TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 231/2021/HS-PT NGÀY 20/10/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 191/2021/TLPT-HS ngày 02 tháng 7 năm 2021 đối với các bị cáo Nguyễn Văn H, Cao Văn T và Bùi Trọng N.
Do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 16/2021/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TN.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Văn H, sinh năm 1990; tên gọi khác: Không; nơi sinh: tỉnh ĐT; nơi cư trú: ấp K, xã P, huyện TN, tỉnh ĐT; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1960 (chết) và bà Nguyễn Thị Tuyết L, sinh năm 1964 (chết); có vợ Trần Thị Bích T1, sinh năm 1998 và 01 người con sinh năm 2020; tiền án: ngày 22/01/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội: “Cố ý gây thương tích”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/11/2014, nhưng bị cáo chưa nộp án phí (Theo Công văn số 54/CV-THADS, ngày 21/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai); tiền sự: Không; tạm giữ: Ngày 18/6/2020; tạm giam: Ngày 24/6/2020. Bị cáo hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp (có mặt tại phiên tòa).
2. Cao Văn T, sinh năm 1992; tên gọi khác: Không; nơi sinh: tỉnh ĐT; nơi cư trú: ấp K, xã P, huyện TN, tỉnh ĐT; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Văn T2, sinh năm 1970 và bà Lê Thị X, sinh năm 1978; có vợ Phạm Thị Bé Q, sinh năm: 1996; tiền án: Không; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 27/6/2017, Tòa án nhân dân huyện TN, tỉnh ĐT ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tỉnh ĐT, thời hạn 14 tháng (chấp hành xong ngày 12/4/2018); tạm giữ: từ ngày 23/6/2020 đến 02/7/2020 trả tự do (Theo Quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ số: 01/QĐ-VKS-TN ngày 02/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TN); bắt tạm giam: Ngày 25/8/2020. Bị cáo hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh ĐT (có mặt tại phiên tòa).
3. Bùi Trọng N, sinh năm 1982; tên gọi khác: Không; nơi sinh: tỉnh ĐT; nơi cư trú: ấp K, xã P, huyện TN, tỉnh ĐT; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Thanh X, sinh năm 1950 (chết) và bà Lê Thị Cẩm T, sinh năm 1955; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 08/3/2017, Tòa án nhân dân huyện TN, tỉnh ĐT ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tỉnh ĐT, thời hạn 13 tháng; tạm giữ: Không; bắt tạm giam: Ngày 25/12/2020. Bị cáo hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp (có mặt tại phiên tòa).
Người bào chữa cho bị cáo Bùi Trọng N: Luật sư Hồ Thị X – Văn phòng luật sư X thuộc Đoàn luật sư tỉnh ĐT. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản án sơ thẩm và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 14 giờ ngày 18/6/2020, Phòng cảnh sát điều tra Công an tỉnh ĐT phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra về Hình sự - Kinh tế - Ma túy Công an huyện TN tiến hành kiểm tra và bắt quả tang Nguyễn Văn H, ngụ ấp K, xã P, huyện TN, tỉnh ĐT, về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Thu giữ dưới sàn nhà H 01 lọ thủy tinh nhãn hiệu MEN PLUS + X, bên trong lọ có 02 gói nylon dạng nắp kẹp cố định một đầu viền màu đỏ, trong 02 gói nylon có tổng cộng 15 gói nylon nhỏ hàn kín chứa tinh thể rắn màu trắng, 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn thu giữ trên cột dưới sàn nhà và 01 gói nylon nhỏ hàn kín chứa tinh thể rắn màu trắng thu giữ trong phòng ngủ trên nhà; tổng cộng 17 gói nylon nhỏ hàn kín chứa tinh thể rắn màu trắng nghi vấn ma túy.
Kết luận giám định số: 548/KL-KTHS ngày 20/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh ĐT, kết luận: Tinh thể rắn chứa trong 15 gói nylon hàn kín được để trong 02 gói nylon nắp kẹp một đầu có viền màu đỏ, được niêm phong trong phong bì ghi kí hiệu A1 nêu trên gửi giám định đều là chất ma túy, có tổng khối lượng 2,206gam, loại Methamphetamine (số thứ tự 323 thuộc Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ); Tinh thể rắn chứa trong 01 gói nylon hàn kín được niêm phong trong phong bì ghi kí hiệu A2 nêu trên gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,134 gam, loại Methamphetamine; Tinh thể rắn chứa trong 01 gói nylon hàn kín được niêm phong trong phong bì ghi kí hiệu A3 nêu trên gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,171gam, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy là: 2,511 gam, loại Methamphetamine.
