Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thao túng thị trường chứng khoán (vụ án cựu chủ tịch FLC Trịnh Văn Quyết và đồng phạm) số 598/2025/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 598/2025/HS-PT NGÀY 26/06/2025 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ THAO TÚNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (VỤ ÁN CỰU CHỦ TỊCH FLC TRỊNH VĂN QUYẾT VÀ ĐỒNG PHẠM)

Trong các ngày từ 17 đến ngày 26 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1042/2024/TLPT-HS ngày 17 tháng 9 năm 2024 đối với bị cáo Trịnh Văn Q1, và các bị cáo khác bị xét xử về các tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", "Thao túng thị trường chứng khoán", "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" và “Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán", do có kháng cáo của các bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 426/2024/HS-ST ngày 05 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

1. Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

1. Trịnh Văn Q1, sinh ngày 27/11/1975; giới tính: Nam, nơi thường trú và nơi ở: 330 - 832, 18 BT6, phố Hoài Th, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12, nghề nghiệp. Nguyễn Chủ tịch HĐQT Công ty CP T, Chủ tịch Công ty CP Hàng không TV, con ông Trịnh Hồng Q3 và bà Đỗ Thị G4, bị cáo có vợ và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2016; chưa có tiền án, tiền sự;

Nhân thân: Ngày 10/11/2017, Uỷ ban chứng khoản Nhà nước (UBCKNN) ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính số 1039/QĐ-XPHC đối với Trịnh Văn Q1 về hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động chứng khoán, phạt tiền 65 triệu đồng, về hành vi bán 57 triệu cổ phiếu F nhung "không báo cáo về dự kiến giao dịch đối với người nội bộ" theo quy định.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/3/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (văng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Trịnh Thị Minh H2, sinh ngày 15/3/1981; giới tính: Nữ; nơi thường trì và nơi ở. Ở số 4, dây A, lô BT6, khu đô thị MĐ, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kính; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Kế toán tổng hợp Công ty CP T; con ông Trịnh Hồng Q5 và bà Đỗ Thị G4; bị cáo có chồng là Vũ Anh T6 và có 01 con sinh năm 2009, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/4/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

3. Trịnh Thị Thúy N7, sinh ngày 29/4/1979; giới tỉnh: Nữ, nơi thường trú và nơi ở: 420, 16 BT6, Khu đô thị MĐ, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Kế toán tổng hợp Công ty CP T, thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần Chứng khoán B; con ông Trịnh Hồng Q5 và bả Đỗ Thị G4; bị cáo có chồng là Nguyễn Văn M8 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2014; chưa có tiến ân, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/4/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tan giam T16 Bộ Công an (có mặt).

4. Hương Trần Kiều D9, sinh ngày 19/8/1978; giới tính: Nữ; nơi thưởng trú: Số 15, ngõ 158 đường HVT, phường K, quận TX, thành phố Hà Nội, nơi ở: 12601, 2602, Chung cư F Twin Tower số 265 C, phường B, quận C, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12, nghề nghiệp: Phó Chủ tịch Thường trực Công ty CP T, Chủ tịch HĐQT Công ty B, con ông Hương Tuấn V10 (đã chết) và bà Trần Thị T11; bị cáo có chồng là Nguyễn Văn M8 và có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2011, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/4/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

5. Nguyễn Quỳnh A12, sinh ngày 04/09/1980; giới tính: Nữ, nơi thưởng trì và nơi ở: Phòng 0706 Nhà A2 KĐT 54, ngõ 85 Hạ Đình, phường TX Trung, quận TX, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Tổng Giám đốc Công ty cổ phần chứng khoán B; con ông Nguyễn Trung T13 và bà Nguyễn Thị Xuân H14, bị cáo có chồng Quốc tịch Pháp và có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2012; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/4/2022 đến ngày 4/9/2022 được thay thể biện pháp ngăn chặn Cẩm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

6. Nguyễn Thị N15, sinh ngày 25/12/1987; giới tỉnh: Nữ, nơi thường trú: Căn hộ 1708, Tòa nhà SA đường L, phường M, quận C, thành phố Hà Nội; nơi ở: Phòng 2201A, tòa nhà FLmark Tower, ngõ 5 đường L, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kình; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Nhân viên Ban Kế toán Công ty CP T; con ông Nguyễn Văn H16 và bà Nguyễn Thị L17, bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015, chưa có tiền án, tiền sự, Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cẩm đi khỏi nơi cư trú (có mặt)

7. Hoàng Thị H18, sinh ngày 20/5/1992; giới tính: Nữ, nơi thường trú và nơi ở: Phòng 30004A, tỏa FLmark Tower, Tổ dân phố số 10, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kính; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Chuyên viên Công ty CP Thương mại và Dịch vụ số F; con ông Hoàng Văn H19 và bà Trịnh Thị Bích L20; bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2020; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

8. Đỗ Thị Huyền T21, sinh ngày 22/3/1991; giới tỉnh: Nữ; nơi thường trú: Số 30, ngõ 185 phố Minh Khai, phường Minh Khai, quận H, thành phố Hà Nội, nơi ở: Phòng 2505B tòa nhà FLmark Tower ngõ 5 đường L, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Phó Trưởng phòng Kế toán Công ty CP T; con ông Đỗ Gia B22 và bà Hà Thị B23; bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2021; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cẩm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

9. Nguyễn Thanh B24, sinh ngày 23/5/1975; giới tỉnh: Nam; nơi thường trú: Phòng 1008, nhà CT5 - ĐN4 khu đô thị MĐ, tổ 13, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội; nơi ở. Nhà số BT7-03, khu chức năng đô thị Xuân Phương (khu Viglacera), phường TM, quận N, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kỉnh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Nguyễn Thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng giám đốc T; con ông Nguyễn Văn M25 và bà Nguyễn Thị B26; bị cáo có vợ và 04 con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2018; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt),

10. Lê Thành V27, sinh ngày 12/5/1979, giới tính: Nam, nơi thường trú và nơi ở: K509 dự án khu nhà ở thấp tầng lô đất (giai đoạn 3) khu đô thị Nam Thăng Long, phường P, quận T, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Luật sư, nguyên Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần F, con ông Lê Văn G28 và bà Nguyễn Thị H29; bị cáo có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2019; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

11. Nguyễn Tiến D30, sinh ngày 28/9/1975; giới tỉnh: Nam; nơi thường trú và nơi ở: Số nhà 15 tập thể Bình đoàn 12, tổ 17, phường Y, quận HĐ, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kỉnh; tôn giáo: Không, trình độ văn hỏa: Lớp 12/12; là Đảng viên đã bị định chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Nguyễn Tông Giám đốc, đại diện pháp luật Công ty CP Xây dựng và Đầu tư V (sau đổi tên thành Công ty CP Xây dựng F); con ông Nguyễn Văn C31 và bà Lê Thị M32; bị cáo có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2006; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam tử ngày 30/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

12. Lê Tân S33, sinh ngày 28/02/1983; giới tính: Nam; nơi thường trú và nơi ở: Số 3, ngõ 477 Kim Ngưu, phường V, quận H, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam, Canada, dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: nguyên Phó Chánh văn phòng, Thư ký HĐQT T, con ông Lê Văn V34 và bà Lê Thị Kim C35, bị cáo có vợ (đã ly hôn) và 02 con, đều sinh năm 2015; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

13. Đặng Thị H36, sinh ngày 27/10/1991; giới tính: Nữ; nơi thường trú: Số 183, tổ 8, phường L, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội; nơi ở: Số 11, ngách 141, ngõ 1194 đường Láng, phường L, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Nguyên Phó trưởng Ban Pháp chế, Công ty CP T; con ông Đặng Đình K37 và bà Bùi Thị H38; bị cáo có chồng và 01 con sinh năm 2016; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024; được trả tự do ngày 05/8/2024 (văng mặt, có đơn đề nghị xét xử văng mật).

14. Lê Văn S39, sinh ngày 20/8/1949; giới tính: Nam; nơi thường trú và nơi ở: Số 55/168 HN, phường C, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 9/10; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt; nghề nghiệp: Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đầu tư Địa Ốc A, kiêm Giám đốc Công ty TNHH MTV FL; con ông Lê Văn B40 (đã chết) và bà Trịnh Thị T41 (đã chết); bị cáo có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1974, con nhỏ nhất sinh năm 1980, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024; được trả tự do ngày 05/8/2024 (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

15. Trương Văn T42, sinh ngày 14/3/1969; giới tính: Nam, nơi thường trú và - nơi ở: Số 29, ngõ 101, phố NT, phường K, quận BĐ, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/10, nghề nghiệp: Nhân viên Văn phòng Công ty CP T (Đội trưởng Đội xe); con ông Trương Văn B43 (đã chết) và bà Nguyễn Thị T44 (đã chết); bị cáo cô vợ và 02 con, con lớn sinh năm 1984, con nhỏ sinh năm 2001; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024; được trả tự do ngày 05/8/2024 (có mặt).

16. Nguyễn Bình P45, sinh ngày 31/8/1973; giới tính: Nữ, nơi thường trú: Số 9B Lê Quý Đôn, phường B, quận H, thành phố Hà Nội; nơi ở: Phòng 606, chung cư Bộ Khoa học và Công nghệ, đường Nguyễn Văn H, phường Q, quận C, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kỉnh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/10, nghề nghiệp: Nguyên Chủ tịch HĐQT Công ty CP Xây dựng F, con ông Nguyễn Hoàng M46 và bà Trần Thị V47, bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2011; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

17. Nguyễn Minh Đ48, sinh ngày 27/5/1991, giới tính: Nữ, nơi thường trú: Căn hộ 101, nhà A17, tập thể KG, phường KG, quận TX, thành phố Hà Nội, nơi ở: Phòng 1708A Tòa D khu đô thị Marteri Vinsmart City, phường TM, quận N, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kính, tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Nhân viên hành chính nhân sự Công ty CP chứng khoản B; con ông Nguyễn Văn Q50 và bà Phạm Thị L49; bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024; được trả tự do ngày 05/8/2024 (có mặt).

18. Trần Đắc S51, sinh ngày 01/10/1956; giới tính: Nam; nơi thường trú và nơi ở: Số 15 đường số 6, Khu biệt thự Sông Ông Lớn, ấp 5, xã BH, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt; nghề nghiệp: Nguyên Chủ tịch HĐQT Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh; con ông Trần Đắc S52 (đã chết) và bà Nguyễn Thị G53 (đã chết); bị cáo có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1980, con nhỏ nhất sinh năm 1987; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

19. Lê Hải T53, sinh ngày 13/8/1974; giới tính: Nam, nơi thường trú: Căn hộ 4B5-16 Chung cư Sky Garden 2, khu phố 6, phường TP, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở. Căn hộ số Axx.x Chung cư Hoàng Anh River View, số 37 N, phường T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, con ông Lê Hồng C54 (là Liệt sỹ) và bà Lê Hồng C55 (đã chết); bị cáo có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2018; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

20. Lê Thị Tuyết H56, sinh ngày 15/3/1976, giới tính: Nữ, nơi thường trú và nơi ở. Số 260/4/6 Nguyễn Thái B, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chỉ Mình; quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Giám đốc Phòng Giám sát giao dịch, nguyên Giám đốc Phòng Quân lý và Thẩm định niêm yết Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh; con ông Lê Xuân D57 và bà Phan Thị Thu H58, bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2004, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cẩm đi khỏi nơi cư trủ (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

21. Trịnh Thị Út X59, sinh ngày 04/01/1987; giới tính: Nữ, nơi thường trú: Số 15, ngõ 105/9 phố Doãn Kế Thiện, tổ 18, phường M, quận C, thành phố Hà Nội; nơi ở: P2607 Tòa A1 chung cư VinHomes Gardenia, đường H, phường C, quận N, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Nhân viên Công ty CP Thương mại và Dịch vụ số F; con ông Trịnh Đăng N60 (đã chết) và bà Bùi Thị L61; bị cáo có chống và 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2020, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cầm đi khỏi nơi cư trú (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt), 22. Phạm Thanh H62, sinh ngày 01/11/1984; giới tính: Nữ, nơi thường trứ: Phòng 1008 - CT5 - ĐN4 khu đô thị MĐ, tổ 13, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội, nơi ở: Phòng 1010 Tòa S1.03, khu đô thị Vinhomes Smart City, phường TM, quận N, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Kế toán hành chính Công ty TNHH Đầu tư S, con ông Phạm Đình Q63 và bà Trần Thị N64; bị cáo có chống và 03 con, con lớn nhất sình năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2022; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

23. Phạm Thị H193 N65, sinh ngày 21/01/1985; giới tính: Nữ, nơi thường trú và nơi ở: Nhà 15/07/TH4B, tiểu khu Ngọc Lan (Nadyne Gardens), Khu đô thị mới Lê Trọng Tấn, Parkcity, phường LK, quận HĐ, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; là Đăng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Nguyên Phó Ban đầu tư, Công ty CP T; con ông Phạm Minh C66 và bà Vũ Thị Hồng T67, bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2014; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

24. Dương Văn T68, sinh ngày 24/02/1967; giới tính: Nam, nơi thường trú và nơi ở: Số 14 Lô A, Tổ 26 Y, phường Y, quận C, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Tổng giám đốc Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam; con ông Dương Văn T69 (đã chết) và bà Phan Thị Đ70; bị cáo có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2005; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cẩm đi khỏi nơi cư trú (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

25. Phạm Trung M71, sinh ngày 01/02/1978; giới tỉnh: Nam; nơi thường trú và nơi ở Phòng 302 D2 Chung cư 15-17 Ngọc Khánh, phường Giảng Võ, quận BĐ, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt; nghề nghiệp: Nguyên Trưởng phòng Đăng ký chứng khoán, con ông Phạm Đình L72 (đã chết) và bà Phạm Thị N73 (đã chết); bị cáo có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2021; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cẩm đi khỏi nơi cư trú (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

II. Bị cáo không có kháng cáo, bị kháng cáo:

1. Nguyễn Thiện P74, sinh ngày 17/10/1974; giới tính: Nam; nơi thường trú: Phòng 304-C9, phường TX Bắc, quận TX, thành phố Hà Nội; nơi ở: Phòng 3104, Tòa nhà F số 265 C, phường B, quận C, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ vẫn hóa: Lớp 12/12; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Kế toán tổng hợp Công ty CP T; Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần xây dựng F; cơn ông Nguyễn Văn P75 và bà Lê Thị L76 (đã chết), bị cáo có vợ và có 02 con, con lôn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2007, chua có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/9/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

2. Trịnh Văn N77, sinh ngày 01/8/1991; giới tính: Nam; nơi thường trú: CH30A04A, Tòa nhà FL Mark Tower, Tổ dân phố 10, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội; nơi ở: Phòng 1901 Tòa F Twins Tower, số 265 C, phường B, quận C, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Nhân viên Công ty CP Hàng không TV; con ông Trịnh Văn Đ78 và bà Nguyễn Thị P79; bị cáo chưa có vợ, con; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

3. Nguyễn Quang T80, sinh ngày 27/02/1970; giới tính: Nam; nơi thường trú và nơi ở: Số 37, ngõ 68, đường Xuân Thủy, tổ 9, phường BH, quận C, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; nghề nghiệp: Lái xe Bệnh viện Đa khoa Hà Thành; con ông Nguyễn Thanh T81 (đã chết) và bà Nguyễn Thị H82 (đã chết); bị cáo có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2003; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cẩm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

4. Trịnh Thị Thanh H83, sinh ngày 24/4/1977; giới tính: Nữ; nơi thưởng trú và nơi ở: Số 35, ngách 148, ngõ 43 đường CN, phường CN 2, quận B, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Nhân viên Công ty CP Đầu từ kinh doanh phát triển Bất động sản FH, con ông Trịnh Hồng P84 (đã chết) và bà Phạm Thị Đ85; bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2012, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cẩm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

5. Trịnh T86, sinh ngày 06/12/1984; giới tính: Nam, nơi thường trú: P413-A2, Tổ dân phố 3 phường C, quận N, thành phố Hà Nội; nơi ở Phòng 1806 Khu đô thị Splendora, xã A, huyện HĐ, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp, nguyên Giám đốc Công ty TNHH một thành viên FL; con ông Trịnh Huy T87 và bà Đàm Thị H88; bị cáo có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2020; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

6. Nguyễn Thị N15, sinh ngày 25/12/1987; giới tính: Nữ; nơi thường trú: Căn hộ 1708, Tòa nhà SA đường L, phường M, quận C, thành phố Hà Nội, nơi ở: Phòng 2201A, tòa nhà FLmark Tower, ngõ 5 đường L, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Nhân viên Ban Kế toán Công ty CP T; con ông Nguyễn Văn H89 và bà Nguyễn Thị L17; bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cẩm đi khỏi nơi cư trú (có mặt)

7. Hoàng Thị H18, sinh ngày 20/5/1992; giới tính: Nữ; nơi thường trú và nơi ở: Phòng xxxxA, tòa FLmark Tower, Tổ dân phố số 10, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Chuyên viên Công ty CP Thương mại và Dịch vụ số F; con ông Hoàng Văn H19 và bà Trịnh Thị Bích L20; bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2020, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cầm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

8. Đỗ Thị Huyền T21, sinh ngày 22/3/1991; giới tính: Nữ; nơi thường trú: Số 30, ngõ 185 phố Minh Khai, phường Minh Khai, quận H, thành phố Hà Nội, nơi ở: Phòng 2505B tỏa nhà FLmark Tower ngõ 5 đường L, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Phỏ Trưởng phòng Kế toán Công ty CP T; con ông Đỗ Gia B22 và bà Hà Thị B23; bị cáo có chống và 02 con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2021; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

9. Nguyễn Thanh B24, sinh ngày 23/5/1975; giới tỉnh: Nam; nơi thường trú: Phòng 1008, nhà CT5 - ĐN4 khu đô thị MĐ, tổ 13, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội, nơi ở: Nhà số BT7-03, khu chức năng đô thị Xuân Phương (khu Viglacera), phường TM, quận N, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kỉnh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Nguyên Thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng giám đốc T; con ông Nguyễn Văn M25 và bà Nguyễn Thị Bồn; bị cáo có vợ và 04 con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2018; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

10. Lê Thành V27, sinh ngày 12/5/1979; giới tính: Nam, nơi thường trú và nơi ở: K509 dự án khu nhà ở thấp tầng lô đất (giai đoạn 3) khu đô thị Nam Thăng Long, phường P, quận T, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kính; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; là Đảng viên đã bị định chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Luật sư, nguyên Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần F, con ông Lê Văn G90 và bà Nguyễn Thị H29; bị cáo có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2019; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam tử ngày 30/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

11. Nguyễn Tiến D30, sinh ngày 28/9/1975; giới tính: Nam; nơi thường trú và nơi ở: Số nhà 15 tập thể Bình đoàn 12, tổ 17, phường Y, quận HĐ, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hỏa: Lớp 12/12; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Nguyễn Tổng Giám đốc, đại diện pháp luật Công ty CP Xây dựng và Đầu tư V (sau đổi tên thành Công ty CP Xây dựng F); con ông Nguyễn Văn C91 và bà Lê Thị M32; bị cáo có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2006, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam tử ngày 30/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

12. Lê Tân S33, sinh ngày 28/02/1983; giới tính: Nam; nơi thường trú và nơi ở: Số 3, ngõ 477 Kim Ngưu, phường V, quận H, thành phố Hả Nội; quốc tịch: Việt Nam, Canada; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: nguyên Phó Chánh văn phòng, Thư ký HĐQT T, con ông Lê Văn V34 và bà Lê Thị Kim C35; bị cáo có vợ (đã ly hôn) và 02 con, đều sinh năm 2015; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

13. Đặng Thị H36, sinh ngày 27/10/1991; giới tính: Nữ; nơi thường trú: Số 183, tổ 8, phường L, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội, nơi ở: Số 11, ngách 141, ngõ 1194 đường Láng, phường L, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12, nghề nghiệp: Nguyên Phó trưởng Ban Pháp chế, Công ty CP T; con ông Đặng Đình K37 và bà Bùi Thị H38; bị cáo có chồng và 01 con sinh năm 2016; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024; được trả tự do ngày 05/8/2024 (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

14. Lê Văn S39, sinh ngày 20/8/1949; giới tính: Nam; nơi thường trú và nơi ở: Số 55/168 HN, phường C, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/10; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đầu tư Địa ốc A, kiêm Giám đốc Công ty TNHH MTV FL, con ông Lê Văn B40 (đã chết) và bà Trịnh Thị T41 (đã chết); bị cáo có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1974, con nhỏ nhất sinh năm 1980; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024; được trả tự do ngày 05/8/2024 (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

15. Trương Văn T42, sinh ngày 14/3/1969; giới tính: Nam, nơi thường trú và nơi ở: Số 29, ngõ 101, phố NT, phường K, quận BĐ, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kính; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; nghề nghiệp: Nhân viên Văn phòng Công ty CP T (Đội trường Đội xe); con ông Trương Văn B43 (đã chết) và bà Nguyễn Thị T44 (đã chết); bị cáo có vợ và 02 con, con lớn sình năm 1984, con nhỏ sinh năm 2001; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024; được trả tự do ngày 05/8/2024 (có mặt).

16. Nguyễn Bình P45, sinh ngày 31/8/1973; giới tính: Nữ, nơi thường trú: Số 9B Lê Quý Đôn, phường B, quận H, thành phố Hà Nội; nơi ở: Phòng 606, chung cư Bộ Khoa học và Công nghệ, đường Nguyễn Văn H, phường Q, quận C, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 10/10, nghề nghiệp: Nguyên Chủ tịch HĐQT Công ty CP Xây dựng F, con ông Nguyễn Hoàng M46 và bà Trần Thị Vinh, bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2011; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

17. Nguyễn Minh Đ48, sinh ngày 27/5/1991, giới tính: Nữ, nơi thường trú: Căn hộ 101, nhà A17, tập thể KG, phường KG, quận TX, thành phố Hà Nội; nơi ở: Phòng 1708A Tòa D khu đô thị Marteri Vinsmart City, phường TM, quận N, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kính; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12, nghề nghiệp: Nhân viên hành chính nhân sự Công ty CP chứng khoản B; con ông Nguyễn Văn Q50 và bà Phạm Thị L49; bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024; được trả tự do ngày 05/8/2024 (có mặt).

18. Trần Đắc S51, sinh ngày 01/10/1956; giới tính: Nam; nơi thường trú và nơi ở: Số 15 đường số 6, Khu biệt thự Sông Ông Lớn, ấp 5, xã BH, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 10/10; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt; nghề nghiệp: Nguyên Chủ tịch HĐQT Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, con ông Trần Đắc S52 (đã chết) và bà Nguyễn Thị G53 (đã chết); bị cáo có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1980, con nhỏ nhất sinh năm 1987; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

19. Lê Hải T53, sinh ngày 13/8/1974, giới tính: Nam; nơi thường trú: Căn hộ 4B5-16 Chung cư Sky Garden 2, khu phố 6, phường TP, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở. Căn hộ số A18.03 Chung cư Hoàng Anh River View, số 37 N, phường T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, con ông Lê Hồng C54 (là Liệt sỹ) và bà Lê Thị Hỏa (đã chết); bị cáo có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2018; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/01/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an (có mặt).

