TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 108/2021/HS-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06/4/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 131/2021/HSST ngày 25 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1166/2021/QĐXXST- HS, ngày 22/3/2021, đối với bị cáo:
Nguyễn Thị Bích N; Sinh ngày 19 tháng 5 năm 1994 tại Thành phố Hà Nội; Hộ khẩu thường trú tại ấp V, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp lao động tự do; Trình độ học vấn lớp 10/12; Dân tộc Kinh; Giới tính nữ; Tôn giáo không; Quốc tịch Việt Nam; Con ông Nguyễn Khắc H và bà Trần Thị H1; Có chồng và 01 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự không; Tạm giam từ ngày 02/10/2020; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Võ Văn T, sinh năm 1987.
HKTT tại số S đường A, Phường M, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh Chỗ ở: số H đường B, Phường N, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.
2/ Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 2000.
HKTT tại ấp B, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu, vắng mặt.
Người bào chữa: Bà Trần Thị Huy C, là Luật sư của Công ty L và cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Bích N, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ ngày 02/10/2020, tại trước nhà số G đường Q, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy của Công an quận G phối hợp với Công an Phường N, quận G tuần tra thì phát hiện Võ Văn T đang điều khiển xe gắn máy biển số 93P1-X chở Nguyễn Thị Bích N có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Kết quả kiểm tra trong ba lô màu đen mà N đang đeo trên người có gói nylon, chứa tinh thể không màu, N khai là ma túy nên Đội Công an tuần tra tiến hành thu giữ. Cùng ngày, Cơ quan Công an đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị Bích N tại số A ấp V, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không phát hiện, thu giữ đồ vật gì có liên quan đến ma túy.
Theo Kết luận giám định số 1711/KLGĐ-H ngày 09/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì tinh thể không màu trong gói nylon mà Công an quận G thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị Bích N là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 99,7422g, loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Bích N khai nhận N là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng tháng 8/2020, N bắt đầu mua bán trái phép chất ma túy, nguồn ma túy N mua của người có tên T2 không rõ lai lịch để bán lại cho P không rõ lai lịch được 03 lần, cụ thể:
+ Lần thứ nhất: Khoảng cuối tháng 8/2020, N mua của T2 15.000.000 đồng ma túy, bán lại toàn bộ cho P với giá 16.000.000 đồng.
+ Lần thứ hai: Khoảng giữa tháng 9/2020, N mua của T2 15.000.000 đồng ma túy để bán cho P, nhưng P nói không đạt chất lượng nên trả lại cho N, N đã trả lại cho T2.
+ Lần thứ ba: Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 02/10/2020, P gọi đến N hỏi mua 100g ma túy với giá 32.000.000 đồng. N gọi đến T2 đặt mua 100g ma túy với giá 28.000.000 đồng, N và T2 thỏa thuận địa điểm giao dịch tại khu vực đường H, quận T và khi nào N bán xong ma túy sẽ trả tiền cho T2. Sau khi nhận ma túy, N cất vào ba lô đang mang trên người và gọi điện thoại hẹn P đến tại khu vực đường P, quận G để giao nhận. Sau đó, N đi về nhà Võ Văn T, nhờ T chở đến điểm hẹn để bán ma túy cho P, nhưng trên đường đi thì bị phát hiện bắt giữ.
Bản Cáo trạng số 116/CT-VKS-P1, ngày 22/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Bích N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Bích N khai nhận toàn bộ khối lượng chất ma túy mà Cơ quan Công an thu giữ trong vụ án này là của bị cáo mua của đối tượng tên T2 để bán lại kiếm lời. Bị cáo bỏ số ma túy trên trong túi xách đeo trên người và nhờ Võ Văn T dùng xe gắn máy biển số 95H1-354.07 chở bị cáo đi bán số ma túy trên, nhưng chưa bán được thì bị Công an quận G phát hiện, bắt giữ vào lúc 17 giờ ngày 02/10/2020, tại trước nhà số G đường Q, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài bị cáo ra thì không có ai tham gia mua bán ma túy chung với bị cáo; Võ Văn T là người mà bị cáo nhờ chở đi, T không biết bị cáo đi bán ma túy, còn đối tượng có tên T2 và tên P thì bị cáo không biết địa chỉ và họ tên đầy đủ.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện những hành vi như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát mô tả. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Thị Bích N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, hiện tại bị cáo có con dưới 36 tháng tuổi là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo từ 16 năm tù đến 17 năm tù, phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước.
Về vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử theo qui định của pháp luật.
Luật sư bào chữa cho Nguyễn Thị Bích N thống nhất về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì ngoài tình tiết giảm nhẹ mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng thì Luật sư nêu bị cáo bị hạn chế nhận thức do học thức thấp, gia đình bị cáo khó khăn, đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi là những tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Luật sư đề nghị Tòa xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức án mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị và không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát đối đáp: Số lượng ma túy mà bị cáo mua bán là 99,7422g, loại Methamphetaime là gần mức khung hình phạt qui định tại khoản 4 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo có con dưới 36 tháng tuổi nhưng bị cáo không nuôi mà gởi con cho mẹ bị cáo nuôi từ lâu nên bị cáo không phải là người trực tiếp nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Bị cáo đã thu lợi bất chính từ hành vi mua bán trái phép chất ma túy như bị cáo đã khai, bị cáo còn bỏ tiền ra mua xe cho người tình sử dụng, như vậy bị cáo có tài sản chứ không phải không có tài sản. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa áp dụng mức án và mức hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Bị cáo thống nhất với lời bào chữa của Luật sư, không trình bày lời bào chữa bổ sung và không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp vật chứng và những chứng cứ khác được Cơ quan điều tra thu thập, có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ căn cứ để xác định: 99,7422g, loại Methamphetamine mà cơ quan điều tra thu giữ trong ba lô màu đen của bị cáo khi bắt quả tang, tại trước tại trước nhà số G đường Q, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh là của bị cáo mang đi bán cho người nghiện.
