TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 40/2024/HS-ST NGÀY 13/05/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 5 năm 2024, Tại điểm cầu trung tâm là Tòa án nhân dân tỉnh B và điểm cầu thành phần là Trại tạm giam Công an tỉnh B. Toà án nhân dân huyện G, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 29/2024/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2024/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Bùi Đình V; Tên gọi khác: Không có. Giới tính: Nam; Sinh năm 1983.
Nơi cư trú: Thôn Hạ, xã Nghĩa H, huyện G, tỉnh B.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do;
Văn hóa: 9/12.
Họ và tên bố: Bùi Đình H, sinh năm 1954. Họ và tên mẹ: Đồng Thị N, sinh năm 1956. Gia đình có 04 anh,chị em bị cáo là thứ tư.
Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1985. (đã ly hôn) Bị cáo có 02 người con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2010.
Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:
- Bản án số 06/HSST ngày 05/6/2001, Tòa án quân sự Quân khu I xử phạt 12 tháng tù về tội “Cướp tài sản” chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/12/2001, chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 17/7/2001.
- Bản án số 162/2015/HS-PT ngày 28/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Môi giới mại dâm ” chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/8/2020, chấp hành xong án phí, phạt bổ sung ngày 11/4/2017.
Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (có mặt)
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Anh Ngô V T, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn Tuấn Mỹ, xã Tân Thanh, huyện G, tỉnh B (vắng mặt) .
* Người làm chứng:
- Anh Lưu V D, sinh năm 1991;
Địa chỉ: Thôn Tân Mỹ, xã Tân Thanh, huyện G, tỉnh B.
- Anh Hoàng V S, sinh năm 1973;
Địa chỉ: Thôn Dâu, xã H, huyện G, tỉnh B. (Đều vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 25/12/2023, Bùi Đình V, sinh năm 1983, trú tại thôn Hạ, xã Nghĩa H, huyện G, tỉnh B đang đi chơi ở khu vực phố Bằng, xã Nghĩa H, huyện G thì Ngô V T, sinh năm 1991 trú tại thôn Tuấn Mỹ, xã Tân Thanh, huyện G gọi điện thoại cho V hỏi mua 500.000 đồng ma túy “đá” để sử dụng, V đồng ý hẹn giao nhận ma túy ở khu vực gần cây xăng H, thuộc thôn Dâu, xã H, huyện G, tỉnh B. Sau đó, V một mình đi xe mô tô biển kiểm soát 98M1-xxxxx đến khu vực ngã tư thị trấn Kép, huyện G, tỉnh B để tìm mua ma tuý. Tại đây, V gặp và hỏi mua 1.500.000 đồng ma túy “đá” và ma tuý “ngựa” của một người đàn ông không quen biết để bán cho T và các đối tượng nghiện khác thì người này đồng ý và bảo V chờ ở gần cổng Công ty thuốc lá Thăng Long, thuộc thôn Bằng, xã Nghĩa Hoà, huyện G, tỉnh B. Sau đó, V đến trước cổng Công ty thuốc lá Thăng Long đứng đợi một lúc thì người đàn ông này đem 01 gói ma túy đến bán cho V như đã thỏa thuận, V lấy gói ma túy vừa mua được ra kiểm tra và cất một túi nilon nhỏ chứa ma tuý “đá” vào túi quần bên phải, số ma tuý còn lại (một gói giấy bằng vải sợi, bên trong chứa một túi nilon màu trắng, bên trong đựng nhiều túi nilon nhỏ chứa ma tuý) V cầm ở tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi đến điểm hẹn để bán ma túy cho T.
Khoảng 13 giờ 15 phút cùng ngày, V đem ma túy đến và dừng xe ở rìa đường gần cây xăng H thì T đi đến vị trí V đỗ xe, V lấy túi nilon đựng ma tuý ở túi quần ra đưa cho T, T cầm túi ma tuý đút vào túi quần bên trái đang mặc rồi đưa cho V một tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng thì bị Tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện G phối hợp với Công an xã H phát hiện, khống chế bắt giữ V và T cùng vật chứng. Quá trình bắt giữ, V vứt gói ma túy cầm trên tay trái và tờ tiền 500.000 đồng vào bụi cây dại ven đường cách chỗ V đứng khoảng 02 m. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phong gói ma túy trên và đưa V, T về trụ sở Công an xã H lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.