20. Lê Thị Tuyết H56, sinh ngày 15/3/1976; giới tính: Nữ, nơi thường trú và nơi ở: Số 260/4/6 Nguyễn Thái B, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chỉ Mình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Giám đốc Phòng Giám sát giao dịch, nguyên Giám đốc Phòng Quản lý và Thẩm định niêm yết Sơ Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, con ông Lê Xuân D57 và bà Phan Thị Thu H58, bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2004; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cẩm đi khỏi nơi cư trủ (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

21. Trịnh Thị Út X59, sinh ngày 04/01/1987; giới tính: Nữ; nơi thường trú: Số 15, ngõ 105/9 phố Doãn Kế Thiện, tổ 18, phường M, quận C, thành phố Hà Nội, nơi ở: P2607 Tòa A1 chung cư VinHomes Gardenia, đường H, phường C, quận N, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Nhân viên Công ty CP Thương mại và Dịch vụ số F, con ông Trịnh Đăng N60 (đã chết) và bà Bùi Thị L61, bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2020; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chận Cẩm đi khỏi nơi cư trú (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

22. Phạm Thanh H62, sinh ngày 01/11/1984, giới tỉnh: Nữ, nơi thường trúc: Phòng 1008 - CT5 - ĐN4 khu đô thị MĐ, tổ 13, phường MĐ, quận N, thành phố Hà Nội, nơi ở: Phòng 1010 Tòa $1.03, khu đô thị Vinhomes Smart City, phường TM, quận N, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Kế toán hành chính Công ty TNHH Đầu tư S; con ông Phạm Đình Quỷ và bà Trần Thị N64; bị cáo có chồng và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2022; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

23. Phạm Thị H193 N65, sinh ngày 21/01/1985; giới tính: Nữ; nơi thường trú và nơi ở: Nhà 15/07/TH4B, tiểu khu Ngọc Lan (Nadyne Gardens), Khu đô thị mới Lê Trọng Tấn, Parkcity, phường LK, quận HĐ, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Nguyên Phó Ban đầu tư, Công ty CP T; con ông Phạm Minh C66 và bà Vũ Thị Hồng T67; bị cáo có chồng và 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2014, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cầm đi khỏi nơi cư trú (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

24. Dương Văn T68, sinh ngày 24/02/1967; giới tính: Nam; nơi thường trú và nơi ở: Số 14 Lô A, Tổ 26 Y, phường Y, quận C, thành phố Hà Nội, quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt, nghề nghiệp: Tổng giám đốc Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam; con ông Dương Văn T69 (đã chết) và bà Phan Thị Đ70; bị cáo có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sỉnh năm 2005, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cầm đi khỏi nơi cư trú (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

25. Phạm Trung M71, sinh ngày 01/02/1978, giới tính: Nam; nơi thường trú và nơi ở Phòng 302 D2 Chung cư 15-17 Ngọc Khánh, phường Giảng Võ, quận BĐ, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kính, tôn giáo: Không, trình độ văn hóa: Lớp 12/12; là Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt; nghề nghiệp: Nguyên Trưởng phòng Đăng ký chứng khoán; con ông Phạm Đình L72 (đã chết) và bà Phạm Thị N73 (đã chết); bị cáo có vợ và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2021; chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

III. Người bào chữa cho các bị cáo:

1. Người bào chữa cho bị cáo Trịnh Văn Q1.

1.1. Luật sư Nguyễn Danh H92 - Công ty Luật TNHH HĐ thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

1.2. Luật sư Phạm Đức G93 - Công ty Luật TNHH GMC thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

1.3. Luật sư Nguyễn Trọng N94 và Luật sư Nguyễn Thị T104 T95 - Công ty Luật TNHH B thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

1.4. Luật sư Nguyễn Tiến Q96 - Công ty Luật TNHH K thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

2. Người bào chữa cho bị cáo Trịnh Thị Minh H2:

2.1. Luật sư Giang Hồng T97 - Văn phòng Luật sư Giang Thanh thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

2.2. Luật sư Nguyễn Thị Hạ N99 - Công ty Luật TNHH T thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

3. Người bào chữa cho bị cáo Đàm Mai H100: Luật sư Nguyễn Hữu T101 -Công ty Luật TNHH HĐ thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

4. Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T101:

4.1. Luật sư Nguyễn Văn T102 - Công ty Luật TNHH Quốc tế NT thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

4.2. Luật sư Công Văn T103 - Văn phòng Luật sư Thọ Khang N104 và Cộng Sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

5. Người bảo chữa cho bị cáo Trịnh Văn Đ78: Luật sư Nguyễn Thị T104 và Luật sư L Ngọc L105 - Công ty Luật Hợp danh ĐT thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

6. Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Bình P45: Luật sư Trần Minh Q106 - Công ty Luật TN thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

7. Người bào chữa cho bị cáo Chu Tiến V107. Luật sư NTN -Công ty Luật TNHH NT thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

8. Người bào chữa cho bị cáo Trần Đắc S51 và bị cáo Trầm Tuấn V108: Luật sư Nguyễn Thị Y109 và Luật sư Lê Thị T110 - Công ty Luật TNHH MTV PG thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (đều có mặt).

9. Người bào chữa cho bị cáo Trần Thị H111: Luật sư Hoàng Tuấn A112 -Công ty Luật TNHH T thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

10. Người bào chữa cho bị cáo Trịnh Thị Thúy N7 và bị cáo Nguyễn Văn M8:

10.1. Luật sư Trần Hồng P113 và Luật sư Ngô Thị Thu H114 - Công ty Luật TNHH T thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

10.2. Luật sư Nguyễn Thị T104 và Luật sư L Ngọc L105 - Công ty Luật Hợp danh ĐT thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

11. Người bào chữa cho bị cáo Hương Trần Kiều D9: Luật sư Chu Thị Trang V115 và Luật sư Hà Thị Thúy Q116 - Văn phòng Luật sư IL và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

12. Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Hạ D228 và bị cáo Hoàng Thị Thu H179: Luật sư Nguyễn Thị T104 và Luật sư L Ngọc L105 - Công ty Luật Hợp danh ĐT thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

13. Người bào chữa cho bị cáo Trần Thế A117:

13.1. Luật sư Phạm Văn H118 - Văn phòng Luật sư TB thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thái Bình (có mặt).

13.2. Luật sư Vũ Văn H119 - Công ty Luật TNHH PP thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thái Bình (chi nhánh Hà Nội) (có mặt).

14. Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn T120: Luật sư Phan T121 và Luật sư Trần Văn N122 - Văn phòng Luật sư ATV thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

15. Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Quỳnh A12, Nguyễn Thị Thanh T123, Nguyễn Thị Thanh P124, Bùi Ngọc T125: Luật sư Hoàng Trọng G126 và Luật sư Mai Bả H127 - Công ty Luật TNHH Hoàng Sa thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

16. Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Quang L128:

16.1. Luật sư Nguyễn Hải A129 - Công ty Luật TNHH TL và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 17/6/2025, có mặt 18-20, 26/6/2025) 16.2. Luật sư Phạm Minh Đ130 - Công ty Luật TNHH Galaxy thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

17. Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Như T131: Luật sư Nguyễn Anh T132 và Luật sư Nguyễn Quang V133 - Công ty Luật TNHH TL thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

18. Người bào chữa cho bị cáo Quách Thị Xuân T134: 18.1. Luật sư Võ Xuân Đ135 - Công ty Luật TNHH KTD thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

18.2. Luật sư Hoàng Trọng G126 và Luật sư Mai Bá H136 - Công ty Luật TNHH Hoàng Sa thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

19. Người bào chữa cho bị cảo Lê Thành V27: Luật sư Lê Đình Q137 - Công ty Luật TNHH TL thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

20. Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh B24: Luật sư Chu Thị Trang V138 và Luật sư Nguyễn Ngọc D139 - Văn phòng Luật sư IL và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

21. Người bào chữa cho bị cáo Trần Thị L140 21.1. Luật sư Hoàng Trọng G126 và Luật sư Mai Bá H136 - Công ty Luật TNHH Hoàng Sa thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

21.2. Luật sư Phan Anh T141 và Nguyễn Thị T142 - Công ty Luật TNHH VPT thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

22. Người bào chữa cho bị cáo Lê Hải T143: Luật sư Trần Hồng P113 và Luật sư Trần Thị Hồng N144 - Công ty Luật TNHH T thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

23. Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Ngọc T145, Nguyễn Thiện P146, Trịnh T86, Nguyễn Tiến D30, Lê Tân S33, Đặng Thị H36, Lê Văn S39, Trương Văn T42, Nguyễn Minh Đ48, Trịnh Thị Út X59, Phạm Thanh H62 và Phạm Thị H193 N65: Luật sư Đinh Thị Kim T148 và Luật sư Nguyễn Hồng M149 - Công ty Luật TNHH MTV BT thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (đều có mặt).

IV. Bị hại có kháng cáo: Có danh sách kèm theo bản án.

V. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo: Có danh sách kèm theo bản án.

VI. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, người có quyền lại, nghĩa vụ liên quan:

1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Công ty Cổ phần chứng khoán B: Luật sư Phan Công T150 và Luật sư Lê Đình T151 - Công ty Luật TNHH EL thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; địa chỉ: Tầng 5, tòa nhà Bình Vượng Tower, số 200 đường QT, phường QT, quận HĐ, Hà Nội (đều vắng mặt).

2. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là bà Trần Thị H556 Q152 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông, bà: Nguyễn Thị H153, Lê Phúc T154, Cát Hoàng Phương D155, Tô Thị Mình N156, Đình Ngọc L157, Nguyễn Thị T158, Trần Kim N159: Luật sư Vũ Khánh D160 và Luật sư Nguyễn Cao T161 - Công ty Luật TNHH ZNA thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; địa chỉ: Số 2, ngõ 521/69 Trương Định, phường TM, quận HM, thành phố Hà Nội (Luật sư D160 có mặt, luật sư T161 văng mặt), 3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Phương M162: Luật sư Nguyễn Khắc B163 và Luật sư Nguyễn Văn V164 - Văn phòng Luật sư MĐ thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; địa chỉ: 119C1, NT, quận C, thành phố Hà Nội (Luật sư B163 có mặt, luật sư V164 vắng mặt).

Vụ án có tổng số 50 bị cáo, 25.853 người bị hại và 63.075 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu cô trong hồ sơ vụ án và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. CÁC PHÁP NHÂN VÀ CẢ NHÂN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN:

1. Công ty cổ phần tập đoàn F (T): thành lập theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 010268xxxx do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội. cấp đăng ký lần đầu ngày 09/12/2009, đăng ký thay đổi lần thứ 33 ngày 19/3/2020, vốn điều lệ đăng ký là 7.099.978.070.000 đồng (Trịnh Văn Q1 chiếm 30,34%); ngành nghề kinh doanh chính: Bất động sản, chứng khoán, dịch vụ du lịch... do Trịnh Văn Q1 là Chủ tịch HĐQT.

Trong hệ thống của T, Trịnh Văn Q1 đã thành lập 17 công ty con, công ty liên kết, có tổng số vốn điều lệ đăng ký là 31.367 tỷ đồng, 08 công ty liên quan nhằm mục đích đăng ký niêm yết, có tổng số vốn điều lệ đăng ký là 39.207 tỷ đồng; 57 công ty vệ tỉnh, có tổng số vốn điều lệ đăng ký là 21.000 tỷ đồng. Trịnh Văn Q1 là người có vai trò quyết định trong tổ chức bộ máy và quyết định hoạt động kinh doanh như: Chỉ định các thành viên HĐQT, Ban Tổng giám đốc, Ban Kế toán, Tài chính của Tập đoàn; chỉ định các thành viên HĐQT, Ban Tổng giám đốc của các công ty con, công ty liên kết và các công ty liên quan, sau đó các chức vụ này được thông qua bằng thủ tục bầu, bổ nhiệm, quyết định, chỉ đạo các hoạt động tài chính, kinh doanh chính của cả hệ thống 82 công ty nêu trên, với tổng số vốn điều lệ theo đăng ký là 91.574 tỷ đồng (trong đó có Công ty FR, Công ty B và một số công ty có liên quan trong vụ án này).

Tại T: Doân Văn P là Tổng Giám đốc (từ năm 2012 đến 2015); Hương Trần Kiều D9 là Tổng Giám đốc (từ tháng 5/2015 đến tháng 3/2017); Trịnh Thị Minh H2, em gái của Trịnh Văn Q1 là nhân viên Ban Ke toán; Trần Thế A117, Ban pháp chế. T đăng ký giao dịch trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh năm 2013, mã cổ phiếu F.

2. Công ty cổ phần xây dựng F (Công ty F) Công ty F tiền thân là Công ty cổ phần giải trí Green Belt (Công ty Green Belt), do Vũ Mạnh T165 làm Giám đốc, đồng thời đại diện theo pháp luật, vốn điều lệ đăng ký là 1,5 tỷ đồng. Sở KH&ĐT Hà Hội cấp đăng ký kinh doanh (thay đổi lần 3) ngày 18/9/2012, do Doãn Văn P166 là Chủ tịch HĐQT; Trần Thế A117 là Giám đốc, đồng thời đại diện theo pháp luật; cấp thay đổi đăng ký kinh doanh lần 4 ngày 24/4/2014 và ngày 13/5/2015 đổi tên thành Công ty CP Xây dựng và Đầu tư hạ tầng Vĩnh Hà (Công ty Vĩnh Hả), do Trịnh Văn Đ78 là Chủ tịch HĐQT; Hoàng Thị Thu H179 và Nguyễn Văn M8 là Thành viên HĐQT; Nguyễn Tiến D30 làm Giám đốc, đồng thời đại diện theo pháp luật. Công ty F đăng ký giao dịch trên sân HOSE ngày 01/9/2016 mã cổ phiếu ROS (sau đây gọi chung là Công ty F).

3. Công ty cổ phần đầu tư tài chính và quản lý tài sản RTS (Công ty RTS): tiến thân là Công ty cổ phần đầu tư SMIC, được Sở KH&ĐT Hà Nội cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 29/12/2006, vốn điều lệ đăng ký là 1,85 tỷ đồng, do Trịnh Thị Thuý N167 (em gái Trịnh Văn Q1) là Giám đốc, đồng thời đại diện theo pháp luật; thay đổi đăng ký kinh doanh ngày 11/9/2009, (lần thứ 11), vốn điều lệ đăng ký là 400 tỷ đồng, đo Trịnh Thị Minh H2 là Tổng giám đốc, đồng thời đại diện theo pháp luật; ngày 20/01/2014 đổi tên thành Công ty RTS, vốn điều lệ đăng ký là 800 tỷ đồng, do Trịnh Văn Đ78 là Tổng giám đốc, đồng thời đại diện theo pháp luật.

4. Công ty cổ phần Chứng khoán B (Công ty B): tiền thân là Công ty CP Chứng khoán F thành lập từ năm 2008, vốn điều lệ đăng ký là 135 tỷ đồng, Trịnh Văn Q1 là 01 trong 05 cổ đông sáng lập, năm 2014 đổi tên thành Công ty Chứng khoán Artex, đến năm 2019 đổi tên thành Công ty CP Chứng khoán B; Giấy phép điều chỉnh Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán số 01/GPDC-UBCK ngày 11/01/2011, điều chỉnh người đại diện theo pháp luật là Trịnh Văn Q1, Chủ tịch HĐQT, Đến ngày 15/5/2014, Trịnh Văn Q1 nhờ Nguyễn Thanh B24 là Phó Tổng Giám đốc T làm Chủ tịch HĐQT từ ngày 15/5/2014 đến ngày 29/11/2018, từ 24/8/2017 đến 18/4/2018, kiêm người đại diện theo pháp luật. Từ năm 2018 đến 2022 do Hương Trần Kiều D9 là Chủ tịch HĐQT.

Thành viên HĐQT Công ty B, gồm: Lê Bá N226 (anh vụ Trịnh Văn Q1), từ ngày 26/11/2018 đến ngày 16/8/2022; Chu Tiến V107 từ ngày 01/6/2020 đến ngày 16/8/2022; Nguyễn Quỳnh N227 từ ngày 10/02/2018 đến ngày 16/8/2022; Tống Hải Ninh từ ngày 10/02/2018 đến ngày 20/3/2020;

Ban Tổng Giám đốc Công ty B, gồm: Nguyễn Quỳnh A12 là Tổng Giám đốc từ ngày 01/8/2018 (đại diện theo pháp luật từ ngày 01/8/2018 đến ngày 6/2020); Trịnh Thị Thúy N7 là Phó Tổng Giám đốc kiêm Phó Chủ tịch Thường trực HĐQT từ ngày 26/11/2018;

Phòng Dịch vụ chứng khoán, gồm: Nguyễn Thanh P168, Trưởng phòng, Nguyễn Thị Thị T169 và Bùi Ngọc T125, Phó Trưởng phòng, Phòng Kế toán, gồm: Quách Thị Xuân T134, Trưởng Phòng từ tháng 9/2018 đến 03/9/2020 và Trần Thị L140, Trưởng phòng từ ngày 04/9/2020 đến nay.

5. Công ty CP Đầu tư và khoáng sản Stone F (mã cổ phiếu AMD): thành lập năm 2007, đăng ký niêm yết trên sàn HOSE ngày 16/6/2015 do Nguyễn Tiến D30, Tổng Giám đốc đại diện theo pháp luật.

6. Công ty CP Nông được HAI (mã cổ phiếu HAI): Được thành lập năm 2004, đăng ký niêm yết trên sàn HOSE ngày 20/4/2010, do Quách Thành Đồng, Tổng Giám đốc đại diện theo pháp luật.

7. Công ty CP Đầu tư khai khoáng và Quản lý tài sản F (mã cổ phiếu GAB): thành lập năm 2016, đăng ký niêm yết trên sàn HOSE ngày 11/7/2019 do Nguyễn Đức Công làm Chủ tịch HĐQT, đại diện theo pháp luật.

8. Nhóm công ty con, công ty thuộc hệ sinh thái của T tham gia là cổ đông góp vốn, nhận ủy thác đầu tư của Công ty FR; mở tài khoản chứng khoán để Trịnh Thị Minh H2 sử dụng Thao túng thị trường chứng khoán, gồm:

Công ty TNHH MTV F LAND tiền thân là Công ty Cổ phần FL, thành lập ngày 28/8/2007, đến ngày 20/5/2015 thay đổi đăng ký kinh doanh lần thứ 25, vốn điều lệ đăng ký là 510 tỷ đồng, do Hương Trần Kiều D9, là Chủ tịch HĐQT đồng thời đại diện theo pháp luật; từ ngày 07/8/2018 thay đổi đại điện pháp luật là Lê Văn S39;

- Công ty TNHH MTV Quản lý Khách sạn và khu nghỉ dưỡng F được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu ngày 06/11/2014, vốn điều lệ đăng ký là 200 tỷ đồng, do Bùi Hải H170 là Chủ tịch HĐQT, đồng thời đại diện theo pháp luật;

- Công ty TNHH Đầu tư và phát triển F Vĩnh Phúc: Đăng ký doanh nghiệp lần đầu ngày 04/11/2014, vốn điều lệ đăng ký là 100 tỷ đồng, do Hương Trần Kiều D9 là Chủ tịch HĐQT, đồng thời đại diện theo pháp luật;

- Công ty cổ phần F Travel: Tiền thân là Công ty cổ phần trang trại nông sản QG, ngày 30/12/2013, đăng ký kinh doanh thay đổi lần thứ 6, đổi tên thành Công ty Cổ phần F Travel do Trần Quang H171 làm Tổng Giám đốc, đại diện pháp luật, ngày 29/4/2021, thay đổi đăng ký kinh doanh lần thứ 14, vốn điều lệ đăng ký là 1.000 tỷ đồng do Hương Trần Kiều D9 đại diện pháp luật.

9. Nhóm công ty Trịnh Thị Minh H2 sử dụng mở tài khoản chứng khoán; nhận ủy thác đầu tư, gồm: Công ty TNHH Đầu tư thương mại và Xuất nhập khẩu VTX, Công ty TNHH NH Việt Nam, Công ty TNHH Đầu tư thương mại và Xuất nhập khẩu DX, Công ty TNHH Sản xuất và Xuất nhập khẩu HH, Công ty TNHH Đầu tư xây dựng và Thương mại VL, Công ty cổ phần Đầu tư F Việt Nam, Công ty cổ phần vật tư thiết bị và xây dựng ĐT, Hà Nội, Công ty cổ phần đầu tư và Thương mại Hoa Hướng Dương (SCO), Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng An Du, Công ty TNHH đầu tư và phát triển IMR, Công ty TNHH đầu tư và thương mại SIP, Công ty TNHH đầu tư và phát triển ITH, Công ty TNHH đầu tư và phát triển ACO, Công ty TNHH đầu tư và phát triển Eldon, Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Trà Cổ, Công ty cổ phần dịch vụ và phát triển Tây Nguyên, Công ty TNHH đầu tư địa ốc Thanh Hoá, Công ty TNHH khu công nghiệp Toàn cầu, Công ty cổ phần Khoa học và công nghệ AOS.

10. Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán Hà Nội (Công ty CPA HANOI): được Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp đăng ký lần đầu ngày 01/02/1999; vốn điều lệ đăng ký là 07 tỷ đồng, do ông Lê Văn Dò là Tổng Giám đốc, đồng thời đại diện theo pháp luật; Nguyễn Ngọc T173 là Chủ tịch Hội đồng thành viên và Lê Văn T120 là Kiểm toán viên.

11. Công ty TNHH Kiểm toán ASC: Mã số doanh nghiệp 0102902085, vẫn điều lệ đăng ký là 06 tỷ đồng, do Lê Quang Đức là Chủ tịch HĐTV kiêm Tổng giám đốc từ năm 2006 đến 2019, Trần Thị H111 là Phó Tổng giám đốc, Kiểm toán viên.

12. Vụ Giám sát công ty đại chúng UBCKNN: Thành lập theo Quyết định số 538/QĐ-BTC ngày 22/3/2016 của Bộ Tài chính, có chức năng nhiệm vụ: Chấp thuận hồ sơ đăng ký công ty đại chúng, giám sát kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chứng thuộc lĩnh vực chứng khoán, do Lê Công Đ174 là Vụ trưởng.

13. Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (nay là Tổng Công ty Laru ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam): thành lập theo Quyết định số 189/2005/QĐ-TTg ngày 27/07/2005; Quyết định số 171/2008/QĐ-TTg ngày 18/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ; có chức năng đăng ký, lưu ký chứng khoán... do Dương Văn T68 làm Tổng Giám đốc; Phạm Trung M175 là Trưởng phòng đăng ký chứng khoán.

14. Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh (sàn HOSE): thành lập theo Quyết định số 599/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi mô hình tổ chức và thay đổi tên gọi từ Trung tâm Giao dịch Chứng khoản thành phố Hồ Chí Minh; có chức năng chấp thuận niêm yết chứng khoán, do Trần Đắc S176 là Chủ tịch HĐQT, Lê Hải T53 là Ủy viên HĐQT, Phó Tổng Giám đốc, Trầm Tuấn V108 là Phó Tổng Giám đốc và Lê Thị Tuyết H56 là Trưởng Phòng quân lý và thẩm định niêm yết.

II. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ TỘI LỬA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN, LỢI DỤNG CHỨC VỤ QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ VÀ CÓ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH HOẶC CHE GIẤU THÔNG TIN TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN:

1. Hành vi nâng không vốn điều lệ tại Công ty F Tháng 8 năm 2012, Trịnh Văn Q1 có chủ trương và chỉ đạo Doãn Văn P166, Tổng Giám đốc; Lê Đình V177, Phó Chủ tịch HĐQT, Trần Thế A117, Ban pháp chế của T và Trần Xuân H178, Tổng Giám đốc Công ty F Travel mua lại Công ty Green Belt có vốn điều lệ đăng ký là 1,5 tỷ đồng (sau đổi tên thành Công ty Vĩnh Hà, rồi tiếp tục đổi tên thành Công ty FR). Trong đó: Doãn Văn P166, Lê Đình Vinh, Trần Xuân H178 giúp Trịnh Văn Q1 đúng tên là cổ đông, Trần Thế A117 giúp Quyết làm các thủ tục nhận chuyển nhượng công ty trên cơ sở Trịnh Văn Q1 đã thống nhất về giả chuyển nhượng, nguồn tiền mua Công ty Green Belt là của T.

Trịnh Văn Q1 giao cho Công ty FR làm đơn vị tổng thầu các dự án do T làm chủ đầu tư. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty F đều do Trịnh Văn Q1 chỉ đạo, điều hành trực tiếp thông qua Doãn Văn P166 là Tổng Giám đốc T được giao giữ chức vụ là Chủ tịch HĐQT Công ty F và Trịnh Thị Minh H2 (cm gái Quyết) là nhân viên Ban kế toán T tiếp nhận chỉ đạo trực tiếp từ Trịnh Văn Q1 để tổ chức thực hiện. Để tạo nguồn tiền trong quá trình hoạt động, trong khi Công ty F không có nguồn vốn và tài sản để bảo đảm, Trịnh Văn Q1 chỉ đạo các thành viên trong tập đoàn thực hiện các thủ tục nâng khống vốn điều lệ của Công ty F, từ đó phát hành cổ phiếu bằng giá trị của số vốn điều lệ, đăng ký niêm yết trên sàn chứng khoán bản cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Toàn bộ số tiền thu được từ bản cổ phiếu được chuyển về để sử dụng theo chỉ đạo của Quyết.

Với mục đích nêu trên, để thực hiện được việc tăng vốn Điều lệ khống của Công ty F, Trịnh Văn Q1 giao Trịnh Thị Minh H2 soạn thảo toàn bộ Biên bản họp HĐQT, Nghị quyết HĐQT về việc tăng vốn điều lệ (vốn góp chủ sở hữu) và việc sử dụng vốn góp, sau đó chuyên cho các thành viên HĐQT Công ty F, gồm: Doãn Văn P166, Chủ tịch HĐQT; các Thành viên HĐQT: Trịnh Văn Đ78 (là anh họ Q1), Nguyễn Văn M8 (em rề Q1), Hoàng Thị Thu H179 (em họ Q1), Đỗ Quang L128 để ký hợp thức các tài liệu này, Trịnh Văn Q1 trực tiếp chỉ đạo Trịnh Thị Mình H203 soạn thảo hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần, giấy nộp tiền, ủy nhiệm chỉ, chuyển cho 06 cá nhân do Trịnh Văn Q1 trực tiếp nhỏ đứng tên là cổ đồng góp vốn tại Công ty F, gồm: Trần Thế A117, Lê Thành V27, Hương Trần Kiều D9, Nguyễn Thiên P180, Đặng Thị H36, Nguyễn Văn T101; 07 cá nhân do Trịnh Thị Minh H2 trực tiếp nhỏ đứng tên là cổ đông, gồm: Phạm Hải Ninh, Lê Tân S33, Trương Văn T42, Nguyễn Văn M8, Trịnh Văn Đ78, Hoàng Thị Thu H179, Trịnh T86 và 02 cá nhân do Trịnh Thị Minh H2 ghi tên tham gia nhưng H2 trực tiếp ký thay gồm: Đàm Quang C181 và Phạm Thị X182.

Sau khi các cổ đông trên đăng ký góp vốn khống và được hạch toán vẫn gặp vào Công ty, Trịnh Văn Q1 và Doãn Văn P166 chỉ đạo việc sử dụng số vòn góp khống này nhằm hợp thức hóa thành tài sản của Công ty F với thủ đoạn thông qua Trịnh Thị Minh H2 thực hiện toàn bộ các các thủ tục cho lãnh đạo Công ty F ký khống các hợp đồng ủy thác đầu tư, hợp đồng hợp tác kinh doanh cho các cá nhân, pháp nhân là người thân quen, nhân viên T nhận ủy thác đầu tư của Công ty F, để cân đối vốn góp khống.

Với phương thức, thủ đoạn như vậy, trong thời gian từ tháng 4/2014 đến tháng 3/2016, Trịnh Văn Q1 cùng các bị cáo trên đã 5 lần lập hồ sơ góp vốn khống, năng số vốn Điều lệ của Công ty F từ 1,5 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng (trong đó cơ quan điều tra xác định số vốn thực góp của Công ty F là 1,197.511.082.182 đồng và số vốn góp không là 3.102.488.917.818 đồng).

Cụ thể 5 lần nâng vốn góp khống như sau:

Lần 1: Tăng từ 1,5 tỷ đồng lên 225 tỷ đồng (tăng thêm 223,5 tỷ đồng) Mặc dù các cổ đông của Công ty F không góp tiền để tăng vốn điều lệ, nhưng theo chỉ đạo của Trịnh Văn Q1; Trịnh Thị Minh H2 soạn thảo các Nghị quyết của Công ty về việc tăng vốn điều lệ, sử dụng vốn góp của các cổ đông và giao cho Trịnh Văn Đ78, Chủ tịch HĐQT Công ty Vĩnh Hà ký ban hành Nghị quyết số 01/NQĐHĐCĐ-VH ngày 24/4/2014 với nội dung tăng vốn điều lệ, bầu các thành viên HĐQT và sửa đổi Điều lệ của công ty, trong đó thông qua việc tăng vốn điều lệ của công ty và đề nghị thay đổi đăng ký kinh doanh, vốn điều lệ dự kiến tăng thêm 223,5 tỷ đồng và Nghị quyết số 02/ĐHĐCĐ-VH ngày 26/4/2014, “Thông qua chủ trương Công ty CP Xây dựng và Đầu tư hạ tầng Vĩnh Hà sẽ sử dụng nguồn vẫn hiện có và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác (nếu có) để ủy thác đầu tư, hình thức ủy thác đầu tư: Ký hợp đồng ủy thác đầu tư hoặc hợp đồng cho vay tiền, tài sản; đổi tượng ủy thác đầu tư: Các đối tượng là nhà đầu tư cá nhân hoặc tổ chức, hạn mức sửdụng vốn ủy thác đầu tư: tối đa là 774 tỷ đồng; thời hạn ủy thác đầu tư: đến hết ngày 31/12/2016...".

Để hợp thức dòng tiền góp vốn, Trịnh Thị Minh H2 chỉ đạo Trịnh Văn Đ78 (anh họ Q1); Hoàng Thị Thu H179 (em họ Q1) và Nguyễn Văn M8 (chồng Trịnh Thị Thúy N7) đứng tên ký không sẵn 14 ủy nhiệm chỉ với nội dung chuyển tiền góp vốn vào tài khoản của Công ty F (cụ thể: Trịnh Văn Đ78 ký 05 ủy nhiệm chỉ chuyển 74,5 tỷ đồng, Hoàng Thị Thu H179 ký 03 ủy nhiệm chỉ chuyển 44,7 tỷ đồng và Nguyễn Văn M8 ký 06 ủy nhiệm chỉ chuyển 104,3 tỷ đồng); chỉ đạo Nguyễn Tiến D30 - Tổng Giám đốc Công ty CP Xây dựng F, Nguyễn Thị Quỳnh T183là Kế toán Công ty CP Liên doanh đầu tư Quốc tế KLF và Nguyễn Minh T184 là Kê toán Công ty CP Đầu tư thương mại và Xuất nhập khẩu CFS ký khống sẵn các chứng từ là các giấy rút tiền mặt ra khỏi Công ty F (cụ thể: Nguyễn Thị Quỳnh T183ký 06 giấy rút tiền mặt rút 114 tỷ đồng; Nguyễn Minh T85 ký 05 giấy rút tiền mặt rút 109,5 tỷ đồng).

Ngày 25/04/2014, H2 sử dụng 02 “Giấy nộp tiền mặt" do Hoàng Thị Thu H179 kỷ khống sẵn, sử dụng 35 tỷ đồng nộp vào tài khoản 107000496227 mang tên Hoàng Thị Thu H179 mở tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Tây Hà Nội. Đến ngày 28/4/2014, H2 sử dụng 01 ủy nhiệm chỉ do Hà ký khống chuyển toàn bộ 35 tỷ đồng tử tài khoản mang tên Hà mở tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Tây Hà Nội đền tài khoản số 2221200000xxxx cũng mang tên Hoàng Thị Thu H179 mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chỉ nhánh TX, Hà Nội để quay vòng góp vốn vào Công ty CP Xây dựng F.

Từ 13 giờ đến 15 giờ ngày 28/4/2014, H2 sử dụng các chứng từ do Hà, Đại, Mạnh, Dũng, Tú và Trang ký không sẵn làm thủ tục chuyển khoản 35 tỷ đồng từ tải khoản của Hà vào tài khoản số 222100005xxxx của Công ty CP Xây dựng F mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh TX, Hà Nội, ngay sau đó rút tiền mặt ra khỏi tài khoản, chia nhỏ nộp 14 tỷ đồng vào tài khoản Trịnh Văn Đ78, nộp 10,3 tỷ đồng vào tài khoản của Nguyễn Văn M8 và nộp 9,7 tỷ đồng vào tài khoản của Hoàng Thị Thu H179 và lại chuyển khoản 34 tỷ đồng vào tài khoản của Công ty CP Xây dựng F, sau đó lại tiếp tục rút tiền, nộp tiền và chuyển tiền nhiều lần.

Kết quả điều tra xác định, sau 08 lần quay vòng luân chuyển tiền qua các tài khoản nêu trên, đến khi kết thúc, tài khoản số 222100005xxxx của Công ty F phát sinh tăng 223,5 tỷ đồng, làm tăng vốn điều lệ của Công ty F lên 225 tỷ đồng, đồng thời cũng phát sinh rút toàn bộ tiền mặt ra khỏi tải khoản của Công ty CP Xây dụng F. Số tiền 35 tỷ đồng sử dụng quay vòng góp vốn, sau khi rút ra khỏi tài khoản của Công ty CP Xây dựng F thì số tiền này lại được sử dụng nộp 05 tỷ đồng vào tài khoản số 2221000006xxxx của T vào hồi 15 giờ 57 phút ngày 28/4/2014; nộp 30 tỷ đồng vào tài khoản số 2221200000xxxx mang tên Hoàng Thị Thu H179 hồi 15 giờ 58 phút, sau đó chuyển toàn bộ vào tài khoản số 2221000006xxxx cũng mang tên Hoàng Thị Thu H179 hồi 15 giờ 59 phút cùng ngày 28/4/2014. Đến 16 giờ 29 cùng ngày, H2 sử dụng giấy rút tiền mặt do Hoàng Thị Thu H179 ký sẵn để rút toàn bộ số tiền 30 tỷ đồng ra khỏi tài khoản. Toàn bộ số tiền 223,5 tỷ đồng được hạch toán rút từ tài khoản, Công ty F đã thực hiện hạch toán nhập quỹ (tiền mặt) số tiền 223,5 tỷ góp vốn nêu trên, nhưng thực tế không có tiến thật mà hạch toán khống trên sổ sách kế toán. Sau đó, T tạm ứng (không) cho Công ty F số tiến 550,7 tỷ đồng theo Hợp đồng số 705/2014/HDTCXD/F-VINHHA ngày 07/5/2014 (cung cấp vật tư và thi công hạ tầng kỹ thuật khu biệt thự giai đoạn 1 dự án F Vilas Sầm Sơn) và cùng với số tiền góp vốn không nêu trên để H2 tiếp tục soạn thảo hợp đồng, thủ tục để Doãn Văn P166, Tổng giám đốc T, Chủ tịch HĐQT Công ty F chỉ đạo Nguyễn Tiến D30, Tổng Giám đốc Công ty F ký (1) Hợp đồng số 01/2014/HDUTĐT ngày 26/4/2014 ủy thác đầu tư cho Lê Thị T183 (bạn Trịnh Thị Minh H2) số tiền 390 tỷ đồng (từ ngày 26/4/2014 đến ngày 07/9/2014, Nguyễn Tiến D30 đã ký 07 phiếu chỉ tiền mặt với tổng số tiền 390 tỷ đồng); (2) Hợp đồng số 01/2014/HĐCVT ngày 28/4/2014 ủy thác đầu tư cho Nguyễn Minh Đ48 (nhân viên Công ty B) số tiền 24 tỷ đồng (ngày 29/4/2014, Nguyễn Tiến D30 ký 01 phiếu chi tiền mặt số tiền 24 tỷ đồng) và (3) Hợp đồng số 02/2014/HĐTĐT ngày 25/8/2014 ủy thác đầu tư cho Nguyễn Thị Hạ D228 số tiền 360 tỷ đồng (từ ngày 13/9/2014 đến ngày 20/9/2014, Nguyễn Tiến D30 đã ký 06 ủy nhiệm chỉ với tổng số tiền 360 tỷ đồng) để hợp thức dòng tiền góp vốn không.

Sau khi Công ty FR tăng vốn điều lệ lên 225 tỷ đồng, ngày 24/4/2014, Trịnh Văn Đ78, Chủ tịch HĐQT và Nguyễn Tiến D30, Tổng Giám đốc ký Thông báo số 02/TB-VH gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội đề nghị thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, ghi nhận số vốn điều lệ là 225 tỷ đồng. Ngày 06/5/2014, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần (thay đổi lần thứ 5); vốn điều lệ là 225 tỷ đồng, do Nguyễn Tiến D30 là Tổng Giám đốc, đại diện theo pháp luật; Trịnh Văn Đ78 là Chủ tịch HĐQT; Hoàng Thị Thu H179 và Nguyễn Văn M8 là Thành viên HĐQT. Cơ cấu gồm 03 cổ đông như sau: Hoàng Thị Thu H179 4.500.000 cổ phần (giá trị 45 tỷ đồng), chiếm tỷ lệ 20%; Trịnh Văn Đ78 7.500.000 cổ phần (giá trị 75 tỷ đồng), chiếm tỷ lệ 33,3%; Nguyễn Văn M8 10.500.000 cổ phần (giá trị 105 tỷ đồng), chiếm tỷ lệ 46,7%. Tổng cộng 22.500.000 cổ phần, giá trị 225 tỷ đồng.

Lần 2: Tăng từ 225 tỷ đồng lên 1.125 tỷ đồng (tăng thêm 900 tỷ đồng).

Theo chỉ đạo của Trịnh Văn Q1 về việc tiếp tục tăng vốn điều lệ cho Công ty F, ngày 24/02/2015, Trịnh Thị Minh H2 soạn thảo Nghị quyết số 01/NQ-ĐHĐCĐ-VH và giao cho Trịnh Văn Đ78, Chủ tịch HĐQT Công ty F ký ban hành về việc bổ sung thành viên HĐQT và Nghị quyết số 02/NQ-ĐHĐCĐ-VH về việc bầu Đỗ Quang L128 thay Trịnh Văn Đ78 làm Chủ tịch HĐQT Công ty F; soạn thảo Nghị quyết số 03/NQ-FR ngày 28/5/2015 giao cho Đỗ Quang L128 - Chủ tịch HĐQT ký ban hành về đăng ký tăng vốn điều lệ, miễn nhiệm và bầu chức danh Chủ tịch HĐQT, thay đổi địa chỉ trụ sở chính và sửa đổi Điều lệ của Công ty, nội dung: Thông qua việc tăng thêm 900 tỷ đồng để nâng vốn điều lệ từ 225 tỷ đồng lên 1.125 tỷ đồng bằng việc phát hành thêm cổ phần và miễn nhiệm chức danh Chủ tịch HĐQT đối với Đỗ Quang L128, đồng thời bầu Doãn Văn P166 là Chủ tịch HĐQT Công ty F, đại diện theo pháp luật.

Để hợp thức việc nâng khống vốn góp, Trịnh Văn Q1 trực tiếp nhỏ hoặc giao Trịnh Thị Minh H2 nhờ 12 cá nhân, gồm: Doãn Văn P166, Trần Thế A117, Lê Thành V192, Hương Trần Kiều D9, Nguyễn Thiện P146, Lê Văn S39, Phạm Thị H193 N65, Nguyễn Văn T101, Lê Tân S33, Trương Văn T42, Đặng Thị H36, Phạm Thanh H62 đều là những người thân, quen hoặc là nhân viên các công ty thuộc T, giúp Quyết đứng tên là cổ đông góp vốn bằng cách ký hợp thức các hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần, nhưng không phát sinh thanh toán tiền nhận chuyển nhượng cổ phần của 03 cổ đông Công ty F, gồm: Hoàng Thị Thu H179, Nguyễn Văn M8 và Trịnh Văn Đ78, để những người này trở thành cổ đông của Công ty F, nâng tổng số cổ đông góp vốn của Công ty F lên 15 người. Đồng thời, 15 cá nhân nêu trên kỳ không sẵn 33 ủy nhiệm chỉ, Doãn Thu H194, Nhân viên kế toán Công ty F ký khống sẵn 17 giấy rút tiền mặt và 17 phiếu thu để Trịnh Thị Minh H2 làm thủ tục nộp tiền, chuyển tiên vào tài khoản của Công ty F với nội dung góp vốn; sau đó H2 rút tiền ra khỏi tài khoản để tiếp tục nộp vào tài khoản của các cá nhân khác để quay vòng vốn góp.

Bằng thủ đoạn trên, trong hai ngày 27 và 28/5/2015, Trịnh Thị Minh H2 đã sử dụng 13 giấy rút tiền mặt, rút 65,74 tỷ đồng từ tài khoản của 11 cá nhân, 01 doanh nghiệp đo H2 quản lý (Công ty R.O.R 10,845 tỷ đồng, Nguyễn Minh Đ48 3,73 tỷ đồng, Nguyễn Thị H184 3,93 tỷ đồng, Nguyễn Văn M8 9,1 tỷ đồng, Trần Thị Thanh T185 10,88 tỷ đồng, Nguyễn Xuân H186 8,521 tỷ đồng, Nguyễn Thị P187 0,935 tỷ đồng, Trịnh Quốc T188 2,38 tỷ đồng, Trịnh Thị Thu H189 1,894 tỷ đồng; Hoàng Anh T190 6,82 tỷ đồng, Trần Thị Đ191 3,602 tỷ đồng; Lê Thị T183 3,103 tỷ đồng) để quay vòng góp vốn. Cùng ngày 28/5/2015, H2 đã rút 56,51 tỷ đồng nêu trên ra khỏi Công ty F để nộp vào 14 tài khoản chứng khoán, tài khoản ngân hàng mang tên 14 cá nhân do H2 quản lý sử dụng. Còn lại 9,23 tỷ đồng sử dụng trộn lẫn với các giao dịch khác của Công ty F.

Kết quả điều tra xác định: Sau 12 lần quay vòng dòng tiền qua các tài khoản cá nhân góp vốn chỉ trong thời gian hai ngày (ngày 27 và 28/5/2015), tài khoản Công ty F tăng thêm 900 tỷ đồng tiền vốn góp không và ghi nhận tại sổ sách kế toán có số vốn góp cụ thể của các chủ sở hữu là 1.125 tỷ đồng, gồm các cổ đông: (1) Doãn Văn P166 27 tỷ đồng; (2) Trần Thế A117 31,5 tỷ đồng; (3) Lê Thành V192 37,8 tỷ đồng; (4) Hương Trần Kiều D9 36 tỷ đồng, (5) Hoàng Thị Thu H179 100 tỷ đồng: (6) Lê Văn S39 33,3 tỷ đồng; (7) Phạm Thị H193 N65 34,2 tỷ đồng; (8) Nguyễn Văn T101 27 tỷ đồng; (9) Lê Tân S33 31,5 tỷ đồng; (10) Trương Văn T42 80 tỷ đồng, (11) Đặng Thị H36 160 tỷ đồng; (12) Phạm Thanh H62 99,702 tỷ đồng; (13) Nguyễn Văn M8 87,798 tỷ đồng; (14) Trịnh Văn Đ78 80 tỷ đồng và (15) Nguyễn Thiện P74 34,2 tỷ đồng.

Để hợp thức việc góp số vốn khống trên vào Công ty F, Trịnh Thị Minh H2 chỉ đạo Doãn Thu H194, nhân viên kế toán Công ty F ghi bút toán nhập quỹ tiền mặt 900 tỷ đồng (nhưng không có tiền thật); sau đó, H2 soạn thảo 03 hợp đồng ủy thác đầu tư để Đỗ Quang L128, Tổng Giám đốc Công ty F ký cho 03 cá nhân vay với tổng số tiền 870 tỷ đồng. Từ ngày 02/6/2015 đến 12/6/2015, Đỗ Như T131, Tổng Giám đốc Công ty F và Nguyễn Thiện P146, Kế toán trưởng Công ty F ký không 15 phiếu chỉ nội dung chuyển 870.935.836.000 đồng cho các cá nhân nhẩm hợp thức việc góp vốn, gồm:

(1) Hợp đồng số 02/2015/HĐUTĐT ngày 11/5/2015 ủy thác đầu tư 400 tỷ đồng cho Trần Văn T195 (từ ngày 03/6/2015 đến ngày 11/6/2015, Đỗ Như T131, Tổng Giám đốc và Nguyễn Thiện P74, Kế toán trường đã ký 07 phiếu chi tiền mặt tổng số tiền 400 tỷ đồng).

(2) Hợp đồng số 03/2015/HDUTĐT ngày 27/5/2015 ủy thác đầu tư 370 tỷ đồng cho Hồ Thị H196 (từ ngày 02/6/2015 đến ngày 12/6/2015, Đỗ Như T131 và Nguyễn Thiện P74 ký 06 phiếu chỉ tiền mặt số tiền 370 tỷ đồng) cho Hồ Thị H196.

(3) Hợp đồng số 04/2015/HDUTĐT ngày 28/5/2015 ủy thác đầu tư 100 tỷ đồng cho Nguyễn Minh Đ48 (từ ngày 03/6/2015 đến ngày 07/6/2015, Đỗ Như T131 và Nguyễn Thiện P74 ký 02 phiếu chi tiền mặt số tiền 100.935,836.000 đồng).