Ngoài ra, vào lúc 14 giờ ngày 18/6/2020, Đội Cảnh sát điều tra về Hình sự - Kinh tế - Ma túy Công an huyện TN khám xét khẩn cấp nhà ở của Bùi Trọng N, ngụ ấp K11, xã Phú hiệp, huyện TN, tỉnh ĐT. Qua khám xét thu giữ 01 bịt nylon màu trắng hàn kín bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng; 01 chai nhựa màu trắng có nắp đậy phía trên màu đen có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa màu trắng; 05 cây dao tự chế bằng kim loại.
Kết luận giám định số: 557/KL-KTHS ngày 23/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh ĐT, kết luận: tinh thể rắn chứa trong 01 túi nylon màu trắng hàn kín, được niêm phong trong bao thư ghi ký hiệu A1 nêu trên gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,017gam, loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra, 1. Nguyễn Văn H: Khai nhận từ tháng 4/2020 đến ngày 18/6/2020, H mua ma túy của một người lạ mặt ở xã An Long, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp và một người tên T ở thành phố Cao Lãnh, tỉnh ĐT tổng cộng 03 lần để bán lại cho những người nghiện ma túy và 01 lần H nhận 25 số ma túy của T để giao cho một người ở huyện Tân Hồng, cụ thể như sau: Lần 1: Vào khoảng tháng 4/2020, H đến gần ngã ba xã An Long, huyện TN mua 15 số ma túy của một người lạ mặt (không biết tên, năm sinh và địa chỉ, chỉ liên hệ qua điện thoại) giá 1.500.000đồng, rồi mang về bán cho Bùi Trọng N 1.200.000đồng, Cao Văn T 1.000.000đồng, H hưởng lợi 700.000đồng; Lần 2: Do thấy mua ma túy của một người lạ mặt ở ngã ba xã An Long đi vòng vòng nên H không liên hệ mua nữa. H đến xã Tân Mỹ, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp thu tiền góp thì quen biết T nhà ở thành phố Cao Lãnh (H chỉ biết tên, không biết năm sinh và địa chỉ cụ thể) có bán ma túy nên H mua 12 số ma túy với giá 1.000.000 đồng và nhờ T phân ra thành tép (06 tép). H bán cho Bùi Trọng N 1.600.000đồng (04 tép), N trả 1.100.000đồng, nợ lại 500.000đồng; H bán cho Cao Văn T 800.000đồng (02 tép), T trả 500.000đồng, nợ lại 300.000đồng. Như vậy, lần bán ma túy trên H hưởng lợi 1.400.000đồng trừ 800.000đồng (của N và T còn nợ), còn 600.000đồng; Lần 3: Đến giữa tháng 5/2020, H liên hệ T mua 25 số ma túy giá 1.700.000đồng. Sau đó, H bán hết lại số ma túy trên cho Cao Văn T với giá 2.000.000đồng, T trả 1.900.000đồng (còn nợ 100.000đồng); lần bán ma túy trên H hưởng lợi 300.000 đồng trừ 100.000đồng T nợ, còn 200.000 đồng. Đến ngày 18/6/2020, T đưa cho H một lọ thủy tinh bên trong có 25 số ma túy, nhờ H giao cho một người ở huyện Tân Hồng, tỉnh ĐT, nếu H giao xong T cho H 500.000đồng nhưng H chưa kịp giao số ma túy trên thì Cơ quan Công an bắt quả tang. Mục đích H mua ma túy của những người trên là bán lại cho các người nghiện để kiếm lời, địa điểm bán ma túy của H là trước cửa nhà và dưới sàn nhà, khi bị bắt quả tang cơ quan công an thu giữ 16 gói ma túy ở dưới sàn nhà là của T, còn 01 gói ở trên nhà là khi mua ma túy của người lạ mặt ở ngã ba xã An Long còn lại, bản thân H không sử dụng ma túy.
Ngoài bán ma túy cho Cao Văn T và Bùi Trọng N, thì Nguyễn Văn H còn bán ma túy cho nhiều người nghiện nhưng không thừa nhận. Quá trình điều tra đã chứng minh được H bán ma túy cho Nguyễn Hoàng S, Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hoàng L, Lê Văn C, Lê Trung H1, Nguyễn Khánh T1, Trần Văn P, Nguyễn Văn P1, Nguyễn Thanh S, Lê Vũ Minh V, Võ Văn D, Võ Quốc T2 nhiều lần vào tháng 4 và tháng 6/2020, H bán ma túy cho những người trên thấp nhất 200.000đồng cao nhất 1.200.000đồng, những người trên mua về sử dụng hết.