Vật chứng thu giữ gồm:
Thu giữ tại túi quần phía trước bên trái T đang mặc: 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khoá nhựa và viền màu đỏ, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma tuý tổng hợp được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT1” và 01 tờ giấy có ghi chữ và số “NR20212643” được niêm phong trong phong bì ký hiệu “Tờ giấy thu giữ của Ngô V T”.
Thu giữ tại túi quần phía trước bên phải V đang mặc: 01 chiếc ví giả da màu nâu, bên trong ví có 01 căn cước công dân số “02408301xxxx” mang tên Bùi Đình V, 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy BKS 98M1- xxxxx mang tên Dương Thị A, sinh năm 1974, địa chỉ: Nùa Quán, Đào Mỹ, G, B.
Thu giữ tại túi quần phía trước bên trái của V đang mặc: 01 chiếc điện thoại di động OPPO, vỏ máy màu xanh, có ốp lưng bằng nhựa, số IMEI1: 866522060587413, số IMEI2: 866522060587405, máy cũ đã qua sử dụng và 01 chiếc điện thoại di động NOKIA, vỏ máy màu đen, máy cũ đã qua sử dụng, số seri 359044047428888.
Thu giữ tại bụi cây dại cách vị trí xe mô tô của V khoảng 02 m: 01 gói vải màu trắng, bên trong gói vải có 01 túi nilon màu trắng, bên trong túi có 10 túi nilon màu trắng một đầu của mỗi túi đều có rãnh khoá nhựa và viền màu đỏ, bên trong mỗi túi đựng chất tinh thể màu trắng - hồng cùng 01 viên nén màu hồng đỏ, tất cả đều nghi là ma tuý tổng hợp được niêm phong trong một phong bì ký hiệu “QT2”.
Thu giữ tại bụi cây dại cách vị trí xe mô tô của V khoảng 50cm: 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng số sêri “NR20212643” được niêm phong ký hiệu “Tiền thu giữ khi bắt quả tang”.
Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của V: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave (đã cũ) biển kiểm soát 98M1- xxxxx và tạm giữ của T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu hồng, số IMEI: 357213093378964.
Cùng ngày 25/12/2023, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Đình V tại thôn thôn Hạ, xã Nghĩa H, huyện G, tỉnh B nhưng không phát hiện thu giữ gì. Đồng thời, Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra đối với 02 chiếc điện thoại di động tạm giữ của V và 01 chiếc điện thoại tạm giữ của T. Kết quả kiểm tra chiếc điện thoại di động OPPO của V không phát hiện có nội dung liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy; trong nhật ký chiếc điện thoại NOKIA tạm giữ của V và 01 nhật ký chiếc điện thoại Iphone XS của T có phát sinh cuộc gọi đi, gọi đến để liên hệ mua, bán ma túy.
Tại bản Kết luận giám định số 01/KL-KTHS ngày 01/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận:
“ 5.1. Trong 01 (một) phong bì ký hiệu “QT1” được niêm phong gửi giám định:
Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khoá bằng nhựa, viền màu đỏ là chất ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,049 gam.
5.2. Trong 01 (một) phong bì ký hiệu “QT2” được niêm phong gửi giám định:
Chất tinh thể màu trắng, hồng và 10 viên nén màu hồng đỏ đựng trong 10 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khoá nhựa, viền màu đỏ, được đựng trong một túi nilon màu trắng (tất cả được gói trong một gói vải màu trắng) đều là chất ma tuý, có tổng khối lượng là 2,363 gam loại Methamphetamine”.
