, đề nghị Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

sự:

[4] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình - Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong chứa mẫu hoàn trả sau giám định kèm theo kết luận giám định số 270 ngày 09/4/2024 và 02 bì niêm phong chứa mẫu hoàn trả sau giám định kèm theo kết luận giám định số 271 ngày 09/4/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng; 01 ly thủy tinh chiều cao khoảng 04cm, đường kính miệng ly khoảng 03cm (niêm phong trong bì ký hiệu T3); 05 vỏ bao ni lông kích thước khoảng (04x08)cm và hai sim điện thoại số 0935.024.X; 0935.869.X.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12, màu xanh, IMEI: 353241894432627 của Lê Văn Q; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu tím, số Imei: 353751257319898 của Trần Văn Th.

- Trả lại cho Lê Văn Q số tiền: 2.600.000 đồng của Lê Văn Q do không liên quan đến hành vi phạm tội, tuy nhiên cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho Trần Văn Th 01 CCCD mang tên Trần Văn Th.

- Truy thu số tiền thu lợi bất chính 6.000.000 đồng của từ việc mua bán ma túy của Trần Văn Th.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

- Bị cáo Trần Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” - Bị cáo Lê Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1/ Căn cứ: điểm b, p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Trần Văn Th 09 (Chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 01/4/2024.

2/ Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lê Văn Q 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 01/4/2024.

3/ Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong chứa mẫu hoàn trả sau giám định kèm theo kết luận giám định số 270 ngày 09/4/2024 và 02 bì niêm phong chứa mẫu hoàn trả sau giám định kèm theo kết luận giám định số 271 ngày 09/4/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng; 01 ly thủy tinh chiều cao khoảng 04cm, đường kính miệng ly khoảng 03cm (niêm phong trong bì ký hiệu T3); 05 vỏ bao ni lông kích thước khoảng (04x08)cm và hai sim điện thoại số 0935.024.X; 0935.869.X.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12, màu xanh, IMEI: 353241894432627 của Lê Văn Q; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu tím, số Imei: 353751257319898 của Trần Văn Th.

- Trả lại cho Lê Văn Q số tiền: 2.600.000 đồng của Lê Văn Q do không liên quan đến hành vi phạm tội, tuy nhiên cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho Trần Văn Th 01 CCCD mang tên Trần Văn Th.

(Vật chứng trên, hiện do Chi cục Thi hành án Dân sự quận Sơn Trà quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/9/2024 giữa Công an quận Sơn Trà và Chi cục Thi hành án quận Sơn Trà).

- Truy thu số tiền thu lợi bất chính 6.000.000 đồng từ việc mua bán ma túy của Trần Văn Th.

4/ Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 113/2024/HS-ST

Số hiệu:113/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;