Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 22/2019/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2019/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN THANH V (Tên gọi khác: Méo) - Sinh năm 1998 tại Bình Thuận.

Nơi cư trú: Thôn Bình An 1, xã Tân Bình, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;

Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Nguyễn Thanh T, sinh năm 1975 và bà: Phạm Thị Cao N, sinh năm 1974;

Gia đình có 4 anh, em; Bị cáo là con thứ hai;

Vợ, con: Không.

Tiền án; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt vào ngày 08/01/2019, bị tạm giữ từ ngày 08/01/2019, bị tạm giam từ ngày 17/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ – Công an thị xã L. (có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1995 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Hiệp Phú, xã Tân Tiến, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

- Ông Phú Thanh S, sinh năm 1997 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Khu phố 3, phường Bình Tân, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

- Bà Phạm Thị Cao N, sinh năm 1974 (Có mặt) Nơi cư trú: Thôn Bình An 1, xã Tân Bình, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

* Người làm chứng: Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1982. (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Bình An 1, xã Tân Bình, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 08/01/2019, Nguyễn Văn S rủ Phú Thanh S đến nhà bà Phạm Thị Cao N - mẹ ruột của Nguyễn Thanh V tại thôn Bình An 1, xã Tân Bình, thị xã L để gặp V hỏi mua ma túy. Tại đây, Nguyễn Văn S hỏi mua của V 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng. Nguyễn Thanh V đi vào trong phòng ngủ, lấy 01 bịch ma túy đá đưa cho S và S đưa lại cho V 200.000 đồng, ngay lúc này bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thị xã L bắt quả tang. Kiểm tra phòng ngủ của Nguyễn Thanh V phát hiện thêm 19 bịch nylon được hàn kín hai đầu, trong đó 18 bịch có kích thước (0,5 x 1,5) cm và 01 bịch kích thước (02 x 03) cm bên trong chứa các hạt tinh thể trong suốt, dạng rắn. V khai nhận đây là 19 bịch ma túy đá tàng trữ nhằm mục đích bán cho các con nghiện. Ngoài ra, lực lượng Cảnh sát còn thu giữ tai hiện trường 02 cây kéo bằng kim loại, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 01 chiếc cân điện tử màu trắng, 03 đoạn ống nhựa được hàn kín một đầu, 01 ống nhựa màu trắng dài khoảng 20 cm và số tiền 1.100.000 đồng trên tay của V. Quá trình điều tra xác định được, số tiền 1.100.000 đồng thu giữ được bao gồm 200.000 đồng tiền bán ma túy cho Nguyễn Văn S và 900.000 đồng thuộc sở hữu của bà Phạm Thị Cao N, không liên quan đến hành vi mua bán ma túy.

Ngoài lần bán ma túy bị bắt quả tang như đã nêu trên, Nguyễn Thanh V khai nhận thêm: Khoảng 13 giờ ngày 08/01/2019, cũng tại nhà V, Nguyễn Văn S và Phú Thanh S cùng đến gặp Nguyễn Thanh V, Sang hỏi mua 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng, Nguyễn Thanh V đưa cho Sang 01 bịch ma túy đá còn S trả cho V 200.000 đồng.

Về nguồn gốc ma túy, V khai vào ngày 08/01/2019, một người tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) đưa cho V 22 bịch ma túy đá nhờ bán dùm thì V đồng ý; sau đó, V cho bạn tên T (không rõ nhân thân lai lịch) sử dụng hết 01 bịch, bán cho S 01 bịch và S 01 bịch, còn lại 19 bịch để trong phòng ngủ bị thu giữ như đã nêu trên.

Tại Bản kết luận giám định số: 35/KLGĐ-PC54 ngày 16/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

- Đối tượng giám định:

+ 01 (một) phong bì được niêm phong còn nguyên vẹn, có chữ ký ghi tên: Nguyễn Văn S, Phú Thanh S, Trần Nguyễn Đăng K, dấu vân tay màu đen ghi "Ngón cái trái của Nguyễn Thanh V", dấu vân tay màu đen ghi "Ngón cái phải của Nguyễn Thanh V" và hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã L; Trong phong bì có 01 (Một) gói nylon được hàn kín chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M1).

