Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 186/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 186/2021/HS-ST NGÀY 23/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 164/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa ra xét xử số 168/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1982; tại Hà Nội; ĐKNKTT: Tổ X, phường P, quận L, thành phố H; giới tính: nữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 08/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên bố: Nguyễn Hữu Đ (chết); họ tên mẹ: Nguyễn Thị T- sinh năm 1946; gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba; có 01 con sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân nhân:

Ngày 15/5/2003, Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm xử phạt Nguyễn Thị Thu H 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. (đã được xóa án tích).

Bản án số 138/2005/HSST ngày 16/8/2005 của Tòa án nhân dân quận Long Biên- thành phố Hà Nội, quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 447/HSPT ngày 17/10/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H 10 tháng tù tội “chống người thi hành công vụ” (đã chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 23/3/2006), không tìm thấy hồ sơ thi hành án dân sự phần án phí hình sự sơ thẩm.

Bản án số 385/2007/HSST ngày 12/10/2007 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng- thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H 09 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 29/01/2016), không tìm thấy hồ sơ thi hành án phần án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 30/6/2021 đến ngày 09/7/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Như T- sinh năm 1997; trú tại: Thôn Phù Đổng x, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ ngày 30/6/2021, H đi xe Bus từ khu vực Thạch Bàn, Long Biên, Hà Nội đến cổng chợ Long Biên ở Phúc Tân, Hoàn Kiếm, Hà Nội, gặp và mua của một người phụ nữ không quen biết một đoạn ống hút bằng nhựa màu hồng được hàn kín hai đầu bên trong có ma túy đá với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy thì H về nhà. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày 30/6/2021 H cầm đoạn ống hút có chứa ma túy đá đi xe Bus đến số 28, đường Cổ Bi, xã Cổ Bi, Gia Lâm để giải quyết việc cá nhân. Đến khoảng 10 giờ 00 cùng ngày 30/6/2021 thì H nhận được cuộc gọi từ số thuê bao 0338213533 của T đến số thuê bao 0562014790 của H hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá và 200.000 đồng ma túy ngựa, H bảo T là không có ma túy ngựa chỉ có ma túy đá nên T bảo H bán cho 500.000 đồng ma túy đá. H đồng ý, H và T hẹn nhau ra số 28 đường Cổ Bi, Gia Lâm để giao dịch mua bán ma túy. T cùng đi với Nguyễn Văn Hải đi xe ôm đến số 28 đường Cổ Bi gặp H. Khi gặp H, T đưa 300.000 đồng cho H và đang thanh toán tiền mua ma túy cho H còn H cho tay vào túi quần bên phải H đang mặc lấy ra vỏ bao thuốc lá Thăng Long trong có đoạn ống hút chứa ma túy đá đưa cho T nhưng chưa kịp đưa ma túy cho T thì bị Cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ của H: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 đoạn ống nhựa loại ống hút màu hồng được hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart có sim số: 0567518223 và 0562014790; Số tiền: 1.100.000 đồng (gồm: 01 tờ mệnh giá 500.000 đồng, 05 tờ mệnh giá 100.000 đồng và 05 tờ mệnh giá 20.000 đồng); Thu giữ của T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia trong có sim số 0338213533, số tiền 200.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 5469/KLGĐ-PC09 ngày 07/7/2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 đoạn ống hút nhựa màu hồng được hàn kín hai đầu là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,282 gam.

Tại bản Cáo trạng số 167/CT-VKSGL ngày 11 tháng 10 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu H về tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Thu H đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu H.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47, của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H mức án từ 28 tháng đến 32 tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2021.

- Về hình phạt bổ sung: Không.

Về xử lý vật chứng:

+ Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 đoạn ống nhựa loại ống hút màu hồng được hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng được xác định là ma túy loại Methamphetamin khối lượng 0,234 gam (đã trích mẫu 0,048 gam) + Tịch thu sung công 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart có sim số:

0567518223 và 0562014790 thu giữ của Nguyễn Thị Thu H.

+ Tịch thu sung công 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia trong có sim số 0338213533 thu giữ của Nguyễn Như T.

+ Tịch thu sung công Số tiền: 300.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị Thu H.

+ Tịch thu sung công số tiền 200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Như T.

+Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Thu H số tiền 800.000 đồng.

Nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn nhận tội và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, bản Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đã truy tố.

Tại phiên tòa ngày 27/10/2021, do xét thấy không có đủ căn cứ xác định bị cáo Nguyễn Thị Thu H đã được xóa án tích đối với cả hai bản án là bản án số138/2005/HSST ngày 16/8/2005 của Tòa án nhân dân quận Long Biên và bản án số 385/2007/HSST ngày 12/10/2007 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội do chưa có đầy đủ các căn cứ xác định bị cáo đã nộp tiền án phí của hai bản án trên nên Hội đồng xét xử đã ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung về vấn đề trên.

