Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 13/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH

 BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 15/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 15 tháng 3 năm 2021 tại Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2021/TLST- HS ngày 04 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2021 đối với:

* Bị cáo: Bùi Thị L - Sinh năm 1983 tại tỉnh Nam Định Nơi cư trú: Đội 5, Phú Thọ, xã Nghĩa Hải, huyện N, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; nghề nghiệp: Lao động tự do; tình độ học vấn: 7/12; giới tính: Nữ; con ông Bùi Văn Việt, sinh năm 1955 và bà Trần Thị Hiên, sinh năm 1957, cả hai đều ở xã Nghĩa Hải, huyện N, tỉnh Nam Định; gia đình có 04 anh em, L là con thứ tư; có chồng là Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1979, hiện đang ở xã Nghĩa Hải, huyện N; có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2011.

Nhân thân: Ngày 24/4/2009, bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo Bùi Thị L bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 01/01/2021 đến ngày 07/01/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn Du, sinh năm 1981; địa chỉ: Xóm 9, xã Nghĩa Phú, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

2. Ông Lê Văn Thuỷ, sinh năm 1963; địa chỉ: Đội 3, xã Nghĩa Hùng, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ, ngày 01 tháng 01 năm 2021, tại đường dong thuộc khu vực đội 3, xã Nghĩa Hùng, huyện N, tổ công tác Công an huyện N, phát hiện bắt quả tang Bùi Thị L đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn Du. Thu giữ của Du 01 gói nhỏ, vỏ là túi nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (Niêm phong kí hiệu M), Du khai nhận đó là Heroine vừa mua của L với giá 500.000 đồng. Thu giữ của L 01 tờ tiền polyme mệnh giá 500.000 đồng, L khai nhận đó là tiền vừa bán Heroine cho Du mà có. Quá trình bắt giữ, L tự giác giao nộp 01 gói nhỏ, vỏ là túi nilon màu trắng, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể (Niêm phong kí hiệu M1). Ngoài ra, còn thu giữ của Du 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, lắp sim số 0865.493.361, đã qua sử dụng; thu giữ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, lắp sim số 0344.676.625; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng hồng, lắp sim số 0949.664.899, đều đã qua sử dụng và 01 xe mô tô nhãn hiệu SH MODE màu đỏ, đeo biển số 18L1- 385.02, đã qua sử dụng. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Thị L: Không thu giữ đồ vật tài liệu (Bút lục: 5-6, 8-9, 49-65, 66-71).

Tại bản kết luận giám định số 08/GĐKTHS ngày 04/01/2021 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,041 gam; Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu M1: 0,025 gam (Bút lục: 13).

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và khai nhận: Sáng ngày 01 tháng 01 năm 2021, Bùi Thị L đi xe buýt lên khu vực cổng làng Vĩnh Dương, phường Mỹ Xá, thành phố Nam Định mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ 01 gói heroine với giá 400.000 đồng và 01 gói ma túy đá với giá 300.000 đồng, mục đích để bán kiếm lời. Sau đó, L cất giấu trong người và đi xe buýt về nhà. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, khi L đang bán ma tuý cho Du thì bị bắt quả tang (Bút lục: 49-65).

Bản cáo trạng số 15/CT-VKS ngày 04/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo như tội danh và điều luật đã nêu. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Bùi Thị L từ 02 năm 03 tháng tù đến 02 năm 09 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ phong bì niêm phong số 08/GĐKTHS của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định; tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 500.000 đồng; tịch thu hoá giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, lắp sim số 0865.493.361 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng hồng, lắp sim số 0949.664.899; trả lại bị cáo Bùi Thị L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, lắp sim số 0344.676.625; đề nghị áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc để tuyên án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Tại phiên toà hôm nay qua xét hỏi và tranh luận bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người làm chứng không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu đã được xác lập có trong hồ sơ vụ án cũng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo ra trước phiên toà hôm nay. Như vậy đã đủ cơ sở xác định: Khoảng 14 giờ, ngày 01 tháng 01 năm 2021, tại đường dong thuộc khu vực đội 3, xã Nghĩa Hùng, huyện N, tổ công tác Công an huyện N, bắt quả tang Bùi Thị L có hành vi bán trái phép 0,041 gam Heroine cho Nguyễn Văn Du với giá 500.000 đồng. Ngoài ra, Bùi Thị L còn tàng trữ 0,025 gam Methamphetamine với mục đích bán kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị bắt. Đối chiếu với Bộ luật hình sự thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu vực, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn hoá của dân tộc. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng cố ý thực hiện. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, lên án xử lý nghiêm là cần thiết nhằm góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong vụ án này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Trong giai đoạn điều tra, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị cáo đã tích cực hợp tác với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N trong việc phát hiện tội phạm và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N có Công văn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tập chung cải tạo đối với bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH MODE màu đỏ, qua điều tra xác định là xe của anh Lâm Văn Mười, sinh năm 1983, ở tổ dân phố 1, thị trấn Qũy Nhất, huyện N cho L mượn. Anh Mười không biết việc L mượn xe để đi bán ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại xe cho anh Mười là chủ sở hữu là phù hợp. Biển số xe 18L1- 385.02 (do L nhặt được và gắm vào xe mô tô), Công an huyện N đã ra quyết tịch thu.

Đối với phong bì niêm phong số 08/GĐKTHS của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định, cần tịch thu tiêu huỷ; Số tiền 500.000 đồng (số sê ri QU16906822), cần tịch thu sung quỹ nhà nước. Đối với 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, lắp sim số 0865.493.361 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng hồng, lắp sim số 0949.664.899, liên quan đến việc phạm tội, cần tịch thu hoá giá sung quỹ nhà nước. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, lắp sim số 0344.676.625, cần trả lại cho bị cáo.

[6] Đối với Nguyễn Văn Du là người nghiện ma túy có hành vi mua ma tuý của Bùi Thị L về để sử dụng, Nguyễn Văn Du chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị kết án về các tội phạm về ma túy và số lượng ma túy nhỏ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Công an huyện N đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Nguyễn Văn Du là phù hợp.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Bùi Thị L ngày 01/01/2021, hiện chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[7] Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Thị L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”;

2. Xử phạt bị cáo Bùi Thị L 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/01/2021.

3. Xử lý vật chưng:

+ Tịch thu tiêu huỷ phong bì niêm phong số 08/GĐKTHS của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 500.000 đồng (số sê ri QU16906822).

+ Tịch thu hoá giá sung quỹ nhà nước với 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, lắp sim số 0865.493.361 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng hồng, lắp sim số 0949.664.899.

+ Trả lại bị cáo Bùi Thị L điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, lắp sim số 0344.676.625.

Vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N lập ngày 18/02/2021.

4. Án phí: Buộc bị cáo Bùi Thị L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 13/2021/HS-ST

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;