Tại kết luận giám định ADN số: HT 787.23/PY-XNSH ngày 29/12/2023 của Viện pháp y Quân Đội - Cục quân Y, kết luận:
“1. Không phát hiện thấy ADN nhiễm sắc thể thường của người từ dấu vết trên một mảnh vải màu trắng gửi giám định.
2. Dấu vết trên 10 túi nilon màu trắng một đầu của mỗi túi đều có rãnh khoá nhựa và viền màu đỏ gửi giám định có sinh phẩm người; có ADN nhiễm sắc thể thường với nồng độ rất thấp và tạp nhiễm, không đủ điều kiện so sánh.
3. Dấu vết trên 01 túi nilon màu trắng gửi giám định có sinh phẩm của người; có ADN nhiễm sắc thể thường trùng khớp với ADN nhiễm sắc thể thường từ mẫu tóc của Bùi Đình V”.
Tại cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên Tại bản cáo trạng số 30 /CT-VKS ngày 28/3/2024 Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo Bùi Đình V về tội "Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, bị cáo không bị oan. Bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình là sai, bị cáo rất hối hận. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa được Hội đồng xét xử công bố lời khai, bị cáo không có ý kiến gì về những lời khai đó.
Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Đai diên Viên kiêm sat giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về hình phạt: Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Đình V từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 25/12/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Ap dụng khoan 1 Điều 47 Bô luât hinh sư; khoan 2, khoan 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
+ Tiêu hủy: 01 phong bì dán kín niêm phong ký hiệu “QT1” bên trong có 0,033 gam ma túy loại Methamphetamine và 01 phong bì được niêm phong ký hiệu “QT2” bên trong có 2,172 gam ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định; 01 phong bì dán niêm phong bên trong có“Vỏ, bao gói hoàn lại của QT2”, “HT787.23”.
+ Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động NOKIA màu đen thu giữ của V.
+ Trải lại cho bị cáo V: 01 chiếc ví giả da màu nâu, 01 căn cước công dân số “02408301xxxx” và 01 chiếc điện thoại di động OPPO nhưng tiếp tục tạm giữ điện thoại để đảm bảo thi hành án.
+ Trả lại cho chị Dương Thị A: 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 98M1- xxxxx và 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy BKS 98M1- xxxxx.
Ngoài ra, đại diện VKSND huyện G còn đề nghị: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì, nhận thức hành vi của mình đã thực hiện là sai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi và quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về sự vắng mặt của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng: Hội đồng xét xử thấy, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng những người này vắng mặt, trong quá trình điều tra những người này đã được Cơ quan điều tra lấy lời khai, sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử, HĐXX căn cứ điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vụ án.
[3] Về hành vi phạm tội, tội danh và khung hình phạt áp dụng: Trước cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã truy tố; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với các tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ kết luận:
Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 25/12/2023, tại khu vực gần cây xăng H, thuộc thôn Dâu, xã H, huyện G, tỉnh B, Bùi Đình V đang bán trái phép 01 gói ma túy có khối lượng 0,049 gam, loại Methamphetamine với giá 500.000 đồng cho Ngô V T để sử dụng và tàng trữ 01 gói ma túy có khối lượng 2,363 gam loại Methamphetamine nhằm mục đích để bán cho người khác thì bị tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra về ma tuý Công an huyện G phối hợp với Công an xã H, huyện G bắt quả tang thu giữ toàn bộ tang vật. Tổng số ma túy Bùi Đình V mua bán trái phép được xác định là 2,412 gam, loại Methamphetamine.
Như vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện G truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an của địa phương và sức khỏe của con người, là nguyên nhân làm phát sinh một số tội phạm nguy hiểm khác.
[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu + Bản án số 06/HSST ngày 05/6/2001, Tòa án quân sự Quân khu I xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội “Cướp tài sản” chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/12/2001, chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 17/7/2001.
+ Bản án số 162/2015/HS-PT ngày 28/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt bị cáo 07 năm 06 tháng tù về tội “Môi giới mại dâm” chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/8/2020, chấp hành xong án phí, phạt bổ sung ngày 11/4/2017.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
-Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Ngoài ra, bị cáo có bố là ông Bùi Đình H được chủ tịch nước tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhì (nộp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) Do vậy, HDDXX thấy cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[5] Bị cáo là đối không có việc làm và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.
