Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 16/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 24/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 3 năm 2022, tại Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 11/2022/TLHS-ST ngày 23 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo: Nguyễn Thị Đ; (Tên gọi khác: Không); Sinh ngày 24 tháng 10 năm 1960 tại Nam Định; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 7, phường CH, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Trình Đ văn hóa: 7/10; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Nguyễn Văn H (đã chết); con bà: Nguyễn Thị Gi (đã chết); Có chồng là Trần Văn L (đã chết); có 2 con chung; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 1555/PTHS ngày 29/10/2003 của Tòa phúc thẩm, Tòa án nhân dân Tối cao tại Hà Nội đã xử phạt Nguyễn Thị Đ 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2021. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.(có mặt).

*Người bào chữa cho bị cáo (Do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu): Ông Triệu Quốc B là luật sư Văn phòng Luật sư Quyết Thắng thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên; (có mặt).

* Những người chứng kiến:

1.Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1971; Trú tại: Xóm VH, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).

2.Bà Dương Thị Minh T, sinh năm 1969; trú tại: Tổ 7, phường CH, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 16/12/2021, theo nguồn tin của quần chúng nhân dân, tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện tại nhà Nguyễn Thị Đ (ở tổ 7, phường CH, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên) đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Đ tự giác khai nhận đang cất giấu ma túy và lấy từ trong túi quần phía trước bên phải đang mặc giao nộp 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các cục chất bột màu trắng (Đ khai nhận đó là ma túy loại Heroine của mình để bán cho khách kiếm lời) – được niêm phong ký hiệu A. Ngoài ra còn tạm giữ của Đ 01 điện thoại di Động nhãn hiệu MASTEL màu đen lắp sim số thuê bao 0355.841332 có số IMEI 1 là 867253022045568, IMEI 2 là 867253022045576 – được niêm phong ký hiệu B. Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thị Đ đồng thời đưa Đ cùng vật chứng về Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra làm rõ.

Hồi 17 giờ 40 phút cùng ngày, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đ: Không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tiến hành mở niêm phong A, bên trong có: Các cục chất bột màu trắng có 37,50 gam, lấy mẫu 0,45 gam gửi giám định ký hiệu A1, còn lại 37,05 gam lưu kho theo quy định ký hiệu A2.

Mở niêm phong B: Kiểm tra chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MASTEL màu đen lắp sim số thuê bao 0355.841332 tạm giữ của Đ: Không có dữ liệu liên quan.

Tại Kết luận giám định số 45 ngày 24/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Các cục chất bột màu trắng trong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine; có khối lượng gửi giám định là 0,45 gam. Tổng khối lượng thu giữ ban đầu là 37,50 gam.

Quá trình điều tra đã làm rõ hành vi phạm tội của bị c áo như sau: Khoảng 15 giờ ngày 16/12/2021, Nguyễn Thị Đ một mình đi đến khu vực cầu Gia Bẩy thuộc phường ĐB, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên gặp và mua của một người nam giới không quen biết 01 “cây” Heroine với giá là 30.000.000 đồng mục đích để bán cho khách kiếm lời với giá 32.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Đ cất ma túy vào trong túi quần rồi đi về nhà tại tổ 7, phường CH, TP TN, tỉnh Thái Nguyên (cả lúc đi mua ma túy và lúc về, bị cáo đều đi nhờ xe máy của những người không quen biết gặp ở đường). Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi lực lượng công an đến kiểm tra, Nguyễn Thị Đ đã tự giác giao nộp toàn bộ số ma túy Heroine đang cất giấu trong túi quần phía trước bên phải cho Cơ quan điều tra.