[3] Xét tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người có khả năng nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được hậu quả của hành vi đó là xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất gây nghiện và những hậu quả nghiêm trọng, khó lường khác do người sử dụng trái phép chất ma túy gây ra. Nhận thức được vậy, nhưng vì động cơ tư lợi bất chính nên bị cáo vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được qui định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4] Khối lượng chất ma túy mà bị cáo mua bán là 99,7422g, loại Methamphetamine, nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung tăng nặng hình phạt qui định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có con dưới 36 tháng tuổi là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[6] Xét tính chất của vụ án mà bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, nó không những xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất gây nghiện, là một trong những khách thể quan trọng được Bộ luật hình sự bảo vệ, mà còn có khả năng xâm phạm đến nhiều khách thể quan trọng khác khác như là trật tự xã hội, tài sản, tính mạng và sức khỏe con người. Với tính chất của vụ án như vậy, đáng lẽ phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để giáo dục riêng và phòng ngừa chung, song xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nhận định tại phần [5], nên được Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ cho bị cáo một phần về hình phạt, mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
[7] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 qui định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề ...”, nhưng xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, nên áp dụng hình phạt tiền và mức phạt như Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.
Nhận định trên cũng là lập luận để chấp nhận toàn bộ ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát và một phần luận cứ bào chữa của Luật sư.
[8] Về vật chứng của vụ án:
- Gói niêm phong là ma túy, là vật cấm tàng trữ, lưu hành; một ba lô màu đen không còn giá trị nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu tiêu hủy.
- Điện thoại di động hiệu HUAWEI, bên trong có 02 sim hiện còn giá trị là tài sản của bị cáo N. Bị cáo dùng chiếc điện thoại này để thực hiện hành vi phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
- Chiếc xe máy hiệu Raider gắn biển số 93P1-X: Qua giám định thì chiếc xe máy hiệu Raider, có số khung, số máy không thay đổi. Kết quả xác minh chiếc xe trên có biển số thật là 63B5-218.45 do ông Ngô Bình T3 đứng tên sở hữu. Vào tháng 11/2019 ông T3 bán lại chiếc xe cho ông Nguyễn Văn T1 và ông T1 bị mất trộm chiếc xe này vào ngày 05/8/2020. Còn biển số 93P1-X thì qua xác minh là biển số của chiếc xe máy hiệu BONNY, do ông Đào Quốc H2, sinh năm 1971, HKTT tại khu phố A, ấp F, xã M, thị trấn C, huyện C, tỉnh B đứng tên sở hữu. Ông H2 khai khoảng tháng 11/2014 ông bán xe cho một người không rõ lai lịch và không làm thủ tục sang tên. Bị cáo N khai đã mua chiếc xe hiệu Raider, gắn biển số 93P1-X của một người đàn ông không rõ lai lịch ở huyện H, nhưng không làm thủ tục sang tên. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu chiếc xe nhưng không có người đến liên hệ giải quyết ngoài ông T1. Do đó căn cứ điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên trả chiếc xe hiệu Raider trên cho ông Nguyễn Văn T1 và căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu tiêu hủy biển kiểm soát số xe số 93P1-X.
- 01 điện thoại di động hiệu VIVO thu giữ của Võ Văn T không liên quan đến vụ án nên căn cứ điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên trả lại cho anh T.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt: Nguyễn Thị Bích N 17 (Mười bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 02/10/2020.
Căn cứ vào khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Phạt bổ sung Nguyễn Thị Bích N 10.000.000 (Mười triệu) đồng, để sung vào ngân sách Nhà nước.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước các vật chứng sau:
- 01 điện thoại di động hiệu Huawei, bên trong có 02 sim (không kiểm tra được imei do không có nguồn điện). Mã số: DT1/176BB/2021.
Tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
- 01 gói niêm phong số 1711/2020 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh C1 thuộc Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Cán bộ điều tra Trần Trọng N1, bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định. Mã số: NP/176BB/2021.
- 01 ba lô màu đen. Mã số: BLO/176BB/2021.
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tuyên tịch thu tiêu hủy biển kiểm soát xe số 93P1-X.
Căn cứ vào điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
- Tuyên trả cho anh Võ Văn T 01 điện thoại di động hiệu Vivo bên trong có 02 sim (không kiểm tra được imei do không có nguồn điện). Mã số: DT2/176BB/2021.
- Tuyên trả chiếc xe gắn máy nhãn hiệu: Yamaha; Số loại: Raider; Dung tích xi lanh 147; SK: RLSBG41J0F0107108; SM: G427-105024 (không gương, bửng, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra). Mã số: XMAY/176BB/2021 cho ông Nguyễn Văn T1.
(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2021/176, ngày 23/02/2021 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).
Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Thị Bích N phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 16/4/2021).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 108/2021/HS-ST
Số hiệu: | 108/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về