[6] Hiện nay, bị cáo đang bị tạm giam, để đảm bảo cho việc thi hành án, HĐXX thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày là phù hợp với quy điṇ h tai Điều 329 BLTTHS.
[7] Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: HĐXX nhận thấy:
01 phong bì dán kín niêm phong ký hiệu “QT1” bên trong có 0,033 gam ma túy loại Methamphetamine và 01 phong bì được niêm phong ký hiệu “QT2” bên trong có 2,172 gam ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định; 01 phong bì dán niêm phong bên trong có“Vỏ, bao gói hoàn lại của QT2”, “HT787.23” được hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy - 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng số sêri NR20212643 đây là số tiền bị cáo do bán ma túy có được; 01 chiếc điện thoại di động NOKIA vỏ máy màu đen, máy cũ đã qua sử dụng, số seri 359044047428888 là công cụ phương tiện bị cáo dụng để phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước - 01 chiếc ví giả da màu nâu, 01 căn cước công dân số 02408301xxxx mang tên Bùi Đình V và 01 chiếc điện thoại di động OPPO, màu xanh vỏ máy màu xanh, có ốp lưng bằng nhựa, số IMEI1: 866522060587413, số IMEI2: 866522060587405 là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo - 01 Xe mô tô hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 98M1- xxxxx và 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy BKS 98M1- xxxxx mang tên Dương Thị A. Quá trình điều tra xác định xe mô tô và giấy đăng ký xe là tài sản của chị Dương Thị A (sinh năm 1974, Trú tại: thôn Nùa Quán, xã Đào Mỹ, huyện G, tỉnh B). Chị A cho bị cáo mượn để làm phương tiện đi lại, sau đó V sử dụng xe để đi mua bán ma túy chị A không biết nên cần trả lại cho chị A [8]. Đối với người đàn ông bán ma túy cho V ở khu vực gần cổng Công ty thuốc lá Thăng Long thuộc thôn Bằng, xã Nghĩa Hoà, huyện G. V khai không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ đối tượng này.
Đối với Ngô V T có hành vi mua ma tuý của V nhằm mục đích để sử dụng nhưng T chưa có tiền án, tiền sự về hành vi này và khối lượng ma túy thu giữ của T chưa đủ định lượng để xử lý về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên ngày 25/12/2023, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trả tự do cho T. Ngày 21/02/2024, Công an huyện G đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T số tiền 3.500.000 đồng về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
[9] Ngoài ra cần áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/NQ-UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự để buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Bùi Đình V 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 25/12/2023.
Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về việc xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) phong bì ký hiệu “QT1” “QT2” (bên trong có chứa 2,412 gam, loại Methamphetamine được hoàn lại sau giám định) - Tịch thu sung vào công quỹ nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng số sêri NR20212643 đây là số tiền bị cáo do bán ma túy có được; 01 chiếc điện thoại di động NOKIA vỏ máy màu đen, máy cũ đã qua sử dụng, số seri 359044047428888
- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc ví giả da màu nâu, 01 căn cước công dân số 02408301xxxx mang tên Bùi Đình V và 01 chiếc điện thoại di động OPPO, màu xanh vỏ máy màu xanh, có ốp lưng bằng nhựa, số IMEI1: 866522060587413, số IMEI2: 866522060587405 nhưng giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.
- Trả lại cho chị Dương Thị A sinh năm 1974, Trú tại: thôn Nùa Quán, xã Đào Mỹ, huyện G, tỉnh B 01 Xe mô tô hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 98M1- xxxxx và 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy BKS 98M1- xxxxx mang tên Dương Thị A.
(Đặc điểm vật chứng của vụ án theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện G).
3. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/NQ- UBNTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án - Buộc bị cáo Bùi Đình V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo Bùi Đình V có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm.
Bản án 40/2024/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 40/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/05/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về