Tại bản cáo trạng số 17/CT-VKS-P1 ngày 22/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Thị Đ về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên sau khi trình bày tóm tắt nội dung vụ án; đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên cáo trạng truy tố về tội danh đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

-Áp dụng điểm b khoản 3 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: xử phạt Nguyễn Thị Đ mức án 16 đến 17 năm tù; phạt bổ sung bị cáo từ 5 đến 10 triệu đồng; Tạm giữ của bị cáo chiếc điện thoại di Động để đảm bảo thi hành án cho bị cáo; Tịch thu tiêu hủy vật chứng còn lại theo quy định. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo nhất trí với tội danh mà cáo trạng đã truy tố. Tuy nhiên, bị cáo là người đã nhiều tuổi, sức khỏe yếu, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét toàn diện vụ án cũng như hoàn cảnh gia đình để xử phạt bị cáo mức án khởi điểm của khung hình phạt và miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo không tranh luận gì thêm. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[ 1] Về hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên cơ quan cảnh sát điều tra, của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên; của người bào chữa; việc thu thập chứng cứ của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đúng pháp luật.

Về thủ tục tố tụng tại phiên tòa hôm nay, có 2 người chứng kiến vắng mặt nhưng những người này đã có đủ lời khai tại cơ quan điều tra và hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng khác vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật .

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập được có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của những người chứng kiến; phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Do hám lời, ngày 16/12/2021, tại khu vực cầu Gia Bẩy thuộc phường ĐB, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Thị Đ đã mua 37,50 gam ma túy loại Heroine với giá 30.000.000 đồng của một người nam giới không quen biết. Sau đó, Đ cất giấu toàn bộ số ma túy mua được vào trong túi quần rồi đi về nhà tại tổ 7, phường CH, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên mục đích để bán cho khách kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Với hành vi mua 37,5 gam Heroine để nhằm mục đích bán kiếm lời như đã nêu trên, cáo trạng số 17/CT-VKS-P1 ngày 22/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Thị Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều luật như sau:

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy.

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

2….

3.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.

a...

b)… Hêroine có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam..”.

[3] Xét tính chất của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng; hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý sử dụng chất ma túy của nhà nước, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác như trộm cắp, cướp của, giết người, gây mất trật tự trị an xã hội, gây sự hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo cần phải được xét xử nghiêm minh để đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: bị cáo là người có nhân thân xấu. Năm 2003 đã bị xử phạt 10 năm tù về cùng loại tội, sau khi trở về địa phương không chịu tu dưỡng rèn luyện lại thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái Đ thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, khi lượng hình cần xem xét áp dụng hình phạt phù hợp để bị cáo có động cơ cải tạo tốt, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính, cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung quỹ nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự. .

[6] Về vật chứng vụ án được xử lý theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự cụ thể:

Đối với chiếc điện thoại di động đã thu giữ, theo bị cáo khai không dùng vào việc phạm tội nên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ chấp nhận; Xét đề nghị của vị luật sư bào chữa, Hội đồng xét xử cần xem xét theo quy định của pháp luật.

[9] Trong vụ án này, về nguồn gốc số ma túy, theo Đ khai đã mua của một người nam giới không biết họ, tên và địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ Điều 326 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Áp dụng điểm b khoản 3 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51;

Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thị Đ phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy", - Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Đ 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 16/12/2021. Phạt bổ sung bị cáo 7 triệu đồng sung quỹ nhà nước.

2. Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự :

*Tạm giữ của bị cáo 01 (một) chiếc điện thoại di động đựng trong 01 niêm phong ký hiệu B1, trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị Đ, các thành phần niêm phong và đóng dấu giáp lai của Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel, vỏ màu vàng, đã qua sử dụng, số IMEI 1: 867253022045568, IMEI 2:

867253022045576 đã thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

*Tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại gồm:

- 01 (một ) niêm phong ký hiệu A2, trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị Đ, các thành phần tham gia niêm phong và đóng dấu giáp lai của Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 37,05 gam heroin.

- 01 (một) niêm phong ký hiệu A1, trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Minh Thanh, Nguyễn Quang Vũ và đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,440 gam heroin.

(Các vật chứng trên hiện đang có tại kho của Cục thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên theo biên bản về việc giao nhận vật chứng số 42 ngày 23/02/2022).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Nguyễn Thị Đ phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 16/2022/HS-ST

Số hiệu:16/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;