Tại Công văn số 554/CV- VKSGL ngày 02/11/2021 về việc Phúc đáp yêu cầu Điều tra bổ sung của Viện kiểm sát nhân dân dân huyện Gia Lâm, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm trả lời: “giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu H đã được kết luận tại nội dung Cáo Trạng số 167 ngày 11/10/2021…” Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Thị Thu H vẫn giữ nguyên trình bày về việc đã nộp đầy đủ tiền án phí của bản án số138/2005/HSST ngày 16/8/2005 của Tòa án nhân dân quận Long Biên và bản án số 385/2007/HSST ngày 12/10/2007 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Do vậy thấy cần áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo do việc không lưu giữ được các chứng từ, sổ sách về việc đóng án phí của bị cáo là lỗi của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, xác định bị cáo Nguyễn Thị Thu H đã chấp hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm và đã được xóa án tích đối với cả hai bản án trên.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ ngày 30/6/2021, tại khu vực trước số nhà 28 đường Cổ Bi, xã Cổ Bi, Gia Lâm, Hà Nội, bị cáo Nguyễn Thị Thu H đang có hành vi bán trái phép chất ma túy Methamphetamine, khối lượng 0,282 gam cho Nguyễn Như T thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt giữ cùng vật chứng.

[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Thu H đã có đủ yếu tố cấu thành tội:

“Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[4] Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được Bộ luật hình sự bảo vệ. Hiện nay ma túy là hiểm họa đối với con người, tác động xấu đến kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đạo đức, lối sống, văn hóa của con người. Bị cáo đã nhận thức được điều này nhưng vẫn ngang nhiên bán ma túy cho anh Nguyễn Như T với mục đích để thu lợi bất chính là thể hiện sự coi tH pháp luật. Vì vậy cần phải được xử lý bằng một bản án hình sự của Nhà nước mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng cũng như trong việc đấu tranh đối với loại tội phạm này nói chung.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[6] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Thị Thu H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[8] Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội cùng nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian dài mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nhận định ở trên.

[9] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về nhân thân của bị cáo, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về hình phạt bổ sung:

[10] Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[11] Đối với 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 đoạn ống nhựa loại ống hút màu hồng được hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng được xác định là ma túy loại Methamphetamin khối lượng 0,234 gam (đã trích mẫu 0,048 gam) là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần cho tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

[12]Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart có sim số:

0567518223 và 0562014790 thu giữ của Nguyễn Thị Thu H và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia trong có sim số 0338213533 thu giữ của Nguyễn Như T do H và T sử dụng để liên lạc với nhau để mua bán ma túy, là phương tiện phạm tội nên cần cho tịch thu sung công là phù hợp với quy định của pháp luật.

[13] Đối với số tiền 300.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị Thu H là tiền H bán ma túy. Số tiền này do phạm tội mà có nên cần cho tịch thu sung công là phù hợp với quy định của pháp luật.

[14] Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Như T là tiền T sử dụng vào mục đích mua ma túy của H nên cần cho tịch thu sung công là có căn cứ.

[15] Đối với số tiền 800.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị Thu H là tiền của H không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Về các vấn đề khác:

[16] Đối với Nguyễn Như T và Nguyễn Văn Hải rủ nhau đi mua ma túy về sử dụng. T là người trực tiếp giao dịch mua ma túy của H nhưng chưa mua được ma túy. Kết quả xét nghiệm T và Hải âm tính với chất ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý gì đối với T và Hải. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[17] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về hình phạt bổ sung, về xử lý vật chứng và về các vấn đề khác là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về án phí:

[18] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban tH vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quyền kháng cáo:

[19] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H 30 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.Thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2021.

2. Về hình phạt bổ sung: Không.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 đoạn ống nhựa loại ống hút màu hồng được hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng được xác định là ma túy loại Methamphetamin khối lượng 0,234 gam (đã trích mẫu 0,048 gam) + Tịch thu sung công 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart có sim số thu giữ của Nguyễn Thị Thu H.

+ Tịch thu sung công 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia trong có sim số thu giữ của Nguyễn Như T.

(Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/10/2021).

+ Tịch thu sung công Số tiền: 300.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị Thu H.

+ Tịch thu sung công số tiền 200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Như T.

+Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Thu H số tiền 800.000 đồng nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm theo Biên lai số0054917 ngày 21/10/2021).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban tH vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Thị Thu H phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 186/2021/HS-ST

Số hiệu:186/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;