Sau khi Công ty F tăng vốn lên 1.125 tỷ đồng, ngày 01/6/2015, Doãn Văn P166, Chủ tịch HĐQT ký Thông báo số 09/TB-FR gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội, đề nghị đăng ký thay đổi vốn điều lệ Công ty F. Ngày 04/6/2015, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (thay đổi lần thứ 8) vốn điều lệ là 1.125 tỷ đồng, do Doần Văn P197 là Chủ tịch HĐQT, đại diện theo pháp luật, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8 và Hoàng Thị Thu H179 là Thánh viên HĐQT: Đỗ Như Tuần là Tổng Giám đốc. Cơ cấu cổ đông gồm 15 người: 1 Doãn Văn P166, 2 Trần Thế A117, 3 Lê Thành V192, 4 Hương Trần Kiều D9, 5 Nguyễn Thiện P146, 6 Lê Văn S39, 7 Phạm Thị H193 N65, 8 Nguyễn Văn T101, 9 Lê Tân S33, 10 Trương Văn T42, 11 Đặng Thị H36, 12 Phạm Thanh H62, 13 Nguyễn Văn M8, 14 Trịnh Văn Đ78 và 15 Hoàng Thị Thu H179.

Lần 3: Tăng từ 1.125 tỷ đồng lên 3.037,5 tỷ đồng (tăng thêm 1.912,5 tỷ đồng).

Theo chỉ đạo của Trịnh Văn Q1 về việc tăng vốn điều lệ, Trịnh Thị Minh H2 soạn thảo Tờ trình số 03/TTr-HĐQT-FR ngày 20/7/2015 về phương án phát hành cổ phần tăng vốn điều lệ đề Doãn Văn P166, Chủ tịch HĐQT Công ty F ký đề xuất phương án phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ của Công ty, số lượng cổ phần phát hành 191.250.000 cổ phần, tổng giá trị phát hành theo mệnh giá 1.912.500.000.000đồng và Nghị quyết số 09A/NQ-ĐHĐCĐ-FR ngày 22/7/2015 về việc thông qua chủ trương phát hành thêm cổ phần cho các cổ động hiện hữu để tăng vốn điều lệ của Công ty từ 1.125 tỷ đồng lên 3.037,5 tỷ đồng bằng việc phát hành thêm cổ phần.

Để hợp thức việc góp vốn không lần này, với cách thức thủ đoạn tương tự như các lần tăng vốn trước, từ ngày 08/07/2015 đến 18/11/2015, Trịnh Thị Minh H2 giao cho 15 cổ đông của Công ty F ký khống sẵn 38 Ủy nhiệm chỉ và 48 Giấy nộp tiền mặt để Trịnh Thị Minh H2 sử dụng các chứng từ ký không sẵn này làm thủ tục nộp tiền, chuyển tiền, rút tiền quay vòng nhiều lần từ tài khoản của các cổ đông đến tài khoản của Công ty F để tăng đủ 1.912,5 tỷ đồng. Sau đợt quay vòng nâng vốn này, số vốn điều lệ của Công ty F tăng lên thành 3.037,5 tỷ đồng, ghi nhận 2215 cố đông, gồm: (1) Doãn Văn P166 43.875.000.000 đồng; (2) Trần Thế A117 151.187.500.000 đồng; (3) Lê Thành V192 61.425.000.000 đồng; (4) Hương Trần Kiều D9 58.500.000.000 đồng; (5) Hoàng Thị Thu H179 302.000.000.000 đồng; (6) Lê Văn S39 54.112.500.000 đồng; (7) Phạm Thị H193 N65 55.575.000.000 đồng; (8) Nguyễn Văn T101 43.875.000.000 đồng; (9) Lê Tân S33 51.187.500.000 đồng; (10) Trương Văn T42 130.000.000.000 đồng; (11) Đặng Thị H36 260.000.000.000 đồng, (12) Phạm Thanh H62 162.015.750.000 đồng; (13) Nguyễn Văn M8 270.021.750.000 đồng; (14) Trịnh Văn Đ78 313.150.000.000 đồng và (15) Nguyễn Thiện P146 55.575.000.000 đồng.

Để hợp thức việc sử dụng vốn góp không, Trịnh Thị Minh H2 tiếp tục thực hiện các chứng từ để đưa cho Đỗ Như T131 và Nguyễn Thiện P74 kỷ 64 ủy nhiệm chi (không thực hiện việc chi thật) để Trịnh Thị Minh H2 làm thủ tục chuyên 1.851,95 tỷ đồng tử tài khoản của Công ty F đến tải khoản của T và 09 công ty khác nhau, hạch toán các chứng từ này trên sổ sách kế toán với nội dung hoàn trả tạm ứng, ủy thác đầu tư số tiền 1.698.153.081.818 đồng và thanh toán tiền hàng là 153.796.918.182 đồng, cụ thể: (1) 18 Ủy nhiệm chỉ chuyên 536 tỷ đồng hoàn trả tạm ứng cho T, (2) 15 Ủy nhiệm chỉ chuyển 335,1 tỷ đồng ủy thác đầu tư theo 04 hợp đồng cho Công ty TNHH Đầu tư thương mại và Xuất nhập khẩu VTX (hiện tại đổi tên thành Công ty TNHH Đầu tư và phát triển An Thịnh Đ198) do Nguyễn Bình P45 làm Giám đốc, đại diện theo pháp luật; (3) 06 Ủy nhiệm chỉ chuyển 210,65 tỷ đồng ủy thác đầu tư và thanh toán tiền hàng theo 04 hợp đồng cho Công ty NH Việt Nam do Lê Tân S33 (thư ký cho Trịnh Văn Q1) làm Giám đốc, đại điện theo pháp luật; (4) 02 Ủy nhiệm chỉ chuyến 48 tỷ đồng ủy thác đầu tư cho Công ty CP F Travel do Hương Trần Kiều D9 làm Giám đốc, đại diện theo pháp luật theo Hợp đồng ủy thác đầu tư số 06/2015/HDUTET/FR-NLH ngày 28/10/2015; (5) 10 Ủy nhiệm chỉ chuyển 252,2 tỷ đồng ủy thác đầu tư theo 5 hợp đồng cho Công ty TNHH Đầu tư thương mại và Xuất nhập khẩu Darmexco (hiện đổi tên thành Công ty TNHH Đầu tư thương mại và xuất nhập Tâm An) do Trịnh Thị Út X59 làm Giám đốc, đại diện theo pháp luật; (6) 05 Ủy nhiệm chỉ chuyển 136 tỷ đồng ủy thác đầu tư theo 05 hợp đồng cho Công ty TNHH Sản xuất và Xuất nhập khẩu HH (hiện đổi tên thành Công ty TNHH Thương mại dịch vụ và đầu tư phát triển Thịnh Phát) do Trịnh Thị Thúy N7 làm Giám đốc, đại diện theo pháp luật; (7) 02 Ủy nhiệm chỉ chuyển 92 tỷ đồng thanh toán tiền hàng cho Công ty Magnus Capital; (8) 01 Ủy nhiệm chỉ chuyến 35 tỷ đồng ủy thác đầu tư cho Công ty CP Đầu tư và Thương mại VL do Phạm Thị H193 N65 làm Giám đốc, đại diện theo pháp luật, theo Hợp đồng số 16/2015/HDUTET/FR-VL ngày 16/11/2015; (9) 03 Ủy nhiệm chỉ chuyển 162 tỷ đồng ủy thác đầu tư theo 02 hợp đồng cho Công ty CP Đầu tư F Việt Nam (hiện đổi tên thành Công ty CP Đầu tư thương mại và phát triển dịch vụ Phúc Thịnh) do Nguyễn Văn M8 (chồng Trịnh Thị Thúy N7) làm Giám đốc, đại diện theo pháp luật; (10) 02 Ủy nhiệm chỉ chuyển 45 tỷ đồng thanh toán tiền hàng cho Công ty FL. Đến ngày 09/12/2015, Doãn Văn P166, Chủ tịch HĐQT ký ban hành Nghị quyết số 13/NQ-ĐHĐCĐ FR về việc đăng ký tăng vốn điều lệ của Công ty là 3.037,5 tỷ đồng; giao cho Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty chỉ đạo, triển khai thực hiện các thủ tục thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật và Điều lệ Công ty, Giấy đề nghị đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp số 14/GDN-FR gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội đề nghị đăng ký thay đổi vốn điều lệ Công ty F. Ngày 16/12/2015, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty Cổ phần (thay đỗi lần 10) vốn điều lệ là 3.037 tỷ đồng, do Doãn Văn P166, Chủ tịch HĐQT, đại diện theo pháp luật, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Hoàng Thị Thu H179 là Thành viên HĐQT; Đỗ Như T131 là Tổng Giám đốc.

Lần 4: Tăng từ 3,037,5 tỷ lên 3.500 tỷ đồng (tăng thêm 462,5 tỷ đồng) Tiếp tục thực hiện tăng vốn điều lệ theo chủ trương của Trịnh Văn Q1, ngày 17/12/2015, Doãn Văn P166, Chủ tịch HĐQT Công ty F kỳ Tờ trình số 04/TTr-HĐQT-FR về phương án phát hành cổ phần tăng vốn điều lệ, nội dung đề xuất phương án phát hành cổ phần tăng vốn điều lệ của Công ty, phương thức phát hành: Chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ sở hữu hiện có tại Công ty, số lượng cổ phần phát hành: 46.250.000 cổ phần, tổng giá trị phát hành theo mệnh giá 462,5 tỷ đồng và Nghị quyết số 10/NQ-ĐHĐCD-FR ngày 18/12/2015 về việc thông qua chủ trương phát hành thêm cổ phần để tăng vốn điều lệ của Công ty, mội dung thông qua chân trương phát hành thêm cổ phần để tăng vốn điều lệ của Công y.

Để hợp thức việc góp vốn, ngày 08/01/2016, Trịnh Thị Minh H199 sử dụng 18 ngiấy nộp tiền mặt đứng tên 03 cá nhân, gồm: Đàm Quang C181 (anh rể họ Q1) góp 162,5 tỷ đồng, Trịnh T86 (cháu họ Q1) và Phạm Thị X182 (họ hàng Q1) mỗi người góp 150 tỷ đồng và đứng tên là cổ đông góp vốn vào Công ty F; 18 Hủy nhiệm chỉ do Đỗ Như T131, Tổng Giám đốc và Nguyễn Thiện P74, Kế toán trưởng Công ty F ký khống; 18 giấy rút tiền mặt do Nguyễn Thị Thanh H200, Hứa Thị Thùy D201 là nhân viên Kế toán ký khống để nộp tiền, chuyển tiền, rút tiền quay vòng góp vốn từ tài khoản của các cá nhân đến tài khoản của Công ty F rồi tiếp tục chuyển đến các công ty khác để tạo dòng tiền, hợp thức việc góp vốn không (thực chất không có tiền nộp). Bằng thủ đoạn như trên, sau 18 vòng nộp tiền, chuyển tiền, rút tiền do H2 thực hiện thì Công ty F tăng thêm 462,5 tỷ đồng tiền vốn góp và ghi nhận trên số sách kế toán vốn góp chủ sở hữu là 3.500 tỷ đồng.

Để hợp thức việc sử dụng vốn góp khống, Trịnh Thị Minh H2 soạn thảo để Đỗ Như T131, Tổng giám đốc ký 03 hợp đồng ủy thác đầu tư với tổng số tiền 462,5 tỷ đồng, cụ thể: (1) Hợp đồng số 01/2016/HDHTKD/FR-FUJIKAEN ngày 04/01/2016 ủy thác đầu tư 161 tỷ đồng cho Công ty CP Đầu tư F Việt Nam, (nay là Công ty CP Đầu tư thương mại và phát triển dịch vụ Phúc Thịnh) do Nguyễn Văn M8 làm Giám đốc, đại diện theo pháp luật (ngày 08/01/2016, Đỗ Như T131, Tổng Giám đốc đã ký 06 ủy nhiệm chỉ tổng số 161 tỷ đồng); (2) Hợp đồng số 02/2016/HDUTĐT/FR-HH ngày 04/01/2016 ủy thác đầu tư 150 tỷ đồng cho Công ty TNHH Sản xuất và Xuất nhập khẩu HH (nay đổi tên thành Công ty TNHH Thương mại dịch vụ và đầu tư phát triển Thịnh Phát) do Trịnh Thị Thủy N202 làm Giám đốc, đại diện theo pháp luật (ngày 08/01/2016, Đỗ Như T131 đã ký 06 ủy nhiệm chỉ tổng số tiền 150 tỷ đồng); (3) Hợp đồng số 03/2016/HDUTĐT/FR-NLH ngày 04/01/2016 ủy thác đầu tư 151,5 tỷ đồng cho Công ty TNHH NH Việt Nam do Lê Tân S33 làm Giám đốc, đại diện theo pháp luật (ngày 08/01/2016, Đỗ Như T131 đã ký 06 ủy nhiệm chỉ tổng số tiền 151,5 tỷ đồng).

Sau đó, ngày 13/01/2016, Doãn Văn P166 - Chủ tịch HĐQT ký ban hành Nghị quyết số 02/NQ-HĐQT-FR về việc đăng ký tăng vốn điều lệ của Công ty, nội dung: "... thông qua việc đăng ký tăng vốn điều lệ của Công ty F; vốn điều lệ đã đăng ký: 3,037,5 tỷ đồng, vốn điều lệ sau khi tăng thêm: 3.500 tỷ đồng"; ký Giấy đề nghị số 01/GĐN-FR ngày 20/01/2016 gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội đăng ký thay đổi vốn điều lệ là 3.500 tỷ đồng. Ngày 27/01/2016, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty Cổ phần thay đổi lần thứ 11, vốn điều lệ tăng lên 3.500 tỷ đồng, do Doãn Văn P166, Chủ tịch HĐQT, đại diện theo pháp luật; Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Hoàng Thà Thu Hà là Thành viên HĐỘT, Đỗ Như T131 là Tổng Giám đốc.

Như vậy, đến lần tăng vốn thử 4 này, Công ty F đã tăng số vốn góp chủ sở hữu lên 3.500 tỷ đồng. Về chủ trương tăng vốn và nguồn tiền quay vòng để hợp thức việc nâng khống vốn góp từ 1,5 tỷ đồng lên thành 3.500 tỷ đồng do Trịnh Văn Q1 quyết định và chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 thực hiện nên sau khi Công ty F ghi nhận trên sổ sách kế toán có số vốn góp chủ sở hữu là 3.500 tỷ đồng, Trịnh Văn Q1 đã chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 soạn thảo 12 hợp đồng đề ngày 28/01/2016 để 12 cả nhân đứng tên là cổ đông Công ty Farros ký chuyển nhượng lại 179.708.750 cổ phần, tương đương 1.797.087.500.000 đồng chiếm 51,3% vốn điều lệ của Công ty Farros cho Trịnh Văn Q1 đứng tên sở hữu nhưng thực tế không phát sinh thanh toán chuyển nhượng, gồm: Đặng Thị H36 chuyển nhượng 28.800.000 cổ phần; Hoàng Thị Thu H179 chuyển nhượng 27.000.000 cổ phần; Trần Thế A117 chuyển nhượng 9.056.250 cổ phần; Doãn Văn P166 7,762.500 cổ phần; Lê Thành V192 10.867.500 cổ phần, Nguyễn Văn T101 7.762.500 cổ phần; Nguyễn Thiện P74 9.832.500 cổ phần; Lê Văn S39 9.573.750 cổ phần; Phạm Thị H193 N65 9.832.500 cổ phần; Trịnh Văn Đ78 39.815.000 cổ phần; Hương Trần Kiều D9 10.350.000 cổ phần; Lỡ Tân Sơn 9.056.250 cổ phần; đồng thời các cá nhân giúp Quyết đứng tên cổ đồng còn ký các hợp đồng chuyển nhượng cổ phần cho nhau nhưng thực tế không phát sinh thanh toán chuyển nhượng, cụ thể:

Ngày 18/01/2016: Hương Trần Kiều D9 với vai trò là Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH MTV FL ký 01 hợp đồng nhận chuyển nhượng 8.380.000 cổ phần với giả 83,8 tỷ đồng của Phạm Thanh H62, 01 hợp đồng nhận chuyển nhượng 14.100.000 cổ phần với giá 141 tỷ đồng của Nguyễn Văn M8; với vai trò là Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Địa ốc Khánh Hòa F ký 01 Hợp đồng nhận chuyển nhượng 4.550.000 cổ phần với giá 45,5 tỷ đồng của Phạm Thanh H62 và 01 hợp đồng nhận chuyển nhượng 5.970.000 cổ phần với giá 59,7 tỷ đồng của Nguyễn Văn M8, với vai trò là Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển F Vĩnh Phúc ký 01 hợp đồng nhận chuyển nhượng 10.350,000 cổ phần với giá 103,5 tỷ đồng của Phạm Thanh H62.

Bùi Hải H170, Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH MTV Quản lý khách sạn và khu nghỉ dưỡng F ký 01 hợp đồng nhận chuyển nhượng 5.250.000 cổ phần với giá 52,5 tỷ đồng của Phạm Thanh H62, 01 hợp đồng nhận chuyển nhượng 15.450.000 cổ phần với giá 154,5 tỷ đông của Nguyễn Văn M8.

Ngày 28/01/2016: Lê Thị Ngọc D (vợ Quyết) ký 01 hợp đồng nhận chuyển nhượng 1.500.000 cổ phần với giá 15 tỷ đồng của Trịnh Văn Đ78; 01 hợp đồng nhận chuyển nhượng 23.000.000 cổ phần với giá 230 tỷ đồng của Trương Văn T42, Lê Văn S39 ký 01 hợp đồng nhân chuyển nhượng 5.000 cổ phần với giá 50 tỷ đồng của Đặng Thị H36.

Sau khi thực hiện việc chuyển nhượng lại cổ phần như trên, tỉnh đến ngày 28/01/2016, cơ cấu cổ đông Công ty F gồm:

1. Trịnh Văn Q1 sở hữu 179.708.750 cổ phần, chiếm tỷ lệ 51%;

2. Lê Thị Ngọc D sở hữu 24.500.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 7,0%;

3. Đặng Thị H36 sở hữu 17.200.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 4,91%;

4. Phạm Thanh H62 sở hữu 134.325 cổ phần, chiếm tỷ lệ 0,04%;

5. Nguyễn Văn M8 sở hữu 2.456.925 cổ phần, chiếm tỷ lệ 0,71%;

6. Hoàng Thị Thu H179 sở hữu 15.700.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 4,49%;

7. Đàm Quang C181 sở hữu 16.250.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 4,64%;

8. Phạm Thị X182 sở hữu 15.000.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 4,29%;

9. Trịnh T86 sở hữu 15.000.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 4,29%;

10. Công ty TNHH MTV FL sở hữu 22.480.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 6,42%;

11. Công ty TNHH Đầu tư và phát triển F Vĩnh Phúc sở hữu 10.350.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 2,96%;

12. Công ty TNHH MTV Quản lý khách sạn và khu nghỉ dưỡng F sở hữu 20.700.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 5,91%;

13. Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Địa ốc Khánh Hoà sở hữu 10.520.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 3,01%.

Lần 5: Tăng từ 3.500 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng (tăng thêm 800 tỷ đồng) Với mục đích tiếp tục tăng vốn điều lệ của Công ty F, Trịnh Văn Q1 bản bạc với Doãn Văn P166 và chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 cùng các đồng phạm thực hiện bằng hình thức hoán đổi nhận chuyển nhượng cổ phần của Công ty CP đầu tư tài chính RTS, do Nguyễn Thanh B24 (bạn của Q1) làm Chủ tịch HĐQT, có vốn điều lệ đăng ký là 800 tỷ đồng để làm tăng vốn điều lệ cho Công ty F từ 3,500 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng. Thời điểm này Công ty RTS có 03 cổ đông là người thân quen do Q1 nhờ đứng tên giúp, gồm: (1) Trịnh Văn Đ78 nắm giữ 57,950.000 cổ phần bằng tổng giá trị 579,5 tỷ đồng; (2) Nguyễn Văn M8 năm giữ 25.050.000 cổ phần bằng tổng giá trị 200,5 tỷ đồng (3) Nguyễn Thị P79 nắm giữ 2.000.000 cố phần bằng tổng giá trị 20 tỷ đồng.

Để thực hiện mục đích trên, Trịnh Thị Minh H2 đã soạn thảo để Doãn Văn P166 - Chủ tịch HĐQT Công ty F kỳ các văn bản: Tờ trình số 01/TTr-HĐQT ngày 17/02/2016 về việc tăng vốn điều lệ của Công ty và nhận chuyển nhượng cổ phần của Công ty RTS, nội dung dự kiến tăng vốn điều lệ lên 4.300 tỷ đồng; hình thức tăng vốn điều lệ: Công ty phát hành thêm cổ phần (phát hành riêng lẻ) và toàn bộ số cổ phần phát hành thêm được các cổ đông hiện hữu đồng ý cho Công ty dùng để thanh toán theo hợp đồng nhận chuyển nhượng 80.000.000 cổ phần Công ty RTS; Nghị quyết số 01/NQ-ĐHĐCĐ FR ngày 29/02/2016 về việc thông qua phương án chào bán cổ phần riêng lẻ tăng vốn điều lệ của Công ty và Nghị quyết số 02/NQ-ĐHĐCĐ-FR về việc thông qua chủ trương nhận chuyển nhượng cổ phần của Công ty RTS.

Sau khi hoàn thiện thủ tục sáp nhập Công ty RTS có vốn góp chủ sở hữu là 800 tỷ đồng, tương đương 80 triệu cổ phần vào Công ty F thì các cổ đông giúp Quyết đứng tên tại Công ty RTS trở thành cổ đông của Công ty F, ghi nhận số vốn góp chủ sở hữu của Công ty F là 4.300 tỷ đồng. Ngày 21/3/2016, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hà Nội cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty cổ phần thay đổi lần thứ 12, vốn điều lệ tăng lên 4.300 tỷ đồng cho Công ty F, do Doãn Văn P166 là Chủ tịch HĐQT, đại diện theo pháp luật; Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Hoàng Thị Thu H179 là Thành viên HĐQT; Đỗ Như T131 là Tổng Giám đốc.

Như vậy, trong 5 lần tăng vốn điều lệ của Công ty F, cơ quan điều tra đã làm rõ được phương thức, thủ đoạn nâng khống vốn góp của Trịnh Văn Q1 và các đồng phạm như đã nêu trên. Số lần tăng vốn và số tiền tăng mỗi lần đều do Trịnh Văn Q1 và Doãn Văn P166 bàn bạc, sau đó Quyết trực tiếp yêu cầu Trịnh Thị Mình H203 chuẩn bị nguồn tiền, trao đổi với các nhân sự liên quan để thực hiện việc tăng vốn. Sau mỗi lần tăng vốn hoàn thành, Doãn Văn P166 đều thông báo kết quả với Trịnh Văn Q1.

Tài liệu điều tra xác định, Công ty F chỉ có số vốn thực góp là 1.197.511.082.182 đồng/4.300 tỷ đồng vốn điều lệ, bao gồm 1,5 tỷ đồng vốn điều lệ khi mua Công ty Green Belt; 29.064.164.000 đồng trả tiền cho nhà thầu lần tăng vốn thứ 2; 214.346.918.182 đồng thanh toán cho nhà thầu, thanh toán tiền hàng lần tăng vốn thứ 3; 400 tỷ đồng vốn góp của Công ty RTS lần tăng vốn thứ 5 và 552,6 tỷ đồng thu hồi từ khoản ủy thác đầu tư để thanh toán cho các nhà thầu, thanh toán tiền hàng. Toàn bộ thủ tục, chứng từ góp vốn, sử dụng vốn góp với tổng số tiền năng không là 3.102.488.917.818 đồng 4.300 tỷ đồng vốn điều lệ của Công ty F được thực hiện bằng các hợp đồng ủy thác đầu tư khống cho các tổ chức và cá nhân, nhằm mục đích tạo dòng tiền, doanh thu, lợi nhuận giả để hạch toán chứng từ gian dối này vào số sách kế toán, báo cáo tài chính và ghi nhận những thông tin này vào bản cáo bạch của Công ty F.

