TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 388/2021/HS-PT NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 440/2021/TLPT-HS ngày22/8/2021 đối với bị cáo Nguyễn Mạnh H bị xét xử về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 53/2021/HS-ST ngày 09/07/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Mạnh H; tên gọi khác: H Mẹt; sinh năm 1972, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn M H và bà Ngô Thị M; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Thanh P (đã ly hôn) và có 02 con, sinh năm 2000 và 2003; Tiền án: Không;
Tiền sự: 01 tiền sự, bị Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định số 25/2019/QĐ-TA ngày 28/01/2019 về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 20 tháng (chấp hành xong ngày 21/02/2020).
Nhân thân:
- Năm 2008, bị Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông ra Quyết định đưa vào Trường Giáo dục đào tạo và giải quyết việc làm số 5 thuộc Lực lượng Thanh niên xung phong thành phố Hồ Chí M để quản lý, giáo dục và chữa bệnh trong thời gian 24 tháng (chấp hành xong ngày 22/10/2009);
- Năm 2011, bị Ủy ban nhân dân thành phố B ra Quyết định đưa vào Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội tỉnh Đắk Lắk (nay là Cơ sở Điều trị, cai nghiện ma túy tỉnh Đắk Lắk) 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chấp hành xong ngày 11/7/2013);
- Ngày 27/4/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 01 năm tù giam, theo bản án số 133/2015/HSST về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích);
- Năm 2016, bị Toà án thành phố B ra quyết định đưa vào Cơ sở Điều trị, cai nghiện ma túy tỉnh Đắk Lắk, thời hạn 18 tháng (chấp hành xong ngày 21/3/2017);
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/3/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.
Ngoài ra trong vụ án này còn có Phan Thị Thanh T, bị xét xử về tội“Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” Vũ Chiến T1 bị xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”,không có kháng cáo, kháng nghị.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Bùi Quang Nguyên V, sinh năm 2000; Nơi cư trú: Tp. B, tỉnh Đắk Lắk - Vắng mặt.
+ Anh Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1995; Nơi cư trú: tỉnh Đắk Lắk - Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phan Thị Thanh T là người nghiện chất ma túy dạng đá từ năm 2019. Đầu tháng 4/2020, T thuê căn nhà tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để sinh sống cùng con nhỏ. Quá trình sử dụng chất ma túy dạng đá (Methamphetamine), T quen biết với người nam giới tên T2 tại thành phố B (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là người bán chất ma túy dạng đá. Do không có việc làm ổn định nên T đã nảy sinh ý định mua chất ma túy dạng đá của T2 về bán kiếm lời.
Vào ngày 22/8/2020, T sử dụng điện thoại di động gọi cho T2 số điện thoại 0946.264.949 hỏi mua “nửa hộp năm” chất ma túy đá, T2 đồng ý và báo giá là 1.300.000 đồng, sau đó có một người nam giới (không rõ nhân thân) đến nhà giao cho T một gói ma túy đá và lấy số tiền 1.300.000 đồng. Sau khi nhận được gói ma túy đá, T chia thành 07 gói nhỏ để bán cho người nghiện với giá từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng/01 gói.
Khoảng 10 giờ ngày 23/8/2020, Nguyễn Ngọc A gọi điện thoại cho T hỏi mua 700.000 đồng chất ma túy đá thì T đồng ý và hẹn đến nhà T để bán, khi Nguyễn Ngọc A đi đến nhà gặp T, thì T đang tắm cho con nhỏ nên T nói Nguyễn Ngọc A ngồi đợi. Lúc này, có Nguyễn Mạnh H cùng Bùi Quang Nguyên V là người quen của T đến nhà T. T từ trong phòng tắm đi ra nói với Nguyễn Ngọc A “đợi cho con ăn rồi chị làm đồ cho”, Nguyễn Mạnh H nghe T nói như vậy thì nói “em cho con ăn đi để anh làm cho”, sau đó H lấy một gói ma túy đá (của H) ở trong hộp giấy mà H đang cầm trên tay chia ra một gói nhỏ bán cho Nguyễn Ngọc A, Nguyễn Ngọc A cầm gói chất ma túy đá và để số tiền 700.000 đồng xuống nền nhà ch T và H đang ngồi rồi đi về. T nói với H “tiền này anh cầm đi”, H trả lời “thôi bữa trước anh nợ em 2.000.000 đồng, anh trả trước 700.000 đồng luôn”.