+ 01 (một) phong bì được niêm phong còn nguyên vẹn, có chữ ký ghi tên: Trần Nguyễn Đăng K, dấu vân tay màu đen ghi "Ngón cái trái của Nguyễn Thanh V", dấu vân tay màu đen ghi "Ngón cái phải của Nguyễn Thanh V" và hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã L; Trong phong bì có 19 (Mười chín) gói nylon được hàn kín chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M2).

- Kết luận giám định:

+ Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 0,0474 gam; là Methamphetamine.

+ Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 1,9439 gam; là Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì đối với toàn bộ kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Về vật chứng vụ án: Thu giữ của Nguyễn Thanh V 01 (Một) gói nylon chứa 0,0474 gam Methamphetamine (đã sử dụng hết trong quá trình giám định) và 19 gói nylon chứa 1,9439 gam Methamphetamine (còn lại sau giám định là 1,7335 gam); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa có nắp màu đỏ được đục 02 lỗ trên nắp có gắn 01 ống thủy tinh cong và 01 ống hút nước giải khát màu trắng; 02 cây kéo bằng kim loại hiệu Stainless và Stainless Steel; 03 đoạn ống nhựa hàn kín một đầu; 01 ống nhựa màu trắng dài khoảng 20 cm, 01 cân điện tử và số tiền 1.100.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã L đã trả cho bà Phạm Thị Cao N 900.000 đồng, còn lại 200.000 đồng và những vật chứng còn lại đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã L chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thị xã L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/3/2019.

Tại Cáo trạng số: 17/CT-VKS ngày 20/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Nguyễn Thanh V về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng số:

17/CT-VKS ngày 20/3/2019 và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 Phạt bị cáo Nguyễn Thanh V 07 (bảy) năm đến 07 năm 06 tháng tù.

* Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự - Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) gói nylon đã cắt lấy mẫu được niêm phong trong phong bì số 35/1, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, 19 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 1,7335 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 35/2, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa có nắp màu đỏ được đục 02 lỗ trên nắp có gắn 01 ống thủy tinh cong và 01 ống hút nước giải khát màu trắng; 02 cây kéo bằng kim loại hiệu Stainless và Stainless Steel; 03 đoạn ống nhựa hàn kín một đầu; 01 ống nhựa màu trắng dài khoảng 20 cm, 01 cân điện tử.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thanh V và buộc Nguyễn Thanh V nộp số tiền 200.000 đồng mà Vũ bán ma túy cho Phú Thanh S.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh V đồng ý với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Không có ý kiến gì.

Bị cáo Nguyễn Thanh V nói lời sau cùng: Bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, mong HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn S, Phú Thanh S, người làm chứng Nguyễn Thanh P.

Ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác là đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt của các ông Nguyễn Văn S, Phú Thanh S và Nguyễn Thanh P không gây trở ngại cho việc xét xử, vì lời khai của họ đã khai đầy đủ thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp.

[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội:

Xét lời khai của bị cáo Nguyễn Thanh V tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Thanh V đã 02 lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, cụ thể: Lần thứ nhất, vào khoảng 13 giờ ngày 08/01/2019, tại thôn Bình An 1, xã Tân Bình, thị xã L, Nguyễn Thanh V có hành vi bán cho Phú Thanh S 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng. Lần thứ 2, vào khoảng 15 giờ ngày 08/01/2019, cũng tại thôn Bình An 1, xã Tân Bình, thị xã L, Nguyễn Thanh V tiếp tục có hành vi bán 01 gói nylon có khối lượng 0,0474 gam là Methamphetamine cho Nguyễn Văn S với giá 200.000 đồng. Ngoài ra, Nguyễn Thanh V còn tàng trữ 19 gói nylon có khối lượng 1,9439 gam là Methamphetamine nhằm mục đích bán cho các con nghiện.

Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự thì:

"2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

....