Sau khi hoàn tất việc nâng vốn điều lệ của Công ty F lên 4.300 tỷ đồng, Trịnh Văn Q1 và Doãn Văn P166 tiếp tục bản bạc việc niêm yết cổ phiếu của Công ty F trên sản chứng khoán. Trong đó, Doãn Văn P166 xây dựng phương án, Trịnh Văn Q1 phê duyệt đồng ý để người thân trong công ty và các lãnh đạo, nhân viên Công ty F như: Đỗ Như T131, Nguyễn Thiện P74, Hương Trần Kiểu Dung, Lê Thành V27... tổ chức thực hiện. Trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh vướng mắc thì Doãn Văn P166 và người có liên quan sẽ bảo cáo với Quyết để Quyết chỉ đạo Phương và người có liên quan thực hiện theo ý kiến của Quyết hoặc giao trực tiếp cho Doãn Văn P166 chủ động xử lý và chỉ đạo cụ thể, nhằm đạt được mục đích niêm yết 430 triệu cổ phiếu tương ứng với 4.300 tỷ đồng vốn điều lệ của Công ty F để bán cho nhà đầu tư chứng khoán tại Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (trong đó có 3.102.488.917.818 đồng là vốn chủ sở hữu khống).

2. Các hành vi thực hiện thủ tục để niêm yết cổ phiếu ROS trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh.

2.1. Thủ tục kiểm toán các báo cáo tài chính và đăng ký công ty đại chúng của Công ty F Để niêm yết cổ phiếu tại Sở Giao dịch Chứng khoán, Công ty F phải thực hiện kiểm toán bảo cáo tài chính năm 2014, năm 2015 và 06 tháng năm 2016; để nghị chấp thuận công ty đại chúng, đăng ký, lưu ký chứng khoán và niêm yết 430 triệu cổ phiếu ROS để giao dịch trên thị trường chứng khoán. Theo quy định tại Thông tư số 202/2015/TT-BTC ngày 18/12/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về niêm yết chứng khoản trên Sở Giao dịch chứng khoán; khoản 3 Điều 3: “Các thông tin, số liệu trong hồ sơ, bản cáo bạch phải căn cứ vào báo cáo tài chính được kiểm toán:...b) Ý kiến kiểm toán đối với khoản mục vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ đã góp phải là ý kiến chấp thuận toàn phần. Trường hợp ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính là ý kiến ngoại trừ, thì yếu tố ngoài trừ không phải là khoản mục vốn chủ sở hữu và khoản mục trọng yếu khác như: tiền mặt, hàng tồn kho, tài sản cố định, các khoản phải thu, nợ phải trả", Ngày 30/12/2015, Đỗ Như T131, Tổng Giám đốc Công ty F và ông Lê Văn Dò, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH Kiểm toán và Kẻ toàn Hà Nội ký Hợp đồng kiểm toán Báo cáo tài chính của Công ty F năm 2014, 2015 và 3 tháng đầu năm 2016 với giá trị 100 triệu đồng.

Khi thực hiện hợp đồng kiểm toán các báo cáo tài chính năm 2014, năm 2015 và 3 tháng đầu năm 2016 của Công ty F để lập hồ sơ đề nghị niêm yết, biết báo cáo tài chính của Công ty F chưa đủ cơ sở để chấp nhận toàn phần nhưng Lê Văn Dò và Lê Văn T120, Kiểm toán viên đã cùng ký ban hành các Báo cáo kiểm toán độc lập của Công ty F, gồm: Báo cáo kiểm toán số 78/2016 ngày 15/01/2016 kiểm toán Báo cáo tài chính từ ngày 01/01/2014 đến ngày 31/12/2014; Báo cáo kiểm toán số 79/2016 ngày 29/3/2016 kiểm toán Báo cáo tài chính từ ngày 01/01/2015 đến ngày 31/12/2015; Báo cáo kiểm toán số 113 ngày 05/5/2016 kiểm toán vốn góp của chủ sở hữu từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/3/2016 đều có nội dung chấp nhận toàn phần đối với các báo cáo tài chính, báo cáo vốn góp của chủ sở hữu của Công ty F.

Ngày 20/4/2016, Doãn Văn P166, Chủ tịch HĐQT Công ty F ký Vân bản số 51/2016/FR gửi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đề nghị xem xét và chấp thuận việc đăng ký công ty đại chúng, kèm theo hồ sơ liên quan. Hồ sơ đăng ký công ty đại chúng của Công ty F do Vụ Giám sát công ty đại chúng UBCKNN thực hiện thẩm định. Quá trình thẩm định, Vụ giám sát công ty đại chúng đã phát hiện báo cáo kiểm toán không đúng quy định pháp luật vì bằng chứng kiểm toán chưa đủ căn cứ để đưa ra ý kiến chấp thuận toàn phần. Ngày 29/4/2016, Lê Công Điền, Vụ trưởng Vụ Giám sát công ty đại chúng đã ký Văn bản số 2270/UBCK- GSĐC đề nghị Công ty F giải trình làm rõ một số nội dung: (1) Quá trình tăng vốn của công ty: Trước thời điểm công ty nộp hồ sơ đăng ký công ty đại chúng, công ty đã thực hiện các đợt tăng vốn từ 1,5 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng trong năm 2014, 2015 và 2016, UBCKNN đề nghị công ty giải trình và cung cấp các tài liệu liên quan đến quá trình góp vốn và sử dụng vốn thu được từ các đợt tăng vốn, bao gồm: Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông thông qua việc tăng vốn và sử dụng vốn; Nghị quyết HĐQT triển khai việc tăng vốn và sử dụng vốn (nếu có); Hình thức góp vốn, chứng từ góp vốn và tài liệu chứng minh việc sử dụng vốn... Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp các lần thay đổi; (2) Tình hình biến động cổ đông: Để xác định thời điểm Công ty trở thành Công ty đại chúng, UBCKNN đề nghị Công ty cung cấp thông tin về việc chuyển nhượng cổ phiếu của các cổ đông để tăng số lượng cổ đông lên 114 cổ đông vào ngày 20/4/2016; Báo cáo thời điểm công ty có ít nhất 100 cổ đông (không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp) và vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ đồng trở lên; (3) Về báo cáo tài chính: Đề nghị công ty giải trình có xác nhận của công ty kiểm toán và cung cấp tài liệu về việc ghi nhận và trình bày khoản mục đầu tư dài hạn khác và khoản mục người mua trả tiền trước tại Báo cáo tài chính kiểm toán 2014; khoản mục phải thu về cho vay ngắn hạn, tài sản đải hạn khác và khoản mục người mua trả tiền trước ngắn hạn tại Báo cáo tài chính kiểm toán năm 2015; Bổ sung báo cáo kiểm toán vốn hoặc báo cáo tài chính kiểm toán tại thời điểm gần nhất sau thời điểm tăng vốn trong năm 2016; (4) Về Điều lệ và Bản thông tin tôm tất của Công ty: Vốn cổ phần tại Điều 3 và Điều 7 Điều lệ công ty không khớp giữa phần số và phần chữ, tại Bản Thông tin tóm tắt về công ty đại chúng của Công ty, chức danh Ban kiểm soát của Nguyễn Văn T101 và bà Đinh Thái Hiệp không khớp ở phần nội dung.

Ngày 05/5/2016, Đỗ Như T131, Tổng Giám đốc Công ty F ký Công văn số 57/CV-FR giải trình về mục 3 báo cáo tài chính có xác nhận của kiểm toán, trong đó giải trình về các khoản tiền đầu tư dài hạn, ngắn hạn; khoản tiền ứng trước được thể hiện trong Báo cáo tài chính năm 2014, năm 2015 của Công ty F. Ngày (09/5/2016, Doãn Văn P166, Chủ tịch HĐQT Công ty F tiếp tục ký Công văn số 59/FR-CV gửi UBCKNN bổ sung hồ sơ đăng ký Công ty đại chúng, trong đó khẳng định Công ty F có vốn điều lệ thực góp đạt 4,300 tỷ đồng và có 114 cổ đông.

Do nhận thấy báo cáo tài chính và xác nhận kiểm toán còn nhiều mâu thuẫn, ngày 17/5/2016, bà Lê Thị Thu H204, Phó Vụ trưởng Vụ Giám sát công ty đại chúng UBCKNN và Hoàng Thị Nhị H205, Nguyễn Văn H206, Chuyên viên đã làm việc với CPA Hà Nội, có sự tham gia của bà Hà Thị Ngọc H207, Phó Chủ tịch Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA). Cuộc họp đã lập biên bản làm việc xác định: Thủ tục kiểm toán và các bằng chứng kiểm toán chưa đầy đủ để đưa ra ý kiến chấp thuận toàn phần đối với báo cáo tài chính của Công ty CP Xây dựng F, ý kiến kiểm toán là chưa phù hợp và yêu cầu CPA Hà Nội thực hiện kiểm toán và phát hành lại báo cáo kiểm toán.

Sau đó CPA Hà Nội không thực hiện kiểm toán lại nhưng Lê Văn T120, Kiểm toán viên vẫn cùng Nguyễn Ngọc T145, Tổng giám đốc ký, ban hành 03 báo cáo kiểm toán độc lập, gồm: (1) Báo cáo kiểm toán độc lập số 122/2016 thay thế Báo cáo kiểm toán độc lập số 78/2016 ngày 15/01/2016; (2) Báo cáo kiểm toán độc lập số 123/2016 thay thế Báo cáo kiểm toàn độc lập số 79/2016 ngày 29/3/2016; (3) Báo cáo kiểm toán độc lập số 120/2016 ngày 30/5/2016 thay thế Bảo cáo kiểm toán số 113/2016 ngày 05/5/2016. Các báo cáo kiểm toán mới đều có nội dung chấp nhận toàn phần đối với các báo cáo tài chính, báo cáo vốn góp của chủ sở hữu Công ty F như các báo cáo kiểm toán ban đầu; chỉ bổ sung mục "Laru ý người đọc bảo cáo tài chính", với nội dung: “Không phủ nhận ý kiến chấp nhận toàn phần nêu trên, chúng tôi chỉ muốn lưu ý người sử dụng báo cáo vấn đề sau đây: Một số giao dịch về ủy thác đầu tư trong kỳ phát sinh bằng tiền mặt với giá trị lớn"; "Trong năm 2015, đơn vị có ủy thác đầu tư cho một số tổ chức và cả nhân với số tiền là 3.332.616.363.488 đồng. Một số giao dịch về ủy thác đầu tư trong kỷ phát sinh bằng tiền mặt giá trị lớn. Trong kỳ công ty có ghi nhận doanh thu hoạt động tài chính số tiền 105.740.247.890 đồng. Số tiền này sẽ thu được khi kết thúc thời hạn của hợp đồng ủy thác đầu tưr"...

Như vậy, mặc dù không đủ cơ sở để đưa ra ý kiến chấp thuận toàn phần nhưng Lê Văn T120 đã cùng Nguyễn Ngọc T173 ký ban hành các Báo cáo kiểm toán có nội dung chấp thuận toàn phần đối với Báo cáo tài chính năm 2014, năm 2015 và Bảo cáo vốn góp của chủ sở hữu từ ngày 01/01/2016 đến ngày 21/3/2016 của Công ty F trái quy định, vi phạm các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.

Ngày 21/11/2022, cơ quan CSĐT Bộ Công an ban hành Quyết định số 86/QĐ-VPCQCSĐT(P4) trưng cầu Giảm định viên Bộ Tài chỉnh giảm định đối với việc ban hành các báo cáo kiểm toàn nêu trên. Ngày 22/9/2023, Giám định viên Bộ Tài chính dã ban hành Kết luận giảm định, xác định: "Hồ sơ kiểm toán chưa cung cấp đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp làm cơ sở để Kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần tại các báo cáo kiểm toán....". Trịnh Văn Q1 và đồng phạm đã sửdụng các báo cáo kiểm toán nêu trên để làm hồ sơ đề nghị và được niêm yết cổ phiếu của Công ty F trên sản HOSE, từ đó sử dụng sàn HOSE để thực hiện hành vi bán 391.155.480 cổ phiếu được đăng ký niêm yết trên cơ sở số vốn điều lệ khống và đã chiếm đoạt 3.621.082.083.518 đồng của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.

Tại cơ quan điều tra, các bị cáo Nguyễn Ngọc T173 và Lê Văn T120 thừa nhận: Các Báo cáo tài chính năm 2014, năm 2015 và Báo cáo vốn chủ sở hữu từ ngày 01/01/2016 đến ngày 21/3/2016 của Công ty F và các tài liệu thu thập được không đủ căn cứ để đưa ra ý kiến chấp thuận toàn phần theo chuẩn mực kiểm toán nhưng vẫn ban hành Báo cáo kiểm toán có nội dung chấp thuận toàn phần đối với các Báo cáo tài chính và Báo cáo vốn góp chủ sở hữu của Công ty F trái quy định. Nguyên nhân dẫn đến sai phạm là do T và các công ty trong hệ sinh thái là khách hàng lớn, thường xuyên nên việc ban hành báo cáo kiểm toán theo ý muốn của doanh nghiệp, mặc dù biết là trái quy định, nhưng các bị cáo vẫn thực hiện để được để được thanh toán tiền hợp đồng kiểm toán.

Sau khi có các Báo cáo kiểm toán thay thế nêu trên, ngày 24/6/2016, Đỗ Như T131, Tổng Giám đốc Công ty F tiếp tục ký Văn bản số 91/FR-CV gửi UBCKNN báo cáo về việc Công ty đã nộp đầy đủ hồ sơ và giải trình, đề nghị sớm - có văn bản chấp thuận Công ty F là công ty đại chúng.

Khi tiếp nhận lại hồ sơ và công văn nêu trên của Công ty F, ngày 30/6/2016, Lê Công Đ174 ký báo cáo kèm Tờ trình số 315/TTr-GSĐC gửi ông Vũ Bằng, Chủ tịch UBCKNN về hồ sơ đăng ký công ty đại chúng của Công ty F và đề xuất phê duyệt chấp thuận Công ty F là công ty đại chúng, nội dung:

"- Kết quả làm việc với Công ty TNHH Kiểm toán và kế toán Hà Nội: Do các Báo cáo kiểm toán cùn F có nhiều vấn đề cần phải làm rõ, Vụ Giám sát công ty đại chúng đã phối hợp với VACPA làm việc với CPA Hà Nội thừa nhận thủ tục kiểm toán và các bằng chứng kiểm toán chưa đầy đủ để làm cơ sở đưa ra ý kiến chấp thuận toàn phần đối với Báo cáo tài chính năm 2014, năm 2015, Báo cáo góp vốn chủ sở hữu từ 01/01/2016 đến 21/3/2016 của F; Ý kiến kiểm toán đưa ra đối với các Báo cáo tài chính nêu trên là chưa phù hợp. CPA Hà Nội đề nghị đề CPA Hà Nội sẽ làm việc với F để thu thập bổ sung các bằng chứng kiểm toán, thực hiện các thủ tục bổ sung để phát hành lại Báo cáo kiểm toán đối với các Báo cáo tài chính nêu trên của F; Sau đó, CPA Hà Nội đã phát hành lại 02 Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính năm 2015 và Báo cáo vốn chủ sở hữu từ 01/01/2016 đến 21/3/2016 của F. Tuy nhiên, các Báo cáo này còn một số vấn đề sau: Báo cáo kiểm toán vốn chủ sở hữu có ý kiến kiểm toán không phù hợp vì về hình thức là Báo cáo kiểm toán có ý kiến chấp nhận toàn phần với một đoạn lưu ý nhưng nội dung là ý kiến ngoại trừ và phạm vi ngoại trừ quá lớn; Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính năm 2015 cỏ ý kiến không phù hợp vi phạm vi lưu ý quá lớn và CPA Hà Nội không có đánh giá về khả năng thu hồi các khoản phải thu dài hạn....

- Về việc đáp ứng điều kiện là công ty đại chúng: Vốn điều lệ (theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thay đổi lần thứ 12 ngày 21/3/2016): 4.300 tỷ đồng, Số lượng cổ đông tại 20/4/2016: 114 cổ đông. Như vậy, căn cứ tài liệu do Công ty cung cấp, Công ty cơ bản đáp ứng điều kiện là công ty đại chúng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 25 Luật chứng khoán;

- Về hồ công ty sơ đại chúng: Hồ sơ công ty đại chúng của công ty cơ bản đã đầy đủ theo quy định tại Điều 33 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP. Tuy nhiên, hồ sơ công ty có một số điểm lưu ý sau: "Báo cáo tài chính kiểm toán năm 2015 và báo cáo kiểm toán vốn chủ sở hữu có ý kiến không phù hợp. Những điểm lưu ý tại kiểm toản cho thấy công ty tăng vốn lớn đi kèm các khoản phải thu lớn, chưa đủ cơ sở để khẳng định chắc chắn về vốn chủ sở hữu đã thực góp của các cổ đông cũng như tính hiện hữu đối với các khoản phải thu ủy thác; Bản thông tin tóm tắt của công ty chưa có thông tin về các khoản cho vay, ủy thác (3.720 tỷ đồng) của công ty và Công ty CP Đầu tư tài chính và quản lý tài sản RTS (800 tỷ đồng) mà các khoản này tương ứng với toàn bộ vốn tăng thêm của Công ty CP Xây dựng F trong các năm 2014, 2015, 2016;

* Ý kiến của Vụ giám sát công ty đại chúng: Mặc dù, hồ sơ đăng ký đại chúng của Công ty F còn một số tồn tại nêu trên nhưng theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Chứng khoán, công ty phải nộp hồ sơ đăng ký công ty đại chúng trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày trở thành công ty đại chúng và công ty đã nộp đủ danh mục hồ sơ theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Chứng khoán. Để doanh nghiệp sớm hoàn thành nghĩa vụ đăng ký công ty đại chúng, công khai, minh bạch thông tin về tỉnh hình tài chính, hoạt động kinh doanh, đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông, nhà đầu tư, Vụ Giám sát công ty đại chúng ký trình Chủ tịch UBCKNN Nhà nước giao Vụ Giám sát đại chúng: Gửi Công văn chấp thuận hồ sơ công ty đại chúng của Công ty và đề nghị Công ty thực hiện một số nội dung sau (Dự thảo Công văn đính kèm): Đề nghị Công ty giải trình hồ sơ có xác nhận của công ty kiểm toán khác để làm rõ nội dung trên; Công ty phải công bố thông tin về việc đăng ký công ty đại chúng trong thời gian 07 ngày kể từ ngày UBCKNN công bố chấp thuận hồ sơ đăng ký công ty đại chúng của Công ty trên website của UBCKNN theo quy định tại Điều 35 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP. Trong đó, Bản thông tin tóm tắt về công ty cần bồ sung thông tin về các khoản phải thu ủy thác, cho vay theo quy định tại Phụ lục số 08 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP (điểm 14 Mục 1); gửi công văn đến Phòng Thông tin và quan hệ công chúng đăng website UBCKNN các thông tin về Công ty theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP; gửi Công văn đến Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội để phối hợp quản lý theo thẩm quyền đối với các đợt tăng vốn của Công ty trước thời điểm đăng ký công ty đại chúng, gửi Công văn đến 02. Sở Giao dịch Chứng khoán để lưu ý việc giám sát xem xét theo thẩm quyền trong trường hợp Công ty đăng ký niêm yết, giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán. Kính trình Chủ tịch xem xét, cho ý kiến chỉ đạo".

Cùng ngày 30/6/2016, ông Vũ Bằng có ý kiến: "Đồng ý, Tiếp tục cùng công ty và kiểm toán làm tô". Thực hiện ý kiến của ông Vũ Bằng, ngày 01/7/2016 Lê Công Đ174 ký Công văn số 4298/UBCK-GSĐC (Công văn 4298) gửi Công ty F, nội dung: ".... để Công ty sớm thực hiện nghĩa vụ của công ty đại chúng về báo cáo, công bố thông tin, quản trị công ty và tăng cường tỉnh công khai, minh bạch thông tin về Công ty, UBCKNN chấp thuận hồ sơ đăng ký công ty đại chúng của Công ty ... và đề nghị Công ty thực hiện một số nội dung sau:

1. Công ty phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tăng vốn điều lệ và chuyển nhượng cổ phần của Công ty trước thời điểm đăng ký đại chúng với UBCKNN, đồng thời tiếp tục làm rõ và bổ sung vào Bản công bố thông tin các nội dung sau:

- Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông số 01/ĐHĐCĐ-VH ngày 24/4/2014 của công ty chưa thông qua mục đích sử dụng vốn thu được từ đợt tăng vốn từ 1,5 tỷ đồng lên 225 tỷ đồng.

- Khoản mục đầu tư tài chính dài hạn (ủy thác đầu tư cho 02 cá nhân) thời điểm cuối năm 2014 là 750 tỷ đồng, lớn hơn gấp 3 lần vốn chủ sở hữu của công ty (225 tỷ đồng).

- Tại thời điểm cuối năm 2015, vốn góp chủ sở hữu là 3,037,5 tỷ đồng nhưng công ty thực hiện ủy thác đầu tư cho 07 tổ chức và 07 cá nhân tổng số tiền là 3,332,6 tỷ đồng, lớn hơn vốn chủ sở hữu của công ty.

- Cơ sở pháp lý về hoạt động ủy thác đầu tư nêu trên; Tài sản đảm bảo cho các khoản ủy thác đầu tư (hơn 3.700 tỷ đồng tại thời điểm 21/3/2016), cơ sở công ty lựa chọn các cá nhân và tổ chức này để ủy thác đầu tư thay vì đầu tư vào các tổ chức tài chính chuyên nghiệp. Đánh giá rủi ro của các hoạt động ủy thác đầu tư, việc ghi nhận doanh thu hoạt động tài chính (105,7 tỷ đồng năm 2015) sẽ thu được khi kết thúc thời hạn của hợp đồng ủy thác đầu tư.

Đợt tăng vốn 462,5 tỷ đồng cho 03 cổ đông góp vốn nhưng tương ứng với mỗi lệnh chuyển tiền đến, ngay lập tức có một lệnh chuyên tiền đi liên tục 18 lần, các lệnh chuyển tiền đến và đi cho bên nhận ủy thác được thực hiện ngay trong ngày (08/01/2016). Với các đợt tăng vốn trong năm 2014 và 2015, do Công ty chưa cung cấp sao kê ngân hàng, sổ quỹ, các tài liệu liên quan đến việc sử dụng vốn, việc chuyển nhượng vốn cổ phần giữa các cổ đông nên chưa có cơ sở đánh giá chính xác về tỉnh hình góp vốn và sử dụng vốn của Công ty.