Đến khoảng 19 giờ ngày 23/8/2020, Vũ Chiến T1 gọi điện thoại cho T hỏi mua 300.000 đồng chất ma túy đá, thì T đồng ý và hẹn đến nhà để bán. T1 điều khiển xe mô tô mang biển số: 47H1 – 094.29 đi đến nhà của T và T đã bán cho Thắng 01 gói chất ma túy đá với giá 300.000 đồng, còn lại 06 gói T bỏ vào trong hộp kim loại để trên ghế phòng khách. Sau đó, Nguyễn Mạnh H, Bùi Quang Nguyên V, Lê V M và Lâm Tùng S đến nhà của T chơi, tại đây Nguyễn Mạnh H, Bùi Quang Nguyên V, Lê V M lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá của T để sử dụng ma túy, khi T đang cho con ngủ ở trong phòng nghe thấy ồn ào nên bế con ra ngoài phòng khách, T thấy H, V và M đang sử dụng chất ma túy đá thì T cùng tham gia sử dụng.
Đối với Vũ Chiến T1, sau khi mua được gói ma túy đá của T, T1 điều khiển xe đi về đến phòng trọ tại hẻm 191 đường Y Wang, phường Ea Tam, thành phố B, thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ gói ma túy dạng đá của T1.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã tiến hành khám xét khẩn cấp ch ở của Phan Thị Thanh T tại địa chỉ số: thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Quá trình khám xét phát hiện thu giữ 11 gói nylon ch a chất rắn dạng tinh thể màu trắng, trong đó 06 gói nylon ch a chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong hộp kim loại ở trên ghế phòng khách và 05 gói nylon ch a chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong phòng ngủ của han Thị Thanh T.
Tại bản Kết luận giám định số: 790/GĐMT- C09 ngày 01/9/2020, của hòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon (thu giữ của Vũ Chiến T1) gửi giám định có khối lượng: 0,1672 gam là ma túy, loại Methamphetamine.
Tại bản kết luận giám định số: 791/GĐMT- C09 ngày 01/9/2020, của hòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 06 gói nylon (thu giữ tại ch ở của han Thị Thanh T) là ma túy, có tổng khối lượng 3,7628gam loại Methamphetamine; Chất tinh thể màu trắng trong 05 gói nylon (thu giữ tại ch ở của han Thị Thanh T) là ma túy, có tổng khối lượng 35,4000gam loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra, Phan Thị Thanh T khai nhận: 06 gói nylon ch a chất rắn dạng tinh thể màu trắng là chất ma túy dạng đá còn lại mà T đã mua của người nam giới tên T2, còn 05 gói nylon ch a chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ tại phòng ngủ của T là ma túy dạng đá của Nguyễn Mạnh H. Tối ngày 22/8/2020, H đến nhà T tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk và gửi cho T 01 hộp giấy bên trong có ma túy đá, H nói khi nào có người mua số ma túy này H sẽ đến lấy, sau đó cất giấu ở trong phòng ngủ của T. Quá trình điều tra, H không thừa nhận đã gửi chất ma túy đá tại nhà T, không thừa nhận có mặt tại nhà T vào sáng ngày 23/8/2020 và cũng không thừa nhận việc bán ma túy đá cho Nguyễn Ngọc A vào sáng ngày 23/8/2020 tại nhà của T.
Bùi Quang Nguyên V khai nhiều lần mua ma túy đá của Nguyễn Mạnh H từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng để về sử dụng. Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành cho Nguyễn Ngọc A nhận dạng qua ảnh, đối chất người đã bán ma túy cho Nguyễn Ngọc A sáng ngày 23/8/2020, kết quả Nguyễn Ngọc A xác định Nguyễn Mạnh H là người đã bán ma túy đá cho mình, bên cạnh đó han Thị Thanh T, Bùi Quang Nguyên V đều khai nhận Nguyễn Mạnh H là người bán ma túy cho Nguyễn Ngọc A sáng ngày 23/8/2020.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số:53/2021/HS-ST ngày:09 /7/2021 của Tòa án nhân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
1. Về tội danh:
Tuyên bố: Bị cáo han Thị Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”; Bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Vũ Chiến T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
2.1. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo han Thị Thanh T: 16 (Mười sáu) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo han Thị Thanh T: 07 (Bảy) năm tù, về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”;
Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Phan Thị Thanh T phải chấp hành chung cho cả hai tội là: 23 (Hai mươi ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 24/8/2020.
2.2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 10 (Mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giam 12/3/2021.