2. Cao Văn T: Thừa nhận có mua ma túy của H nhiều lần như H đã khai, mục đích mua dùm cho các người nghiện và cá nhân T mua về sử dụng, T không thừa nhận mua ma túy để bán lại cho những người nghiện nhưng trong quá trình điều tra đủ cơ sở chứng minh, T mua ma túy của H bán lại cho nhiều người và nhiều lần, cụ thể như sau:
Lê Văn C và Lê Trung H1: có mua ma túy của T, cách ngày H bị bắt (18/6/2020) khoảng 01 tuần, trời vừa tối, C và H1 gọi điện thoại cho T hỏi mua 300.000đồng ma túy (C 100.000đồng, H1 200.000đồng), T đồng ý và kêu cả hai đến gần dựa phế liệu cầu dây thuộc khóm 4, thị trấn Tràm Chim, huyện TN để đưa tiền cho T. Một lúc sau, một người thanh niên điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Winner màu vàng chở T chạy đến đưa ma túy cho H1, cả hai mua ma túy của T về sử dụng hết. Ngoài ra, cách ngày H bị bắt khoảng 02 tuần; vào khoảng 14 giờ, H1 điện thoại cho T hỏi mua 300.000đồng ma túy, T đồng ý và kêu H1 đến bờ kè thuộc khóm 5, thị trấn Tràm Chim, huyện TN chờ T. Một lúc sau, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu trắng đến, H1 đưa tiền, T đưa ma túy cho H1, mua ma túy của T, H1 sử dụng hết.
Trần Văn P có mua ma túy của T 02 lần: Lần 1: Vào khoảng tháng 4/2020, P thông qua người bạn tên H2 (không rõ họ, năm sinh và địa chỉ) nên biết T có bán ma túy và khoảng 20 giờ (không nhớ ngày) P gọi điện thoại cho T hỏi mua 200.000đồng ma túy, T đồng ý và hẹn P đến bến đò ấp K9, xã Phú Đức nhận ma túy. Một lúc sau, P điều khiển xe chở H2 đến bến đò ấp K9, T đi bộ đến gặp P đưa gói ma túy, P đưa cho T 200.000đồng, sau khi mua ma túy của T thì P và H2 về nhà sử dụng hết; Lần 2: Cách lần 1 khoảng 02 tuần, P điện thoại cho T hỏi mua 500.000đồng ma túy, T đồng ý và hẹn P đến bến đò ấp K9, xã Phú Đức nhận ma túy. Một lúc sau, P điều khiển xe mô tô đến bến đò ấp K9 thì T đi bộ đến kêu P đưa 500.000đồng và hẹn khoảng 05 phút sau đem ma túy đưa cho P, P chờ lâu nhưng không thấy T giao ma túy như đã hẹn, P gọi điện thoại thì T nói bị Công an rượt nên đã ném bỏ ma túy, T không trả tiền lại cho P.
Kết quả đối chất và nhận dạng qua ảnh tại cơ quan điều tra C, H1 và P khẳng định có mua ma túy của T nhiều lần, không nhờ T mua dùm ma túy và giữa C, H1, P với T không có mâu thuẩn với nhau.
Ngoài ra, trong quá trình điều tra T còn khai nhận là cách ngày bị tạm giữ (23/6/2020) khoảng 02 tháng, T đến nhà Nguyễn Xuân T2 ở khóm 3, thị trấn Tràm Chim, huyện TN mua 500.000đồng ma túy rồi mang đến nhà P rủ P và Hồng sử dụng. T đến nhà Ngây ở khóm 5, thị trấn Tràm Chim mua 300.000đồng ma túy của Phan Hữu T3 rồi cùng T3 sử dụng.
Kết quả đối chất tại cơ quan điều tra, Nguyễn Xuân T2 khẳng định: Vào thời gian trên T2 đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện TN, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên không bán ma túy cho T; còn Phan Hữu T3 cũng khẳng định không bán ma túy cho T, việc T trình bày trên là không đúng.