Bên cạnh đó, công ty cần giải trình và bổ sung tài liệu liên quan đến giá trị vốn góp của Công ty CP Đầu tư tài chính và Quản lý tài sản RTS (RTS) trong đợt phát hành riêng lẻ 80 triệu cổ phiếu hoán đổi cổ phần, ghi nhận tăng vốn chủ sở hữu của Công ty tương ứng 800 tỷ đồng (CPA Hà Nội không đưa ra ý kiến về vốn góp 800 tỷ đồng của RTS cũng như ảnh hưởng của khoản mục này tới vốn góp của Công ty tại Báo cáo kiểm toán về Báo cáo vốn góp chủ sở hữu của Công ty trong giai đoạn từ 01/01/2016 đến 21/3/2016).

Ngoài ra, CPA Hà Nội thừa nhận thủ tục kiểm toán và các bằng chứng kiểm toán của CPA Hà Nội chưa đầy đủ để làm cơ sở đưa ra ý kiến chấp thận toàn phần đối với Báo cáo tài chính (BCTC) năm 2014, năm 2015 và ý kiến kiểm toán đưa ra đối với các BCTC nêu trên là chưa phù hợp. CPA Hà Nội đã phát hành Bảo cáo kiểm toán về BCTC năm 2015 và Báo cáo vốn góp chủ sở hữu của Công ty từ ngày 01/01/2016 đến 21/3/2016 thay thế nhưng ý kiến kiểm toán tại các báo cáo này không phù hợp vì phạm vi lưu ý quá lớn. Do đó, Công ty cần phối hợp với công ty kiểm toán khác (không phải là Công ty TNHH Kiểm toàn và Định giả Thăng Long T.D.K; Công ty TNHH Kiểm toán và Tu vẫn tải chính quốc tế và CPA Hà Nội) trong danh sách được UBCKNN chấp thuận thực hiện kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoản để làm rõ các nội dung trên đây và những vấn đề còn tồn tại trong BCTC kiểm toán 2014, 2015 và báo cáo kiểm toán vốn chủ sở hữu giai đoạn từ 01/01/2016 đến 21/3/2016".

Ngày 04/7/2016, Lê Công Đ174 ký tiếp Công văn số 4308/UBCK-GSĐC (Công văn 4308) gửi Sở Kế hoạch và đầu tư TP Hà Nội về việc tăng vốn của Công ty F, nội dung: Ngày 01/7/2016, UBCKNN Nhà nước đã chấp thuận hồ sơ đăng ký công ty đại chúng của Công ty F... Trong khoảng thời gian từ 20/4/2014 đến 21/3/2016, Công ty đã thực hiện 05 đợt phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ từ 1,5 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng trước thời điểm trở thành công ty đại chúng thuộc thẩm quyền xem xét của quý Sở theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán và theo quy định tại Điều 123, 124 Luật Doanh nghiệp 2014... Vì vậy, UBCKNN thông báo để quý Sở được biết và quản lý theo thẩm quyền".

Ngày 04/7/2016, Lê Thị Thu H204, Phó Vụ trưởng Vụ Giám sát công ty đại chúng ký Công văn số 4309/UBCK-GSĐC gửi Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chi Minh và Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hà Nội thông báo về việc tăng vốn của Công ty F, nội dung: Ngày 01/7/2016, UBCKNN đã có Công văn số 4298/UBCK-GSDC chấp thuận hồ sơ đăng ký công ty đại chúng của Công ty F theo quy định của Luật Chứng khoán. Trong khoảng thời gian từ 20/4/2014 đến 21/3/2016, Công ty đã thực hiện 05 đợt phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ từ 1,5 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng. Các đợt phát hành cổ phiếu này thực hiện trong thời gian Công ty chưa là công ty đại chúng, do đó UBCKNN không xem xét về các đợt phát hành tăng vốn nêu trên và đã có thông báo gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội về vẫn đề này (tại Công văn số 4308/UBCK-GSĐC ngày 04/7/2016). Trong trường hợp Công ty nộp Hồ sơ đăng ký niêm yết đăng ký giao dịch cổ phiếu với Quý Sử, UBCKNN đề nghị Quý Sở thực hiện thẩm định hồ sơ chặt chẽ theo thẩm quyền và quy định của pháp luật. Cũng ngày 04/7/2016, Lê Thị Thu H204 kỷ Phiếu số 459/GSĐC để nghỉ đăng thông tin trên cổng thông tin điện từ UBCKNN chấp thuận hồ sơ đăng ký công ty đại chúng của Công ty F.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Công Đ174 thừa nhận toàn bộ hành vi sai phạm, bị can khai có nhận thức được những sai phạm trong hồ sơ của F và các báo cáo kiểm toán tài chính nhưng do Công ty F là công ty lớn, Trịnh Văn Q1 có nhiều mối quan hệ với lãnh đạo các cấp, đồng thời sở hữu 01 công ty chuyên tư vấn pháp luật; khi thẩm định hồ sơ của Công ty F, Điền đã có yêu cầu cung cấp thêm bằng chứng về việc góp vốn nhưng 02 lần bị Công ty có đơn khiếu nại vì cho rằng Điền L vượt thẩm quyền, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Do lo sợ, ảnh hưởng đến công việc của bản thân nên Điền biết sai nhưng vẫn làm tờ trình báo cáo ông Vũ Bằng để đề nghị chấp thuận Công ty F là công ty đại chúng, đồng thời Điền đã ký ban hành Công văn số 4298 và Công văn số 4308 có nội dung nêu trên để nêu ý kiến. Hành vi của Lê Công Đ174 đã tạo điều kiện cho Công ty F đủ điều kiện chấp thuận là công ty đại chúng để được niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.

Kết quả điều tra đã xác định, đối với những trường hợp uỷ thác đầu tư của Công ty F phải giải trình theo yêu cầu của Vụ Giám sát đại chúng UBCKNN, Công ty F đã hợp thức việc sử dụng vốn góp khống bằng cách thông qua uỷ thác đầu tư cho cả nhân có tên Nguyễn Thị Hạ D228 (là thợ may) và Lê Thị T183 (là lao động tự do) với tổng số tiền 750 tỷ đồng. Các cá nhân này do Trịnh Thị Minh H2 nhờ đứng tên để nhận số tiền ủy thác nêu trên. Tuy nhiên, Doãn Văn P166, Chủ tịch HĐQT Công ty F đã ký Công văn số 97/FR-CV ngày 09/7/2016 gửi UBCKNN báo cáo đây là hai nhà đầu tư uy tín và có năng lực trong các lĩnh vực đầu tư và giải trình cơ sở có nguồn tiền ủy thác đầu tư là do công ty nhận được nhiều dự án lớn nhưng vốn huy động chưa cần thiết sử dụng; công ty đã có nghị quyết cho phép sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi để ủy thác đầu tư cho các tổ chức, cá nhân; đồng thời xác định việc ghi nhận doanh thu tài chính phủ hợp với Chuẩn mực "Doanh thu và Thu nhập khác", Công ty đã cung cấp bằng chứng kế toán để CPA Hà Nội phát hành các báo cáo tài chính kiểm toán chấp thuận toàn phần để Công ty F tiếp tục thực hiện thủ tục đăng ký chứng khoán tại Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam.

2.2. Việc đăng ký, lưu ký cổ phiếu ROS tại Trung tâm Lưu ký chứng khoản Việt Nam (VSD) Khoản 1 Điều 52 Luật Chứng khoán năm 2006 quy định về đăng ký, lưu ký chứng khoán: “Chứng khoán của công ty đại chúng phải được đăng ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán", khoản 1 Điều 53: "Chứng khoán của công ty đại chúng phải được lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán trước khi thực hiện giao dịch".

Sau khi được UBCKNN chấp thuận là Công ty đại chúng, ngày 06/7/2016, Doân Văn P208, Chủ tịch HĐQT Công ty F ký Giấy đề nghị đăng ký chứng khoản và Công văn số 96/FR-CV gửi Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đề nghị cho đăng ký lưu ký chứng khoán, nội dung: (1) Tên cổ phiếu: Công ty CP Xây dựng F; (2) Mệnh giá: 10.000 đồng/cổ phiếu; (3)Loại cổ phần: Cổ phần phố thông; (4) Tổng số cổ phiếu đã phát hành: 430.000.000 cổ phiếu; (5) Tổng giá trị cổ phiếu đã phát hành: 4.300 tỷ đồng; (6) Tổng số cổ phiếu đăng ký: 430.000.000 cô phiếu, kèm theo hồ sơ liên quan và Công văn số 4298 và đề nghị VSD cấp mã chứng khoán ROS cho cổ phiếu của Công ty F.

Đối với hồ sơ đăng ký chứng khoán lần đầu của Công ty F, theo quy định tại Điều 6 Quyết định 22/QĐ-VSD ngày 13/3/2015 của VSD, điểm k, 1.1 khoản 1 quy định: “Tổ chức phát hành phải cung cấp Báo cáo tài chính năm gần nhất có kiểm toán xác nhận số vốn thực góp. Trường hợp tổ chức phát hành thêm chứng khoản để tăng vốn giữa thời điểm kết thúc niên độ của báo cáo tài chính kiểm toán gần nhất, tổ chức phát hành phải bổ sung thêm bảo cáo kiểm toán vốn cho phần phát hành thêm đó", điểm m, 1.1 khoản 1 quy định: “tổ chức phát hành phải cung cấp các tài liệu khác theo yêu cầu của VSD trong trường hợp cần làm rõ thông tin trong hồ sơ đăng kỷ..."; quy trình kiểm tra xử lý hồ sơ đối với cổ phiếu theo Quyết định 48/QĐ-VSD ngày 27/4/2015 của Trung tâm lưu ký chứng khoản về việc ban hành Quy trình xửlý nội bộ hoạt động đăng ký, huỷ đăng ký chứng khoán quy định: “Kiểm tra tính thống nhất giữa vốn điều lệ trên Điều lệ công ty Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với giá trị chứng khoản đăng ký trên các tài liệu trong hồ sơ và vốn thực góp trên Báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Lưu ý kiểm tra các ý kiến loại trừ của kiểm toán viên trong Báo cáo tài chính...".

Khi tiếp nhận Hồ sơ đăng ký chứng khoản của Công ty F, Phạm Trung M209, Trưởng phòng Đăng ký chứng khoán giao Trần Thị H210, Chuyên viên kiểm tra, soát xét hồ sơ. Trần Thị H210 có nhiệm vụ kiểm tra tỉnh hợp lệ, đầy đủ của hồ sơ; nghiên cứu, đánh giá, đề xuất hồ sơ đăng ký chứng khoán, dự thảo các văn bản có liên quan để trình Phạm Trung M175 cho ý kiến, trình Dương Văn T68, Tổng Giám đốc quyết định. Ngày 07/7/2016, Trần Thị H210 lập Phiếu gửi Dương Văn T68, Tổng Giám đốc VSD đề xuất cung cấp thông tin mã chứng khoán cho Công ty F: Loại chứng khoán là cổ phiếu; Sản giao dịch là HOSE; Ngày hiệu lực cấp mã 24/8/2016; Số Giấy chứng nhận đăng ký chứng khoán: 86/2016/GCNCP-VSD; mã trong nước là ROS; mã ISIN: VN000000ROS1.

Quá trình đăng ký chứng khoán, Công ty F có Công văn số 107 ngày 05/8/2016 gửi VSD để giải trình Công văn số 4298 và Công văn số 108 ngày 05/8/2016 cung cấp thông tin hồ sơ đăng ký công ty đại chúng nêu: Công ty F đã có Công văn số 107/FR-CV ngày 05/08/2016 giải trình về hồ sơ đăng ký công ty đại chúng, kèm theo Báo cáo tài chính bán niên 2016 (riêng và hợp nhất) của Công ty cùng các tài liệu bổ sung khác; đồng thời tài liệu giải trình đã nộp cho UBCKNN de VSD làm căn cứ xử lý tiếp hồ sơ đăng ký chứng khoán của Công ty F.

Do UBCKNN chấp thuận Công ty F là công ty đại chúng có số vốn góp chủ sở hữu là 4.300 tỷ đồng nhưng vẫn yêu cầu Công ty F tiếp tục giải trình làm rõ vốn góp, sử dụng vốn và các khoản ủy thác đầu tư trong các báo cáo kiểm toán, nên ngày 14/7/2016 Trần Thị H210 đã dự thảo Công văn số 8084/VSD-ĐK, trình Phạm Trung M71 duyệt, ký vào vị trí của người trình và trình Dương Văn T68 ký gửi Vụ Giám sát công ty đại chúng UBCKNN về việc đăng ký chứng khoán lần đầu của Công ty F, theo đó VSD nêu những tồn tại trong hồ sơ của Công ty F theo nội dung Công văn số 4298 và Công ty F không có các tài liệu, giải trình đối với các nội dung yêu cầu của UBCKNN tại Công văn số 4298; đồng thời đề nghị UBCKNN xem xét và cho ý kiến chỉ đạo những vấn đề nêu trên.

Đến ngày 26/7/2016, Lê Công Đ174 ký Công văn số 4878 trả lời VSD, trong đó có nội dung Công ty F đã được Sở KH&ĐT Hà Nội cấp đăng ký kinh doanh thay đổi lần thứ 12 ngày 21/3/2016 với vốn điều lệ 4.300 tỷ đồng. Trong thời gian từ 20/4/2014 đến 21/3/2016, Công ty F đã thực hiện 05 đợt phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ từ 1,5 tỷ đồng lên 4,300 tỷ đồng. Các đợt phát hành cổ phiếu này thực hiện trong thời gian Công ty F chum là công ty đại chúng, do đó UBCKNN không xem xét và đề nghị VSD thực hiện thẩm định hồ sơ theo thẩm quyền và quy định của pháp luật.

Sau đó, ngày 24/8/2016, Trần Thị H210 soạn thảo Tờ trình 86/DKLK/TTR-ĐK, trình Phạm Trung M175 duyệt, ký vào vị trí của người trình, sau đó trình Dương Văn T68 nội dung như sau:

- Về số lượng chứng khoản đăng ký: Theo hồ sơ đăng ký chứng khoán, Công ty cổ phần Xây dựng Fcó vốn điều lệ đăng ký là 4.300 tỷ đồng tương đương 430.000.000 cổ phiếu. Công ty đã đăng ký công ty đại chúng với UBCKNN năm 2016 và đăng ký toàn bộ 430.000.000 cổ phiếu đã phát hành tại VSD theo đúng quy định.

- Về quá trình phát hành tăng vốn: Theo Báo cáo quá trình tăng vốn số 96/FR-CV ngày 06/07/2016, Công ty FR được thành lập năm 2011 với vốn điều lệ đăng ký ban đầu là 1,5 tỷ đồng. Từ đó đến nay, Công ty đã thực hiện thực hiện tăng vốn điều lệ 5 lần, cụ thể: Lần 1 tăng vốn điều lệ từ 1,5 tỷ lên 225 tỷ đồng vào năm 2014; Lần 2 tăng vốn điều lệ từ 225 tỷ đồng lên 1,125 đồng vào tháng 6 năm 2015; Lần 3 tăng vốn điều lệ từ 1,125 đồng lên 3,037 tỷ đồng vào tháng 12 năm 2015; Lần 4 tăng vốn điều lệ từ 3,037 tỷ đồng lên 3,500 tỷ đồng vào tháng 1 năm 2016; Lần 5 tăng vốn điều lệ từ 3,500 tỷ đồng lên 4,300 tỷ đồng vào tháng 3 năm 2016. Liên quan đến quá trình tăng vốn này, trong quá trình xem xét hồ sơ đăng ký công ty đại chúng, UBCKNN đã có Công văn số 4298/UBCK-GSĐC ngày 01/07/2016 đề nghị F giải trình một số vấn đề khi tăng vốn điều lệ. Vì vậy, khi xử lý hồ sơ đăng ký chứng khoán của ROS, VSD đã gửi văn bản xin ý kiến UBCKNN và đề nghị ROS cung cấp các tài liệu mà ROS đã gửi UBCKNN giải trình về hồ sơ đăng ký công ty đại chúng. Ngày 26/07/2016, UBCKNN đã có văn bản số 4878/UBCK-GSDC trả lời VSD. Theo đó, UBCKNN thông báo đã chấp thuận đăng ký đại chúng của ROS và tại các thời điểm ROS tăng vốn chưa là công ty đại chúng nên UBCKNN không xem xét, đồng thời UBCKNN cũng đề nghị VSD thực hiện thẩm định hồ sơ đăng ký theo thẩm quyền và quy định của pháp luật. Theo Báo cáo vốn góp của chủ sở hữu của ROS từ ngày 01/01/2016 đến ngày 21/03/2016 đã được kiểm toán bởi Công ty TNHH Kiểm toán và kế toán Hà Nội và Báo cáo kết quả công tác soát xét về Bảo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ cho kỳ kế toán từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/06/2016 đã được thực hiện bởi Công ty TNHH Kiểm toán ASC thì vốn góp của chủ sở hữu của Công ty đều được ghi nhận là 4.300 tỷ đồng.

* Phòng Đăng ký chứng khoán nhận định: Về cơ bản, hồ sơ đăng ký cổ phiếu của Công ty FR đã đáp ứng các quy định về hồ sơ đăng ký tại Quy chế hoạt động đăng ký chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 22/QĐ-VSD ngày 13/03/2015 của Tổng Giám đốc. Sau khi Tổng Giám đốc chấp thuận hồ sơ đăng ký chứng khoản của Công ty FR, Phòng đăng ký chứng khoán kính trình Tổng Giám đốc cho phép phối hợp với Phòng Công nghệ thông tin phân quyền cho chuyên viên Trần Thị H210 thực hiện nhập dữ liệu chứng khoán ROS đăng ký vào sàn HOSE trên hệ thống của VSD.

Với toàn bộ hồ sơ của Công ty F kèm theo Công văn 4298 của UBCKNN và các tài liệu, Tờ trình như trên, Dương Văn T68, Tổng Giám đốc biết rõ hồ sơ đăng ký, lưu ký chứng khoán của Công ty F chưa đủ cơ sở để xác định số vốn thực góp theo nội dung tại Công văn 4298 nhưng vẫn bút phê “đồng ý” vào Tờ trình này.

Phạm Trung M71, Trưởng phòng Đăng ký chứng khoản là người được Dương Văn T68 giao trực tiếp nghiên cứu hồ sơ đăng ký chứng khoán của Công ty F, biết rõ hồ sơ của Công ty F chưa đủ cơ sở để xác định số vốn thực góp theo nội dung tại Công văn 4298 nhưng cũng ngày 24/8/2016, Phạm Trung M175 vẫn trình Dương Văn T68 ký Giấy chứng nhận đăng ký chứng khoán số 86, đăng ký cổ phiếu của Công ty FR mã cổ phiếu ROS kể từ ngày 24/8/2016; Mệnh giá: 10.000 đồng; Loại chứng khoán: Cổ phiếu phổ thông, Số lượng cổ phiếu đăng ký: 430 triệu cổ phiếu, Tổng giá trị cổ phiếu đăng ký 4.300 tỷ đồng; Hình thức đăng ký: Ghi số. VSD đã thực hiện nhập mã cổ phiếu ROS vào khu vực giao dịch thuộc sản HOSE và đăng thông tin trên Website của VSD để Công ty F tiếp tục thực hiện thủ tục đăng ký niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE.

Như vậy, đối với hồ sơ đăng ký chứng khoán nêu trên, VSD đã yêu cầu Công ty F báo cáo giải trình kèm tài liệu liên quan để làm rõ vốn góp, sử dụng vốn góp và khả năng thu hồi các khoản ủy thác đầu tư theo các Báo cáo tài chính kiểm toán và Công văn số 4298 của UBCKNN; thu thập, nghiên cứu Báo cáo vốn góp của chủ sở hữu của Công ty FR từ ngày 01/01/2016 đến ngày 21/03/2016, thể hiện lưu ỷ “một số giao dịch về ủy thác đầu trong kỳ phát sinh bằng tiền mặt lớn" là ý kiến ngoại trừ trong báo cáo kiểm toán và Báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ cho kỳ kế toán từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/06/2016, xác định: “Công tác soát xét bao gồm chủ yếu là việc trao đổi nhân sự của công ty và áp dụng các thủ tục phân tích những thông tin tài chính, công tác này cung cấp một mức độ đảm bảo thấp hơn công tác kiểm toán. Chúng tôi không thực hiện công việc kiểm toán nên cũng không đưa ra ý kiến kiểm toán" là không công nhận đã thực hiện công việc kiểm toán. Do vậy, không đủ cơ sở để VSD cấp giấy đăng ký chứng khoán cho Công ty F với số lượng 430 triệu cổ phiếu, có tổng giá trị là 4.300 tỷ đồng.

Tại Cơ quan điều tra, bị can Dương Văn T68 và bị can Phạm Trung M71 thừa nhận toàn bộ sai phạm của mình và khai, mặc dù biết hồ sơ đề nghị của Công ty F có nhiều nội dung không đủ căn cứ để được đăng ký chứng khoán nhưng do UBCKNN đã chấp thuận Công ty F là công ty đại chúng có số vốn góp chủ sở hữu là 4.300 tỷ đồng, nên các bị can đã chấp thuận đăng ký cổ phiếu ROS tại VSD.

2.3. Việc đăng ký niêm yết cổ phiếu ROS tại sàn HOSE, bán cổ phiều chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư chứng khoản.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ về điều kiện niêm yết chứng khoán tại sàn HOSE là Công ty có vốn chủ sở hữu trên 120 tỷ đồng và trên 300 cổ đông góp vốn. Vì vậy, để bảo đảm đủ điều kiện về số lượng cố đông tối thiểu được niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, Trịnh Văn Q1 chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 hợp thức bằng cách lấy danh sách cán bộ nhân viên công ty để đưa vào danh sách cổ đông và lập danh sách 386 cổ đông, hợp thức việc chuyển nhượng, hoặc bán một phần nhỏ cho cán bộ, công nhân viên, sau đó soạn thảo số cổ đông để tăng lên 386 cổ đông, gồm: Trịnh Văn Q1 sở hữu 179.708.750 cổ phần, chiếm tỷ lệ 41,79%, Nhóm cổ đông gồm 03 pháp nhân và 11 cả nhân đứng tên cổ phần giúp Trịnh Văn Q1, sở hữu 248.496.250 cổ phần, chiếm tỷ lệ 57,79%, gồm: (1) Lê Thị Ngọc D (vợ Q1); (2) Nguyễn Văn M8; (3) Hoàng Thị Thu H179; (4) Đàm Quang C181; (5) Phạm Thị X182; (6) Trịnh Văn Đ78; (7) Nguyễn Thị P187; (8) Nguyễn Quang T80; (9) Nguyễn Thùy T202, (10) Trần Văn T203; (11) Trịnh T86; (12) Công ty TNHH Đầu tư và phát triển F Vĩnh Phúc (đo Hương Trần Kiều D9 đại diện); (13) Công ty TNHH MTV Quản lý khách sạn và khu nghỉ dưỡng F (do Bùi Hải H170 đại diện); (14) Công ty TNΗΗ Đầu tư Phát triển địa ốc Khánh Hòa F (do Hương Trần Kiều D9 đại diện); Và nhóm 370 nhà đầu tư khác sở hữu 1.795.000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 0,42%.