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

...." Đối chiếu với quy định trên, hành vi bán trái phép chất ma túy cho Phú Thanh S, Nguyễn Văn S và tàng trữ ma túy nhằm bán trái phép cho người khác như trên của bị cáo Nguyễn Thanh V đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thanh V về tội danh, điều luật áp dụng Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

Qua lời trình bày của bị cáo V về đối tượng tên T là người đưa ma túy nhờ V bán hộ, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của đối tượng nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

Riêng đối với hành vi tàng trữ trái phép 01 gói nylon có khối lượng 0,0474 gam là Methamphetamine mua từ bị cáo V của Nguyễn Văn S, quá trình điều tra xác định được S chưa bị xử phạt vi phạm hành chính cũng như chưa bị kết án về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật hình sự nên không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Đối với hành vi mua 01 gói ma túy từ bị cáo V của Phú Thanh S, do không thu giữ được vật chứng nên không có căn cứ xác định định lượng ma túy mà Phú Thanh S tàng trữ. Vì vậy, không đủ căn cứ để xử lý hình sự đối với S.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy diễn ra tại nhà bà Phạm Thị Cao N, nhưng bà N không hề biết sự việc này nên không có căn cứ xử lý hình sự đối với bà N.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi mà bị cáo Nguyễn Thanh V thực hiện là rất nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gián tiếp đẩy người khác vào tệ nạn nghiện ngập, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Ma túy hủy hoại sức khỏe của bản thân người nghiện, đồng thời là tiền đề của nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Xét thấy, địa bàn thị xã L tình hình tội phạm ma túy diễn biến hết sức phức tạp, do đó cần phải xử lý nghiêm khắc bị cáo Nguyễn Thanh V không chỉ nhằm mục đích trừng trị hành vi phạm pháp của bị cáo, cải tạo và giáo dục bị cáo V trở thành công dân sống lành mạnh, có ích cho xã hội mà còn để lập lại trật tự công cộng, phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo V khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tay phải bị liệt do tai nạn giao thông đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập, hoàn cảnh kinh tế không ổn định. Do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo V.

[6] Về biện pháp tư pháp:

- 01 (Một) gói nylon đã cắt lấy mẫu được niêm phong trong phong bì số 35/1 không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

- 19 (Mười chín) gói nylon đã cắt lấy mẫu chứa 1,7335 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 35/2 là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa có nắp màu đỏ được đục 02 lỗ trên nắp có gắn 01 ống thủy tinh cong và 01 ống hút nước giải khát màu trắng là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

- 02 cây kéo bằng kim loại hiệu Stainless và Stainless Steel; 03 đoạn ống nhựa hàn kín một đầu; 01 ống nhựa màu trắng dài khoảng 20 cm, 01 cân điện tử là những vật mà Nguyễn Thanh V sử dụng để phân chia ma túy đem bán nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thanh V do phạm tội mà có cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước và buộc Nguyễn Thanh V nộp số tiền 200.000 đồng mà Vũ bán ma túy cho Phú Thanh S.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thanh V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh V phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh V 07 (bảy) năm từ. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 08.01.2019.

- Về biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) gói nylon đã cắt lấy mẫu được niêm phong trong phong bì số 35/1; 19 gói nylon đã cắt lấy mẫu chứa 1,7335 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 35/2; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa có nắp màu đỏ được đục 02 lỗ trên nắp có gắn 01 ống thủy tinh cong và 01 ống hút nước giải khát màu trắng; 02 cây kéo bằng kim loại hiệu Stainless và Stainless Steel; 03 đoạn ống nhựa hàn kín một đầu; 01 ống nhựa màu trắng dài khoảng 20 cm, 01 cân điện tử.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: Số tiền 200.000 đồng.

(Tất cả các vật chứng đã được chuyển sang Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/3/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L và Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã L) + Buộc Nguyễn Thanh V nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng mà V bán ma túy cho Phú Thanh S.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Nguyễn Thanh Vũ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Bị cáo Nguyễn Thanh V, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Thị Cao N có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (24/5/2019). Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn S, Phú Thanh S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, đã sửa đổi, bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 22/2019/HS-ST

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;