2.3. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Chiến T1: 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/8/2020 đến ngày 20/01/2021.
Bản án còn quyết định xử lý vật ch ng, và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong hạn luật định bị cáo Nguyễn Mạnh H làm đơn kháng cáo kêu oan.
* Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Mạnh H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo nêu trên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Mạnh H giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn c vào các ch ng c , tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét đơn kháng cáo kêu oan của bị cáo Nguyễn Mạnh H; Hội đồng xét xử xét thấy:
Trong vụ án này mặc dù cơ quan điều tra không bắt quả tang trực tiếp hành vi mua bán trái phép chất ma túy của H, thế nhưng căn c vào các lời khai của người mua ma túy của H, đó là Nguyễn Ngọc A cùng với biên bản nhận dạng của A đối với H. Lời khai và biên bản nhận dạng của A phù hợp với lời khai của Phan Thị Thanh T là người có hành vi cất giữ ma túy cho H, phù hợp với lời khai của Bùi Quang Nguyên V (C) là người ch ng kiến việc H bán ma túy cho A tại nhà của T, và cũng là người mua ma túy của H về sử dụng. Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thực hiện việc lấy lời khai, tự khai, và lập biên bản đối chất, giữa các bị cáo và nhận dạng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, do vậy đó là những ch ng c hợp pháp có giá trị ch ng minh hành vi phạm tội của bị cáo H.Tại phiên tòa sơ thẩm, Phan Thị Thanh T vẫn giữ nguyên những lời khai trước đây tại cơ quan điều tra.
[2] Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 23/8/2020, Nguyễn Ngọc A gọi điện thoại cho Phan Thị Thanh T hỏi mua 700.000 đồng chất ma túy đá thì T đồng ý và hẹn đến nhà T để bán, khi Nguyễn Ngọc A đi đến nhà gặp T, thì T đang tắm cho con nhỏ nên T nói Nguyễn Ngọc A ngồi đợi. Lúc này, có Nguyễn Mạnh H cùng Bùi Quang Nguyên V là người quen của T đến nhà T. T từ trong phòng tắm đi ra nói với Nguyễn Ngọc A “đợi cho con ăn rồi chị làm đồ cho”, Nguyễn Mạnh H nghe T nói như vậy thì nói “em cho con ăn đi để anh làm cho”, sau đó H lấy một gói ma túy đá (của H) ở trong hộp giấy mà H đang cầm trên tay chia ra một gói nhỏ bán cho Nguyễn Ngọc A, Nguyễn Ngọc A cầm gói chất ma túy đá và để số tiền 700.000 đồng xuống nền nhà ch T và H đang ngồi rồi đi về. T nói với H “tiền này anh cầm đi”, H trả lời “thôi bữa trước anh nợ em 2.000.000 đồng, anh trả trước 700.000 đồng luôn”.
Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, bị cáo T tiếp tục bán cho bị cáo Vũ Chiến T1 01 gói chất ma túy đá có trọng lượng 0,1672 gam loại Methamphetamine với giá 300.000 đồng, khi bị cáo T1 về đến phòng trọ tại thành phố B, thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ gói ma túy đá. Ngoài ra bị cáo T còn có hành vi cất giấu 11 gói ma túy đá có tổng khối lượng là 39,1628 gam loại Methamphetamine với mục đích bán kiếm lời và để cho Nguyễn Mạnh H, Bùi Quang Nguyên V và Lê V M sử dụng bộ dụng cụ để sử dụng trái phép chất ma túy tại ch ở của bị cáo T.
Đối với bị cáo Nguyễn Mạnh H, ngoài việc đã bán ma túy cho Nguyễn Ngọc A ra thì còn nhiều lần bán chất ma túy đá cho Bùi Quang Nguyên V để sử dụng.
Bản án sơ thẩm đã xem xét đánh giá ch ng c khách quan toàn diện và đầy đủ các ch ng c buộc tội, gỡ tội để xét xử bị cáo Nguyễn Mạnh H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn c đúng pháp luật, không oan. Do vậy đơn kháng cáo kêu oan của bị cáo Nguyễn Mạnh H là không có căn c được chấp nhận.
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Mạnh H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn c vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự:
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Mạnh H, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 53/2021/HS-ST ngày 09/7/2021 của Tòa án nhân tỉnh Đắk Lắk.
1. Về tội danh:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;
2. Về hình phạt:
1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 10 (Mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 12/3/2021.
Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Mạnh H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, và không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 388/2021/HS-PT
Số hiệu: | 388/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về