Ngày 11/7/2016, Doãn Văn P166, Chủ tịch HĐQT Công ty F ký Giấy đăng ký niêm yết cổ phiếu của Công ty F với mã cổ phiếu ROS, gửi sàn HOSE kèm theo hồ sơ đăng ký niêm yết, trong đó có Công văn số 4298 của UBCKNN. Sau khi nhận được hồ sơ của Công ty F đề nghị niêm yết cổ phiếu ROS tại sàn HOSE, ngày 12/7/2016, Trần Văn D205, Tổng Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng niêm yết sản HOSE giao Trầm Tuấn V108, Phó Tổng Giám đốc tham mưu chỉ đạo Lê Thị Tuyết H204, Giám đốc Phòng Quản lý và Thẩm định niêm yết và Đoàn Vĩnh N206, Chuyên viên nghiên cứu thẩm định, đề xuất. Sau khi nghiên cứu, thấy hồ sơ chưa đầy đủ, hợp lệ nên Đoàn Vĩnh N206 soạn thảo Công văn số 1029/SGDHCM-NY, trình Lê Thị Tuyết H56 duyệt, kỷ vào vị trí của người trình để Trầm Tuấn V108 ký, đề nghị Công ty F chỉnh sửa, bổ sung Hồ sơ đăng ký niêm yết để có cơ sở xác định số vốn thực góp của Công ty F là 4.300 tỷ đồng theo các báo cáo tài chính kiểm toán và Công văn 4298 của UBCKNN Để báo cáo, giải trình làm rõ nội dung trên, Công ty F thuê Công ty ASC kiểm toán Báo cáo tài chính riêng, Báo cáo tài chính hợp nhất từ ngày 01/01/2016 đến 30/6/2016 và Báo cáo vốn góp chủ sở hữu cho giai đoạn kế toán từ ngày 01/01/216 đến 30/6/2016. Mặc dù Hố sơ kiểm toán chưa cung cấp đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp làm cơ sở để Kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp thuận toàn phần đối với các báo cáo tài chính của Công ty F nhưng Trần Thị H111, Phó Tổng Giám đốc và Nguyễn Thị Thu H207, Kiểm toán viên Công ty ASC vẫn ký ban hành Báo cáo kiểm toán độc lập số 345/BCKT-TC và số 346/BCKT-TC đối với Báo cáo tài chính riêng, Báo cáo tài chính hợp nhất (từ ngày 01/01/2016 đến 30/6/2016) của Công ty F, trong đó nhấn mạnh: “Tình đến ngày 30/6/2016, tổng số tiền Công ty ủy thác đầu tư cho các cá nhân là 1.417,2 tỷ đồng, ủy thác đầu tư cho các tổ chức là 2.149,2 tỷ đồng, tổng là: 3.566,4 tỷ đồng (chi tiết tại thuyết mình số V.2). Trong kỳ, tổng số tiền lãi phải thu từ các hợp đồng ủy thác này được hạch toán trên tài khoản Doanh thu tài chính với số tiền là 92,9 tỷ đồng. Số tiền lãi theo điều khoản hợp đồng ủy thác đầu tư sẽ được thanh toán khi tất toán hợp đồng. Như đã nêu tại thuyết minh số V.1.7.c, đợt tăng vốn điều lệ trong quý 1 năm 2016 do 03 cổ đông góp vốn với số tiền 462,5 tỷ đồng, tương ứng với mỗi lệnh chuyển tiền đến có một lệnh chuyển tiền đi liên tục 18 lần, các lệnh chuyển tiền đến và đi cho bên nhận ủy thác được thực hiện trong cùng ngày 08/01/2016; Bảo cáo vốn chủ sở hữu số 283/BCKT-TC ngày 23/7/2016 cho giai đoạn kế toản từ ngày 01/01/2016 đến 30/6/2016 xác nhận Công ty F có số vốn góp là 4.300 tỷ đồng là vi phạm chuẩn mực kiểm toán.

Ngày 21/11/2022, cơ quan CSĐT Bộ Công an ban hành Quyết định trưng cầu giám định số 86/QĐ-VPCQCSĐT(P4) trưng cầu Giám định viên Bộ Tài chính giám định đối với việc ban hành các báo cáo kiểm toán nêu trên. Ngày 22/9/2023, Giám định viên Bộ Tài chính đã ban hành Kết luận giám định, xác định: "Hồ sơ kiểm toán chưa cung cấp đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp làm cơ sở để Kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần tại các báo cáo kiểm toán....". Tại Cơ quan điều tra, Trần Thị H111 và Nguyễn Thị Thu H207 thừa nhận đã vi phạm chuẩn mực kiểm toán đối với các báo cáo tài chính kiểm toán nêu trên.

Quá trình hoàn thiện hồ sơ niêm yết tại sản HOSE, Công ty F có các Công văn số 105 ngày 01/8/2016; số 122 ngày 15/8/2016, số 115 ngày 17/8/2016, số 118 ngày 20/8/2016 và cung cấp Báo cáo kiểm toán bổ sung nêu trên nhưng cũng không làm rõ được việc góp vốn, sử dụng vốn góp, khả năng thu hồi các khoản ủy thác đầu tư theo các Báo cáo tài chính kiểm toán và Công văn số 4298 của UBCKNN. Đối với hồ sơ niêm yết của Công ty F, căn cứ Tờ trình số 35/TTr-TĐNY ngày 22/8/2016 kèm Báo cáo tổng hợp do Đoàn Vĩnh N206 nghiên cứu, soạn thảo, Trần Văn D205 chủ trì cuộc họp Hội đồng niêm yết, thống nhất chấp thuận niêm yết cho Công ty F theo Phiếu đánh giá, cụ thể: Trầm Tuấn V108 có ý kiến: "Đồng ý” và ý kiến khác: "Đề nghị công ty bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký lưu ký chứng khoán"; Nguyễn Thị Minh H208 có ý kiến: “Chấp thuận hồ sơ đăng ký niêm yết" và ý kiến khác: “Đề nghị công ty bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký lưu ký chứng khoán"; Lê Thị Tuyết H56 có ý kiến: “Đồng ý hồ sơ niêm yết của Công ty F"; Đỗ Thị Phương L209 có ý kiến: "Đồng ý niêm yết", Hồ Ngọc Đoan T210 có ý kiến: “Chấp thuận niêm yết" và Ý kiến khác: “Đề nghị công ty bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký lưu ký chứng khoán"; Lê Hài T211 có ý kiến: "Đồng ý với đề nghị của P. QLNY".

Ngày 23/8/2016, Đoàn Vĩnh N206 đã tổng hợp và ký Tờ trình số 32/TTr-HĐNY-TK trình Chủ tịch Hội đồng niêm yết báo cáo về việc các thành viên Hội đồng niêm yết đều thống nhất thông qua hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu của Công ty F và đề nghị Công ty F tiếp tục hoàn thiện hồ sơ theo ý kiến của các thành viên Hội đồng niêm yết. Sau khi nhận được Tờ trình của Đoàn Vĩnh N206, Trần Văn D205 bút phê: “Đồng ý. A Vũ kính trình HĐQT. Sau đó, Đoàn Vĩnh N206 soạn thảo để Lê Thị Tuyết H56 duyệt, kỷ vào vị trí của người trình và trình Trầm Tuấn V108, Phó Tổng Giám đốc sản HOSE ký Công văn số 1188/SGDCK-NY gửi Công ty F yêu cầu bổ sung một số tài liệu và hoàn thiện hồ sơ đầy đủ theo danh mục quy định tại Quy chế niêm yết chứng khoán, đồng thời ký Tờ trình số 142/TTr-SGDHCM gửi HĐQT bảo cáo về việc Hội đồng niêm yết đã có ý kiến chấp thuận thông qua hồ sơ niêm yết và các nội dung giải trình của Công ty F theo yêu cầu tại Công văn số 4298 UBCKNN... nhưng do tính chất quan trọng của vấn đề nêu trong Công văn số 4298, sàn HOSE xin ý kiến HĐQT chỉ đạo về hồ sơ niêm yết của Công ty F.

Theo Quy chế hoạt động của HĐQT và Hội đồng niêm yết sàn HOSE thì việc thẩm định chấp thuận niêm yết cổ phiếu của Công ty F không thuộc thẩm quyền của HĐQT; mặt khác Trần Đắc S51 biết Báo cáo tài chính kiểm toán năm 2014, năm 2015 của Công ty F không phù hợp vì phạm vi lưu ý lớn, “không đủ cơ sở để xác định số vốn đã thực góp” theo Công văn số 4298 ngày 01/7/2016 của UBCKNN và các tài liệu có trong hồ sơ đề nghị niêm yết nhưng do có mối quan hệ với Trịnh Văn Q1 và Doãn Văn P166, được Q1 và Phương nhiều lần nhờ giúp đỡ, tạo điều kiện cho cổ phiếu của Công ty F được niêm yết trên sản chứng khoản nêu Trần Đắc S51 đã nhiều lần trực tiếp chỉ đạo Lê Hải T53, Trầm Tuấn V108, Lê Thị Tuyết H56 tạo điều kiện sớm niêm yết cổ phiếu của Công ty F. Vì vậy, trong khi Công ty F chưa bổ sung đầy đủ hồ sơ theo quy định, Trần Đắc S51 đã chỉ đạo, tổ chức họp HĐQT quyết định về hồ sơ niêm yết của Công ty F. Tại cuộc họp này, căn cứ Tờ trình số 142/TTr-SGDHCM ngày 22/8/2016 do Trầm Tuấn V108 ký báo cáo về kết quả thẩm định hồ sơ đăng ký niêm yết của Công ty F, Trần Đắc S51 đã cùng các thành viên trong HĐQT thống nhất chấp thuận niêm yết và ký ban hành Nghị quyết số 18/NQ-SGDHCM ngày 23/8/2016 chấp thuận Hồ sơ của Công ty F đủ các điều kiện niêm yết, đã làm rõ được các nội dung lưu ý của UBCKNN và đề nghị Tổng Giám đốc ban hành Quyết định niêm yết đối với Công ty F theo đúng trình tự, thủ tục niêm yết. Căn cứ Nghị quyết của HĐQT, Lê Thị Tuyết H56 đã lập, kỷ Tờ trình số 38/TTr-TĐNY ngày 23/8/2016 đề nghị các thành viên Hội đồng niêm yết chấp thuận cấp Quyết định niêm yết cổ phiếu cho Công ty F, giá tham chiếu trong cùng ngày giao dịch đầu tiên là 10.500 đồng/cổ phiếu với biên độ +/- 20%.

Ngày 24/8/2016, Đoàn Vĩnh N206 dự thảo quyết định, trình Lê Thị Tuyết H204 và Trầm Tuấn V108 duyệt, ký vào vị trí của người trình để trình Trần Văn D205 ký ban hành Quyết định số 348/QĐ-SGDHCM chấp thuận đăng ký niêm yết cổ phiếu cho Công ty F; vốn điều lệ 4.300 tỷ đồng, loại chứng khoán cổ phiếu phổ thông, mã chứng khoán ROS; mệnh giá cổ phiếu 10.000 đồng.

Ngày 25/8/2016, Trầm Tuấn V108 ký Văn bản số 933/TB-SGDHCM về việc thông báo cổ phiếu ROS ngày 24/8/2016 niêm yết có hiệu lực, ngày 01/9/2016 chính thức giao dịch, giá tham chiếu trong ngày giao dịch đầu tiên 10.500 đồng/cổ phiếu; biên độ dao động giá trong ngày giao dịch đầu tiên ± 20% so với giá tham chiếu. Đến ngày 01/9/2016, Công ty F chính thức được giao dịch trên sàn HOSE, mã cổ phiêu ROS, số lượng 430 triệu cổ phiếu, giá tham chiếu 10.500 đồng/cổ phiếu. Tân cả sai phạm của nhóm bị can thuộc Công ty F, UBCKNN, VSD và sản HOSE d tạo điều kiện đầy đủ về pháp lý để Công ty F được niêm yết 430 triệu cổ phiếu ROS (tương ứng với 4.300 tỷ đồng vốn điều lệ) trên sàn HOSE, trong đó 3.102.488.917.818 đồng là vốn góp khống. Từ những sai phạm này đã giúp Trịnh Văn Q1 và đồng phạm đưa các cổ phiếu gian dối về giá trị vốn chủ sở hữu khống, bản cho các nhà đầu tư để chiếm đoạt tiền.

Về sai phạm trong việc chấp thuận niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, ngày 22/9/2023, Giám định viên Bộ Tài chính đã ban hành Kết luận giám định, xác định: Căn cứ Nghị định số 58/2012/NĐ-CP; Điều 3 Thông tư số 202/2015/TT-BTC; Điều 5 Quyết định số 10/QĐ-SGDHCM thì Công ty F không đủ điều kiện để niêm yết cổ phiếu tại sàn HOSE từ ngày 01/9/2016.

Tại Cơ quan điều tra: Các bị can Trần Đắc S51, Trầm Tuấn V108, Lê Thị Tuyết H56 thánh khẩn khai bảo, thừa nhận hành vi phạm tội, bị can S51 khai nguyên nhân phạm tội là do có mối quan hệ thân quen với Trịnh Văn Q1 nên muốn giúp đỡ Trịnh Văn Q1 và Doãn Văn P166, việc chấp thuận niêm yết giúp cho Công ty F có điều kiện thu hút vốn của các nhà đầu tư trên thị trường, thông qua đó sản HOSE sẽ có doanh thu từ thu phí niêm yết, phí giao dịch chứng khoán.

Sau khi cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán, Trịnh Văn Q1 chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 sử dụng 518 tài khoản của người thân, quen, nhân viên của Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H199, Trịnh Thị Thúy N7 do H2 trực tiếp mở, quản lý, sử dụng để mua bán cổ phiếu ROS, điều chuyển tiên theo chỉ đạo của Q1. Các bị can đã sử dụng sàn HOSE làm phương tiện để bán 391.155.480 cô phiếu, trong đó 290.226.650 cổ phiếu đứng tên Q1 và 100.928.830 cổ phiếu của 11 cá nhân là những người thân được Q1 nhờ đứng tên là cổ đông cho 30.403 nhà đầu tư (là những người mua cổ phiếu ban đầu của Trịnh Văn Q1) thu về số tiền 4.818.593.165.700 đồng. Cơ quan điều tra xác định các bị can đã chiếm đoạt của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán số tiền 3.621.082.083.518 đồng (4.818.593.165.700 đồng - 1.197.511.082.182 đồng).

Sau khi số tiền bán cổ phiếu ROS nêu trên được chuyển về tài khoản của các cổ đông, H2 lập chứng từ rút tiền mặt đưa cho các cổ đông ký, để H2 lấy tiền sửdụng vào các mục đích khác nhau theo chỉ đạo của Trịnh Văn Q1, cụ thể:

- Nộp 181.013.772.868 đồng vào tài khoản của Công ty CP T và 05 công ty con, công ty liên kết với T, gồm: Công ty CFS 50 tỷ đồng; Công ty CP T 75.913.772.868 đồng; Công ty F Nghỉ dưỡng 50 tỷ đồng; Công ty Địa ốc Star 3,5 tỷ đồng; Công ty lon Complex 1,4 tỷ đồng; Công ty FL 200 triệu đồng).

- Nộp 436,4 tỷ đồng vào tài khoản ngân hàng của các cá nhân để thanh toán, trả nợ vay, gồm: Tống Xuân V212 196,57 tỷ đồng; Nguyễn Thị Xuân H213 195 tỷ đồng, Lê Thị Ngọc D 25,7 tỷ đồng, Trịnh Văn Q1 05 tỷ đồng, Nguyễn Băng T215 7,75 tỷ đồng; Hương Trần Kiều D9 03 tỷ đồng, Đặng Quý T214 800 triệu đồng, Ngô Thế B216 600 triệu đồng; Lê Thu H217 250 triệu đồng, Trịnh Thị Minh H2 1,23 tỷ đồng và tài khoản thẻ 500 triệu đồng.

- Nộp 380.305.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoản của các cá nhân, pháp nhân do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng để tiếp tục mua bán chứng khoán;

- Chỉ tiêu cá nhân 44.812.112.000 đồng.

- Còn lại 2.578.551.198.650 đồng nộp vào T và các công ty con, công ty liên kết để hoạt động kinh doanh; nộp vào nhóm tài khoản chứng khoán, tài khoản ngân hàng của các cá nhân, pháp nhân do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, điều hành để mua bán chứng khoán, sử dụng cho thanh toán cả nhân khác.

Ngoài ra, sau khi tăng vốn lên 4.300 tỷ đồng để niêm yết trên sàn chứng khoán như đã nêu trên, Công ty F còn có 2 lần tăng vốn điều lệ, cụ thể:

- Lần 6, tăng từ 4.300 tỷ đồng lên 4.729.999.990.000 đồng (tăng thêm 429.999.990.000 đồng) bằng phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ để trả cổ tức cho các cổ đông. Ngày 25/7/2017, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty Cổ phần (thay đổi lần thứ 17) ghi nhận vốn điều lệ tăng lên 4.729.999.990.000 đồng, do Trịnh Văn Q1, Chủ tịch HĐQT, Vũ Đặng Hải Y218, Đỗ Như T131, Doãn Văn P166, Lê Thành V192, Nguyễn Bình P45 làm Thành viên HĐQT; Đỗ Quang L128 là Tổng Giám đốc, đại diện theo pháp luật. Cơ cấu cổ đông như sau: (1) Trịnh Văn Q1 sở hữu 197.679.625 cổ phần, giá trị 1.976.796.250.000 đồng, chiếm tỷ lệ 41,79%, (2) Công ty TNHH MTV FL sở hữu 24.728.000 cổ phần, giá trị 247.280.000.000 đồng, chiếm tỷ lệ 5,23%; (3) Các nhà đầu tư khác sở hữu 250.592.237 cổ phần, giá trị 2.505.923.750.000 đồng, chiếm tỷ lệ 52,98%.

- Lần 7, tăng từ 4.729.999.990.000 đồng lên 5.675.981.210.000đồng (tăng thêm 945.981.220.000 đồng) bằng phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ đề trà cổ tức cho các cổ đông. Ngày 17/5/2018, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty Cổ phần (thay đổi lần thứ 18) ghi nhận vốn điều lệ tăng lên 5.675.981.210.000 đồng, do Trịnh Văn Q1 là Chủ tịch HĐQT; Đỗ Quang L128 là Tổng Giám đốc, đại diện theo pháp luật; Đỗ Như T131, Phó Chủ tịch HĐQT; Nguyễn Thiện P74, Lê Tuấn H, Phó Tổng Giám đốc Công ty. Thành viên HĐQT khác gồm: Doãn Văn P166, Lê Thành V27, Nguyễn Bình P45, Vũ Đặng Hải Y218. Cơ cấu cổ đông như sau: (1) Trịnh Văn Q1 sở hữu 382.217.556 cổ phần, giá trị 3.822.175.560.000 đồng, chiếm tỷ lệ 67,34%; (2) Công ty TNHH MTV FL sở hữu 29.673.360 cổ phần, giá trị 296.736.000.000 đồng, chiếm tỷ 18 5,23%; (3) Các nhà đầu tư khác sở hữu 15.570.696 cổ phần, giá trị 1.557.069.650.000 đồng, chiếm tỷ lệ 27,43%.

Về xác định bị hại: Cơ quan điều tra đã chứng minh được có 30.403 nhà đầu tư mua 391.155.480 cổ phiếu ROS (lần bán ra ban đầu) của Trịnh Văn Q1 giao dịch trên sản HOSE, với tổng giá trị thu về là 4.818.593.165.700 đồng, trong khi đó, Công ty F chỉ có vốn góp chủ sở hữu thực là 1.197.511.082.182 và vốn góp chủ sở hữu khống là 3.102.488.917.818 đồng. Qua đó, Trịnh Văn Q1 đã chiếm đoạt của 30.403 nhà đầu tư nêu trên số tiền 3.621.082.083.518 đồng. Các cá nhân này đã bỏ một khoản tiền thật để mua cổ phiếu ROS của Trịnh Văn Q1 trên sản chứng khoản mà không biết cổ phiếu đã bị Trịnh Văn Q1 và đồng phạm dùng các thủ đoạn gian dối để nâng không về giá trị, vì vậy được xác định là bị hại của vụ án.

Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp ủy thác điều tra; đồng thời Cơ quan điều tra Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nhiều lần thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng đề nghị người bị hại đã mua cổ phiếu ROS trên sản chứng khoán khai báo, tiến hành xác minh, lấy lời khai để xem xét, giải quyết trong vụ án. Kết quả điều tra đến nay xác định: Cô 133 bị hại 30.403 bị hại hiện đang sở hữu 627.090 cổ phiếu ban đầu (hình thành từ vốn góp khống) với tổng giá trị khi mua là 2.252.768.321 đồng; hiện có 95 bị hại 133 bị hại có yêu cầu bồi thường thiệt hại do đang sở hữu 381.670 cổ phiếu ban đầu hình thành từ vốn góp khống với giá trị mua là 1.398.896.100 đồng.

* Hành vi phạm tội của từng bị can cụ thể như sau:

- Nhóm bị can bị khởi tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự.

(1). Bị cáo Trịnh Văn Q1 là chủ mưu, quyết định, chỉ đạo toàn bộ việc mua và đổi tên thành Công ty F và dùng Công ty F làm công cụ phương tiện để chỉ đạo Doãn Văn P166 và Trịnh Thị Minh H2 cùng đồng phạm thực hiện hành vì nâng khống vốn chủ sở hữu từ 1,5 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng, chỉ đạo lãnh đạo Công ty F thực hiện các thủ tục để UBCKNN chấp thuận là Công ty đại chúng, được niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE; chỉ đạo việc mua bán số cổ phiếu không về giá trị để chiếm đoạt 3.621.082.083.518 đồng của các nhà đầu tưđể sử dụng vào mục đích cá nhân của Trịnh Văn Q1. Bị cáo Quyết khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 189.572.240.000 đồng.

(2). Bị cáo Trịnh Thì Mình H2 trức tiếp nhận chỉ đạo tử Trịnh Văn Q1 thực hiện, điều hành toàn bộ hoạt động năng không vốn góp tại Công ty F từ 1,5 tỷ đồng lên thành 4.300 tỷ đồng; hoàn thiện thủ tục niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE; bán cổ phiếu, thu tiền chuyển cho Trịnh Văn Q1 sử dụng. Cụ thể: H2 soạn thảo Biên bản họp HĐQT, Nghị quyết HĐQT về việc tăng vốn và sử dụng vốn để HĐQT ký; trực tiếp điều chuyển dòng tiền nâng khống vốn góp bằng cách sử dụng thông tin của các cổ đông góp vốn và nhờ các cá nhân ký chứng từ (đứng tên cô đông, đứng tên trên giấy nộp tiền rút tiền) và một lượng tiền nhỏ, nộp vào, rút ra quay vòng nhiều lần cho đủ số vốn góp theo chỉ đạo của Quyết, hợp thức sử dụng vốn góp khống bằng cách soạn thảo các chứng từ liên quan đến việc ủy thác đầu tư đề HĐQT, Tổng Giám đốc Phó Tổng Giám đốc Kế toán trưởng Công ty F ký và đưa cho các cá nhân và tổ chức nhận ủy thác đầu tư ký hợp thức giúp H2, hoàn thiện thủ tục cổ đông để niêm yết cổ phiếu trên sàn HOSE; bán 391.155.480 cổ phiếu hình thành từ vốn góp khống cho 30.403 nhà đầu tư trên sàn chứng khoán, giúp Quyết chiếm đoạt 3.621.082.083.518 đồng. Bị cáo H2 khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và tự nguyện nộp khắc phục hậu quả 100 triệu đồng.