3. Bùi Trọng N: Thừa nhận có mua ma túy của H nhiều lần như H đã khai, mục đích mua về sử dụng, N không thừa nhận mua ma túy để bán lại cho những người nghiện. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra đủ cơ sở chứng minh, N mua ma túy của H bán lại cho nhiều người và nhiều lần, cụ thể như sau:
Nguyễn Hoàng L có mua ma túy của N 05 lần: Lần 1: Vào khoảng 12 giờ đầu tháng 5/2020, thông qua Cao Văn T nên L biết N có bán ma túy và liên hệ N mua 400.000đồng, N đồng ý và kêu L đến nhà N ở ấp K11, xã Phú hiệp nhận ma túy. L điều khiển xe mô tô đến ấp K9, xã Phú Đức thì gặp N, N đưa cho L một bịch ma túy giá 400.000đồng nhưng L trả cho N 200.000đồng, sau đó L mang ma túy trên cùng N và Bùi Ngọc T4 sử dụng tại chốt bảo vệ Vườn quốc gia của T4; Lần 2: Cách lần 1 khoảng 04 ngày, vào khoảng 21 giờ L điều khiển xe mô tô đến chốt bảo vệ của T4 để mua ma túy sử dụng, khi đến chốt thì thấy N nên hỏi N có ma túy không bán cho L một ít thì N lấy một bịch ma túy và nói 300.000đồng nên L lấy tiền trả, sau đó L cùng T4, N và T sử dụng hết; Lần 3: Cách lần 2 một ngày, vào khoảng 17 giờ, L điện thoại cho N để mua ma túy thì N hẹn đến nghĩa địa ấp K9, xã Phú Đức nhận ma túy. L đến chổ hẹn gặp N, N đưa cho L một bịch ma túy nói giá 500.000đồng nhưng L đưa cho N 420.000đồng rồi mang về nhà sử dụng hết; Lần 4: Cách lần 3 khoảng 02 ngày, L đến nhà T ở ấp K9, xã Phú Đức để gặp N mua ma túy về sử dụng, tại nhà T thì L nhìn thấy N, T và một số người nữa L không biết tên đang sử dụng ma túy. N kêu L vào cùng sử dụng, khi sử dụng xong N bán cho L một bịch ma túy giá 700.000đồng, L đưa tiền cho N và mang ma túy về nhà sử dụng hết; Lần 5: Cách lần 4 một ngày, L cùng Lê Ngọc Hoàng T5 (T5 Nhỏ) đến nhà T ở ấp K9, xã Phú Đức để gặp N mua ma túy về sử dụng. Khi đến nhà T thì T5 đứng ngoài, L đi xuống sàn nhà gặp T và N đang sử dụng ma túy nên vào sử dụng cùng N và T, sử dụng xong N bán cho L một bịch ma túy, L đưa cho N 230.000đồng, sau đó L mang ma túy về nhà T5 sử dụng hết.
Lê Trung H1 có mua ma túy của N 02 lần: Lần 1: Vào khoảng 14 giờ ngày 06/6/2020, H1 điện thoại cho N mua 300.000đồng ma túy, N kêu xuống nhà ở ấp K11, xã Phú hiệp nhận ma túy. Lúc này H1 đang đi chơi ở Tân Hồng chạy xe đến nhà N, không thấy N, H1 gọi điện thoại thì N kêu H1 chạy xe qua khỏi Ủy ban nhân xã Phú Hiệp khoảng 1km thì gặp N đứng cặp lề đường, H1 đưa tiền cho N thì N kêu H1 đi cách N khoảng 10 mét nhặt vỏ thuốc lá có chứa ma túy, nhận ma túy xong, H1 mang về nhà sử dụng hết; Lần 2: Vào ngày 07/6/2020, H1 điện thoại cho N mua 500.000đồng ma túy (H1 300.000đồng, Huỳnh Văn V 200.000đồng), N kêu đến nhà ở ấp K11, xã Phú Hiệp nhận ma túy. H1 điều khiển xe chở V chạy đến gần cơ sở may ở bến đò ấp K9, xã Phú Đức gặp N đứng cặp lề đường cùng chiều xe H1, gặp N, H1 dừng xe lại đưa tiền, N chỉ H1 nhặt vỏ thuốc lá cách N khoảng 03 mét có chứa ma túy, nhận ma túy của N xong, H1 và V mang về nhà sử dụng hết.
Nguyễn Hồng T có mua ma túy của N được 04 lần: Lần 1: Vào ngày 01/5/2020, T điện thoại cho N mua 300.000đồng ma túy, N kêu T đến nhà N ở ấp K11, xã Phú Hiệp nhận. T rủ Nguyễn Thanh T6 đến nhà N mua ma túy, mua ma túy của N xong, T cùng T6 mang về nhà T sử dụng hết; Lần 2: Cách lần 1 khoảng 10 ngày, vào khoảng 22 giờ, T điện thoại cho N mua 300.000đồng ma túy, N nói đang cùng Võ Văn Phương B (C) đến nhà T. Tại nhà T thì N lấy ma túy ra sử dụng cùng T, N, B và Phạm Chí B1, sử dụng ma túy xong, T lấy 300.000đồng đưa cho N, nhận tiền xong N chở B về nhà; Lần 3: Cách ngày H bị bắt quả tang (18/6//2020) khoảng 01 tuần, vào khoảng 22 giờ, T điện thoại cho N mua 300.000đồng ma túy, N kêu T đến nhà N ở ấp K11, xã Phú Hiệp nhận. T điều khiển xe đến nhà N, khi đến nhà H ở ấp K8, xã Phú Đức thì thấy N ở trong nhà H đi ra, Nguyễn Văn H2 (C) chở N chạy hướng lên xã Phú hiệp, T chạy theo sau. Khi đến khu đất trống, cả ba người dừng lại, N lấy một bịch ma túy ra nói hùn với T 400.000đồng, còn T mua của N 01 gói ma túy giá 300.000đồng, cả ba người cùng sử dụng 02 gói ma túy của N hết; Lần 4: Cách ngày H bị bắt quả tang (18/6//2020) khoảng 02 tuần, T điện thoại cho N mua một góc tám ma túy với giá 700.000đồng. Vào khoảng 22 giờ, N đi chung với Lê Hòa Công M bằng xe môtô đến nhà T giao ma túy, T mua ma túy của N sử dụng hết.
Cao Văn Hữu P2 có mua ma túy của N 01 lần, cụ thể: vào khoảng tháng 4/2020, P2 điện thoại cho N mua 300.000đồng ma túy, N kêu P2 đến chốt bảo vệ của Bùi Ngọc T4 ở ấp K11, xã Phú Hiệp nhận. P2 điều khiển xe mô tô đến chốt bảo vệ của T4 mua ma túy của N rồi sử dụng hết. Ngoài ra, P2 có sử dụng ma túy chung với N nhiều lần ở nhà N và chốt bảo vệ của T4.
Huỳnh Văn V có mua ma túy của N 01 lần là hùn với Lê Trung H1 vào ngày 07/6/2020 như đã nêu ở trên.
Kết quả đối chất và nhận dạng qua ảnh tại cơ quan điều tra L, H1, T khẳng định đã mua ma túy của N nhiều lần như đã nêu ở trên và không nhờ N mua dùm; giữa L, H1, T không có mâu thuẫn với nhau.
Kết quả xét nghiệm, Cao Văn T, Bùi Trọng N và những người mua ma túy của T và N như đã nêu trên đều nghiện ma túy (dương tính) tổng hợp chất loại Methamphetamine.
Vật chứng thu giữ của:
- Nguyễn Văn H, gồm: Ma túy còn lại sau khi giám định là 01 gói niêm phong, bên trong có chứa ma túy, được để trong phong bì niêm phong ký hiệu 581/A1 có khối lượng tinh thể là 1,625 gam; 01 gói niêm phong, bên trong có chứa ma túy, được để trong phong bì niêm phong ký hiệu 581/A2 có khối lượng tinh thể là 0,058 gam; 01 gói niêm phong, bên trong có chứa ma túy, được để trong phong bì niêm phong ký hiệu 581/A3 có khối lượng tinh thể là 0,093 gam; tổng cộng: 1,776 gam; 01 lọ thủy tinh, nhãn hiệu MEN PLUS + X, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO, màu đỏ, điện thoại đã tắt nguồn, không rõ chất lượng bên trong; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu NOKIA, màu đen, điện thoại đã tắt nguồn, không rõ chất lượng bên trong.
- Bùi Trọng N, gồm: 01 điện thoại di động, nhãn hiện Samsung, màu vàng ghi, điện thoại đã tắt nguồn, không rõ chất lượng bên trong; 01 chai nhựa màu trắng có nắp đậy phía trên màu đen có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa màu trắng; 05 cây dao tự chế bằng kim loại Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 16/2021/HS-ST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện TN đã xử:
1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; khoản 1 Điều 17; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 18 tháng 6 năm 2020.
2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; khoản 1 Điều 17; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Cao Văn T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Cao Văn T 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 25 tháng 8 năm 2020 được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/6/2020 đến 02/7/2020.
3. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; khoản 1 Điều 17; khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Bùi Trọng N phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Bùi Trọng N 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 25 tháng 12 năm 2020.
Ngoài ra,bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 03 tháng 6 năm 2021, bị cáo Cao Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; ngày 07 tháng 6 năm 2021 bị cáo Nguyễn Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo Bùi Trọng N kháng cáo kêu oan.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
Bị cáo Nguyễn Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội theo như nội dung của bản án sơ thẩm. Đồng thời bị cáo đã có đơn ngày 17/8/2021 và tại phiên tòa hôm nay trình bày rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo.
Bị cáo Cao Văn T thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm, tỏ ra ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.
Bị cáo N thừa nhận có bán ma túy 02 lần cho Nguyễn Hồng T, không thừa nhận bán ma túy cho những người khác và thay đổi, bổ sung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Luật sư Hồ Thị X bào chữa cho bị cáo N trình bày: Căn cứ quy buộc bị cáo N bán ma túy cho nhiều người chưa được làm rõ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét. Tại phiên tòa, bị cáo N đã thừa nhận có bán ma túy cho T 02 lần, cho thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo, nhận ra hành vi sai trái của mình và tỏ ra ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Sau khi phân tích tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử đối với các bị cáo Cao Văn T và Bùi Trọng N là phù hợp. Tuy nhiên, trong phần tranh luận, bị cáo T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thừa nhận hành vi phạm tội và xin được giảm nhẹ hình phạt nên đề nghị giảm nhẹ cho bị cáo T một phần hình phạt.
Đối với bị cáo N đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm mức hình phạt đối với bị cáo N.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, luật sư bào chữa, lời khai của các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đủ cơ sở kết luận bị cáo đã có hành vi mua ma túy rồi bán trái phép lại cho nhiều người. Do bị cáo H có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa và ngày 17/8/2021, bị cáo H có đơn rút lại toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Do đó, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H là phù hợp.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Cao Văn T, xin được giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Mức hình phạt 09 năm tù mà án sơ thẩm đã tuyên là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra do bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ. Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, chưa được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo kêu oan của bị cáo Bùi Trọng N, bị cáo không thừa nhận có mua bán trái phép chất ma túy cho rằng không phạm tội và không thừa nhận bán ma túy cho các con nghiện khác. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận có mua ma túy của bị cáo H tổng cộng 4 lần để sử dụng và mua dùm cho người nghiện khác là Nguyễn Hồng T 02 lần và những người làm chứng đều khẳng định có mua ma túy của bị cáo N cụ thể: Nguyễn Hoàng L có mua ma túy của N 05 lần; Lê Trung H1 có mua ma túy của N 02 lần; Nguyễn Hồng T có mua ma túy của N được 04 lần; Cao Văn Hữu P2 có mua ma túy của N 01 lần; Huỳnh Văn V có mua ma túy của N 01 lần là hùn với Lê Trung H1. Kết quả đối chất và nhận dạng qua ảnh tại cơ quan điều tra L, H1, T khẳng định đã mua ma túy của N nhiều lần như đã nêu ở trên và không nhờ N mua dùm; giữa L, H1, T và N có quen biết và không có mâu thuẫn gì với bị cáo N. Do đó, đủ cơ sở khẳng định bị cáo Bùi Trọng N đã phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, việc bị cáo kháng cáo kêu oan là không có cơ sở. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo nhận tội, thay đổi, bổ sung nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xét thấy bị cáo đã tỏ ra ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo N.
[4] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay là phù hợp nên chấp nhận.
[5] Đối với đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo N là có một phần căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo N như đã nhận định nêu trên.
[6] Do đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo H và chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, bị cáo N nên các bị cáo H,T và N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần còn lại của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 348, điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn H, quyết định về hình phạt của bản án sơ thẩm số 16/2021/HS-ST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện TN đối với bị cáo Nguyễn Văn H có hiệu lực thi hành.
2. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Cao Văn T và bị cáo Bùi Trọng N, sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Cao Văn T và bị cáo Bùi Trọng N;
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Cao Văn T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Cao Văn T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 25 tháng 8 năm 2020 được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/6/2020 đến 02/7/2020.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Bùi Trọng N phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Bùi Trọng N 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 25 tháng 12 năm 2020.
Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Về án phí phúc thẩm: Các bị cáo Cao Văn T và Bùi Trọng N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 231/2021/HS-PT
Số hiệu: | 231/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/10/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về