(3). Bị cáo Doãn Văn P166 là người tham mưu cho Trịnh Văn Q1, thường xuyên bản bạc, thống nhất chủ trương và được Quyết giao trực tiếp thực hiện thủ tục mua công ty F; ký các thủ tục tăng vốn điều lệ, ủy thác đầu tư. Với vai trò là Chủ tịch HĐQT, Phương ký tờ trình, Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông, Nghị quyết các lần tăng vốn từ 1.125 tỷ đồng lên 3.037 tỷ đồng; từ 3.037 tỷ đồng lên 3.500 tỷ đồng; từ 3.500 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng; Nghị quyết và các văn bản đề nghị, giải trình với các cơ quan chức năng để cổ phiếu Công ty F được niêm yết trên sản chứng khoán, chỉ đạo Tổng Giám đốc ký hợp đồng ủy thác đầu tư để hợp thức số vốn góp khống và các báo cáo tài chính; ký 18 giấy rút tiền mặt đề H2 rút 900 tỷ đồng ra khỏi tài khoản của Công ty F, để hợp thức dòng tiền tăng vốn không. Với vai trò là cổ đông, Phương được Quyết giao ký hợp đồng nhận chuyển nhượng giấy nộp tiền góp vốn, để sở hữu 7,762.500 cổ phần, tương đương 77,625 tỷ đồng, sau đó ký hợp đồng chuyển nhượng số cổ phần cho Quyết để hợp thức vẫn góp, hợp thức danh sách cổ đông đủ điều kiện niêm yết trên sản chứng khoán, để Quyết bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư chiếm đoạt tiền.

Do bị cáo Doân Văn P208 đã xuất cảnh ra nước ngoài từ ngày 27/3/2022, cơ quan điều tra đã ra Quyết định khởi tố bị can số 51/QĐ-VPCQCSĐT ngày 28/01/2024; Quyết định truy nã số 465/QĐTN-VPCQCSĐT ngày 23/02/2024 đối với Doãn Văn P166, Quyết định tách vụ án hình sự số 464/QĐ-VPCQCSĐT ngày 23/02/2024; Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự đối với bị can số 467/QĐ-VPCQCSĐT; Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can số 466/QĐ-VPCQCSĐT đồ tiếp tục xử lý khi bắt được bị can.

(4). Bị cáo Trịnh Thị Thúy N7 được Trịnh Thị Minh H2 giao ký hợp đồng nhận ủy thác đầu tư của Công ty F để hợp thức năng khống vốn góp. Cụ thể, Nga đã ký 06 hợp đồng nhận ủy thác đầu tư của Công ty F, với tổng số tiền 368 tỷ đồng để nâng khống vốn góp từ 1.125 tỷ lên 3.500 tỷ đồng, kỷ 50 ủy nhiệm chỉ chuyển 1.327.787.993.215 đồng để H2 hợp thức hoá, che giấu số vốn góp không. Ngoài ra, Nga trực tiếp nhỡ 03 nhân viên cấp dưới kỷ 17 hợp đồng nhận tiền ủy thác đầu tư với tổng số tiền 880,1 tỷ đồng của Công ty F để hợp thức nâng không vôn góp và mượn chứng minh thư nhân dân của nhân viên để đưa cho. H2 sử dụng mở 10 tài khoản chứng khoán mua bán cổ phiếu ROS. Hành vi của Nga đã giúp sức để H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sân chứng khoán, từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị can Nga khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.

(5). Bị cáo Hương Trần Kiều D9 không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được Quyết giao ký hợp đồng nhận chuyển nhượng, giấy nộp tiền góp vốn, để sở hữu 52.350.000 cổ phần, tương đương 523,5 tỷ đồng; sau đó ký hợp đồng chuyển nhượng trả lại 10.350.000 cổ phần cho Quyết để hợp thức hồ sơ đăng ký niêm yết; còn lại hơn 42 triệu cổ phiếu giao cho H2 bán, thu tiền cho Quyết; ký 02 hợp đồng nhận ủy thác đầu tư của Công ty F số tiền 48 tỷ đồng để hợp thức việc nâng khống vốn góp; sau khi niêm yết Dung tiếp tục ký chuyên 7.326.256.519.201 đồng để che giấu số vốn góp khống. Hành vi của Hương Trân Kiều Dung đã giúp sức để H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bản cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu; đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 200 triệu đồng.

(6). Bị cáo Trịnh Văn Đ78 được Trịnh Văn Q1 bổ nhiệm là Chủ tịch HĐQT Công ty F. Đại không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhung được H2 giao đứng tên là cô đông góp vốn vào Công ty F; được hướng lương 39.000.000 đồng/tháng với vai trò là Phó Trưởng phòng vật tư FL và 41.000.000 đồng/tháng là Phó Tổng Giám đốc Công ty FR. Đại ký Nghị quyết tăng vốn điều lệ từ 1,5 tỷ đồng lên 225 tỷ đồng; Ký biên bản họp HĐQT chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần cho các cá nhân; Ký Biên bản họp HĐQT hợp nhất RTS để tăng vốn từ 3.500 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng; kỳ Hợp đồng nhận chuyển nhượng hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giấy nộp tiền để sở hữu 104.765.000 có phần, tương đương 1.047,65 tỷ đồng để hợp thức việc nâng không vốn góp. Ngoài ra, sau khi Công ty F nâng khống vốn góp, Đại tiếp tục ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền nâng vốn không. Hành vi của Đại đã tạo điều kiện để H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoản từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội (7). Bị cáo Nguyễn Văn M8 được Trịnh Thị Minh H2 nhờ đứng tên là Thành viên HĐQT. Mạnh không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được H2 giao đứng tên là cổ đông góp vốn vào Công ty F; đứng tên các pháp nhân để ký các hợp đồng nhận ủy thác đầu tư của Công ty F hợp thức năng khống vốn góp. Cụ thể, Mạnh ký hợp đồng nhận chuyển nhượng cô phần giấy chuyển tiền, nộp tiền để sở hữu 46.281.975 cổ phần, tương đương 462.119.750.000 đồng, sau đó, ký chuyển nhượng lại cổ phần cho 16 cá nhân để hợp thức nâng khống vốn góp, đứng tên cổ đông, hợp thức hồ sơ niêm yết cổ phiếu Công ty F trên sàn chứng khoán, ký Biên bản họp về việc tăng vốn góp từ 3.037,5 tỷ đồng lên thành 3.500 tỷ đồng và hợp nhất Công ty RTS để tăng vốn điều lệ lên thành 4.300 tỷ đồng, đại diện Công ty F ký hợp đồng nhận ủy thác đầu tư tổng số tiền 323 tỷ đồng của Công ty F, để hợp thức dòng tiền năng khống vốn góp từ 1.125 tỷ lên 3.500 tỷ. Hành vi của Mạnh đã tạo điều kiện để H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bản cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội và khai được hưởng lương 10 triệu đồng/tháng; đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 20 triệu đồng.

(8). Bị cáo Trịnh T86 - Trưởng phòng vật tư Công ty TNHH FL: Tuân không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được H2 nhờ đứng tên cổ đồng góp vốn vào Công ty F, ký hợp đồng nhận ủy thác đầu tư để hợp thức nâng không vốn góp. Cụ thể, Tuân đã ký hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần, Giấy nộp tiền để sở hữu 15.000.000 cổ phần, tương đương 150 tỷ đồng; ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền nâng khống vốn góp. Hành vi của Tuân đã tạo điều kiện để H2 năng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 35 triệu đồng/tháng.

(9). Bị cáo Nguyễn Thị Hạ D228 không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được H2 nhờ ký 01 hợp đồng nhận ủy thác đầu tư, Giấy nhận tiền vay Công ty F số tiến 360 tỷ đồng để hợp thức nâng khống vốn góp khống từ 1.5 tỷ đồng lên 225 tỷ đồng, kỷ hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền nâng không vốn trước đó. Hành vi của D228 đã tạo điều kiện để H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoản từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sân chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 5 triệu đồng/tháng.

(10). Bị cáo Đỗ Như T131 không nộp tiền vốn góp vào Công ty F nhưng giúp Quyết đứng tên là cổ đông góp vốn. Cụ thể: T131 đại diện Công ty F ký 27 hợp đồng ủy thác đầu tư hợp tác kinh doanh với tổng số tiền là 1.762,9 tỷ đồng để hợp thức năng vốn khống; ký các Báo cáo tài chính, văn bản, báo cáo giải trình với các đơn vị liên quan để cổ phiếu Công ty F hoàn thiện thủ tục niêm yết cổ phiếu trên sản chứng khoán, ký hợp đồng nhận chuyển nhượng, giấy chuyển tiền để sở hữu tổng số 50.000 cổ phiếu tương đương 500.000.000 đồng để hợp thức thủ tục niêm yết cổ phiếu trên sản chứng khoán, ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền nâng khống vốn trước đó. Hành vi của Tuấn đã tạo điều kiện để Huc nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoán từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bản cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hướng lương từ 115 triệu đồng đến 120 triệu đồng/tháng khi giữ chức vụ Tổng Giám đốc Công ty F.

(11). Bị cáo Nguyễn Văn T101 - Trưởng Ban kiểm soát Công ty F, Chánh Văn phòng T: Thanh không nộp tiền góp vốn nhưng được Quyết nhỏ đứng tên là cổ đông góp vốn vào Công ty F. Thanh đã ký các chứng từ nộp tiền hợp đồng chuyển nhượng hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần để trở thành cổ đông Công ty F, sở hữu 7.762.500 cổ phần, tương đương 77.625.000.000 đồng; sau đó chuyển số cổ phần này cho Trịnh Văn Q1 để hợp thức việc năng khống vốn góp; ký Bản cáo bạch để công bố thông tin Công ty F có 4.300 tỷ đồng vốn góp chủ sở hữu làm thủ tục niêm yết cổ phiều trên sản chứng khoán. Hành vị của Thanh đã giúp sức cho Trịnh Thị Mình H203 năng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán, từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 2.000 USD/tháng. Bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả số tiền 25.000.000 đồng.

(12). Bị cáo Đàm Mai H100 - Kế toán trưởng Công ty F đã ký các Báo cáo tài chính cho kỳ kế toán từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/6/2016 kèm Bảng cân đối kế toán, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh báo tài chính, Báo cáo tài chính hợp nhất xác định Công ty F có 4.300 tỷ đồng vốn góp chủ sở hữu; ký Bản cáo bạch để công bố thông tin Công ty F có 4.300 tỷ đồng vốn góp chủ sở hữu làm thủ tục niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán. Hành vi của Hương đã giúp sức cho H2 hợp thức năng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoán từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 26 triệu đồng/tháng.

(13). Bị cáo Nguyễn Thiện P74 không nộp tiền góp vốn nhưng được Quyết nhớ đứng tên là cổ đông góp vốn, cụ thể: Phú ký hợp đồng nhận chuyển nhượng giấy nộp tiền, uỷ nhiệm chỉ để sở hữu 9.832.500 cổ phần tương đương 98.325.000.000 đồng; sau đó chuyền nhượng trả lại toàn bộ số cổ phần này cho Trịnh Văn Q1 để niêm yết cổ phiếu trên sản chứng khoán; được Quyết cho 30.000 cổ phần, đã bán thu được 260.568.000 đồng; Phủ trực tiếp làm việc với Lê Văn T120 - Kiểm toán viên CPA Hà Nội để thực hiện kiểm toán các Báo cáo tài chính của Công ty F, ký nháy trên các hợp đồng ủy thác đầu tư, hợp đồng hợp tác kinh doanh không do Huệ soạn thảo; ký 466 ủy nhiệm chỉ chuyển 12.244.039.270.229 đồng để hợp thức che giấu số vốn góp khống; ký các Báo cáo tài chính năm 2014, 2015 và 6 tháng đầu năm 2016 xác nhận Công ty F có 4,300 tỷ đồng vốn điều lệ để làm thủ tục niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán. Hành vi của Phú đã tạo điều kiện để H2 năng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoản từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 260.568.000 đồng.

(14). Bị cáo Lê Thành V192 được Trịnh Văn Q1 giao là Chủ tịch HĐQT, Thành viên HĐQT Công ty F. Vinh không nộp tiền góp vốn nhưng được Quyết nhờ đứng tên là cổ đông góp vốn, cụ thể: Vĩnh ký hợp đồng nhận chuyển nhượng cô phần Ủy nhiệm chỉ để sở hữu 10.867.500 cổ phần, tương đương 108,6 tỷ đồng; sau đó chuyển nhượng trả lại số cổ phần này cho Trịnh Văn Q1 để niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán; ký Cam kết nắm giữ cổ phiếu để hoàn thiện hồ sơ niêm yết, Biên bản, Nghị quyết mua cổ phần Công ty CP F Travel để che giấu dòng tiền nâng khống vốn góp sau khi tăng vốn, được Quyết cho 132.000 cổ phiếu, đã bán thu được 597.525.000 đồng. Hành vi của Vinh đã giúp sức để H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoán từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 60 triệu đồng/tháng; đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 597.525.000 đồng.

(15). Bị cáo Đỗ Quang L128 là Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc Công ty F, được hưởng lương 60 triệu đồng/tháng: L không nộp tiền góp vốn nhưng được Quyết nhờ đúng tên là cổ đông góp vốn; đại diện Công ty F ký Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông Nghị quyết tăng vốn điều lệ từ 225 tỷ đồng lên 1.125 tỷ đồng; kỳ 03 hợp đồng ủy thác đầu tư số tiền 870 tỷ đồng để hợp thức việc tăng vốn không; ký hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần Giấy chuyển tiền để sở hữu 3.000 cổ phần để đủ điều kiện về số cổ đông làm thủ tục niêm yết trên sản chứng khoán; ký Cam kết nắm giữ cổ phiếu ngày 11/7/2016 để hợp thức hồ sơ niêm yết. Hành vi của L đã giúp sức để H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cố phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 30 triệu đồng.

(16). Bị cáo Nguyễn Tiến D30 - Tổng Giám đốc Công ty F, đại diện Công ty F ký 05 hợp đồng ủy thác đầu tư (cho vay) và 32 ủy nhiệm chi phiếu chi giấy rút tiền mặt để H2 rút 1,360,4 tỷ đồng hợp thức việc năng không vốn góp; Dũng không nộp tiền góp vốn nhưng được Quyết nhờ ký hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần Giấy chuyển tiền để sở hữu 3.000 cổ phần và ký Cam kết nắm giữ chứng khoán ngày 11/7/2016 để hoàn thiện hồ sơ niêm yết cổ phiếu trên sản chứng khoán. Hành vi của D30 đã giúp sức để H2 năng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sân chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 60 triệu đồng/tháng.

(17). Bị cáo Nguyễn Bình P45 - Phó Tổng giám đốc Công ty F: Phương không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được Quyết nhờ đứng tên là cổ đông góp vốn, ký hợp đồng hợp tác đầu tư hợp thức việc tăng vốn góp khống. Cụ thể: Phương ký hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần giấy chuyển tiền để sở hữu 30.000 cổ phần, tương đương 03 tỷ đồng để hợp thức nâng khống vẫn góp; ký 05 hợp đồng nhận ủy thác đầu tư với tổng số tiến 355,1 tỷ đồng của Công ty F; kỷ 19 chứng từ để H2 làm thủ tục chuyển tiên, rút tiền từ tài khoản của Công ty VTX với tổng số tiền 440,3 tỷ đồng để hợp thức dòng tiền năng khống vốn góp trong lần tăng vốn thứ 3 từ 1.125 tỷ đồng lên 3.037,5 tỷ đồng. Hành vi của Phương đã giúp sức để H2 năng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoản từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và khai được hưởng lương 35 triệu đến 40 triệu đồng/tháng; đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quá số tiền 30 triệu đồng.

(18). Bị cáo Nguyễn Thanh B24 là thành viên HĐQT Công ty F; Chủ tịch HĐQT Công ty RTS: B không nộp tiền góp vốn nhưng được Q1 nhờ đứng tên là cổ đông góp vốn vào Công ty F. Ngoài ra, Bình nhờ Phạm Thanh H62 giúp Q1 đứng tên là cổ đông góp vốn của Công ty F, ký các chứng từ hợp thức nâng không vốn góp. Cụ thể: B ký biên bản, Nghị quyết thông qua chủ trương chuyển nhượng 80.000.000 cổ phần có giá trị là 800 tỷ đồng do các cổ đông của Công ty RTS nắm giữ đề sáp nhập vào Công ty F để tăng vốn góp chủ sở hữu của Công ty F từ 3.500 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng, được Quyết cho 50.000 cổ phần để trở thành cổ đông của Công ty F, sau đó ký cam kết nắm giữ cổ phiếu ngày 11/7/2016 để hoàn thiện hồ sơ niêm yết, bán cổ phiếu trên thu được 2.649.202.500 đồng; ký nhiều chứng tử để che dấu dòng tiền nâng khống vốn góp. Hành vi của Bình giúp sức để H2 năng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoán từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và khai được hưởng hương 47 triệu đồng/tháng, đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quá 2.651.376.973 đồng.

(19). Bị cáo Hoàng Thị Thu H179 được Trịnh Thị Minh H2 nhờ đứng tên là Thành viên HĐQT. Hà không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được H2 nhờ đứng tên là cổ đông góp vốn vào Công ty F, ký các chứng từ nâng vốn góp khống. Cụ thể: Hà ký Biên bản họp HĐQT để tăng vốn góp từ 3.037,5 tỷ đồng lên thành 3.500 tỷ đồng và hợp nhất Công ty RTS để tăng vốn góp lên thành 4.300 tỷ đồng; ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần/giấy nộp tiền, ủy nhiệm chỉ để sở hữu 42,7 triệu cổ phần, tương đương 427 tỷ đồng, sau đó chuyển trả lại cho Q1 27 triệu cổ phần để hợp thức năng khống vốn góp và nắm giữ 15,7 triệu cổ phần sau khi niêm yết trên sàn chứng khoán để Quyết bán trên sản chứng khoán thu tiền; kỷ 60 chứng từ chuyển số tiền 1.995.873.000.000 đồng, để hợp thức nâng khống vốn góp và che giấu dòng tiền góp vốn không. Hành vi của Hà giúp sức đề H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoản từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương từ 07 đến 12 triệu đồng/tháng.

(20). Bị cáo Trần Thể A229 - Phó Tổng Giám đốc T, Phó Tổng giám đốc Công ty F: Thế A229 không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được Quyết nhờ đứng tên là cổ đông góp vốn để hợp thức hồ sơ niêm yết cổ phiếu trên sản chứng khoán; được Quyết cho 80.000 cổ phiếu, đã bán 20.000 cổ phiếu thu 2,5 tỷ đồng. Cụ thể: Thế A229 ký Hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần chứng từ chuyển tiền để sở hữu 9.056.250 cổ phần, tương đương 90.562.250.000 đồng, sau đó chuyển trả lại toàn bộ số cổ phần này cho Trịnh Văn Q1 để hợp thức hồ sơ niêm yết trên sân chứng khoán, ký Hợp đồng giấy chuyển tiền để che giấu số vốn góp khống. Hành vi của Thế A229 đã giúp sức để H2 năng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bản cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 40 triệu đồng/tháng; đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 1,1 tỷ đồng.

(21). Bị cáo Lê Tân S33 - Phó Chánh văn phòng, Thư ký HĐQT T: Sơn không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhung được H2 nhờ đứng tên là cổ đông góp vốn, ký hợp đồng nhận ủy thác đầu tư để hợp thức việc nâng khống vốn góp không. Cụ thể: Sơn ký hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần Giấy chuyển tiền để sở hữu 9.056.250 cổ phần, tương đương 90,5625 tỷ đồng, sau đó chuyển trả lại to bộ số cổ phần này cho Trịnh Văn Q1 để giao dịch trên sản chứng khoản; ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư 362,15 tỷ đồng của Công ty F; các chứng từ để hợp thức dòng tiền góp vốn khống; ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền nâng khống vốn góp. Hành vi của Sơn đã giúp sức để H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoản từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội và khai được hưởng lương 17 triệu đồng/tháng; đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 20 triệu đồng.

(22). Bị cáo Đặng Thị H36 - Thư ký tại T: Hồng không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được H2 nhờ đứng tên là cổ đông góp vốn, nhận ủy thác đầu tư để hợp thức việc tăng khống vốn góp. Cụ thể: Hồng ký hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần Giấy nộp tiền để sở hữu 46 triệu cổ phần tương đương 460 tỷ đồng, sau đó chuyển trả lại toàn bộ số cổ phần này cho Trịnh Văn Q1 và 371 cá nhân khác để hợp thức hồ sơ niêm yết trên sàn chứng khoản; ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền nâng khống vốn góp. Hành vi của Hồng đã giúp sức để H2 nâng không vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 7 triệu đồng/tháng; đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 30 triệu đồng.

(23). Bị cáo Lê Văn S39 - Chủ tịch Công ty FL: Sắc không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được H2 nhờ đứng tên là cổ đông góp vốn tại Công ty F; ký hợp đồng nhận ủy thác đầu tư để hợp thức việc tăng khống vốn góp. Cụ thể: Sắc ký hợp đồng nhận chuyển nhượng chứng từ chuyển tiền với tổng số tiền 181.874.500.000 đồng để sở hữu 9,573.750 cổ phần, tương đương 95.737.500.000 đồng, hợp thức năng không vốn góp, sau đó ký hợp đồng chuyển trả lại toàn bộ số cổ phần này cho Trịnh Văn Q1 để giao dịch trên sản chứng khoán; ký hợp đồng nhân chuyển nhượng 5.000 cổ phiếu để hợp thức đủ điều kiện cổ đông niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoản; ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền năng khống vốn góp. Hành vi của Sắc đã giúp sức đề H2 nâng không vốn chủ sở hữu, đế cổ phiếu ROS được niêm yết trên sân chứng khoản từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.

(24), Bị can Trương Văn T42, lái xe của Trịnh Văn Q1: Tài không nộp tiền góp vốn nhưng được H2 nhờ đứng tên là cổ đông góp vốn để hợp thức việc tăng vốn góp khống. Cụ thể: Tài đã ký Hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần Giây nộp tiền để sở hữu 23 triệu cổ phần, tương đương 230 tỷ đồng, sau đó chuyền trả lại toàn bộ số cổ phần này cho Lê Thị Ngọc D (vợ Quyết) đứng tên là cổ đông góp vẫn vào Công ty F để hợp thức việc nâng khống vốn góp. Hành vi của Trương Văn T42 đã giúp sức để H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoản từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoản. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 06 triệu đồng/tháng, đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 20 triệu đồng.

(25). Bị can Nguyễn Minh Đ48, nhân viên Công ty B: Điểm không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được Trịnh Thị Thúy N7 nhờ ký 02 hợp đồng/chứng tử nhận 149,838.836.000 đồng của Công ty F để hợp thức việc nâng khống vốn góp trong lần tăng vốn thứ 1, thứ 2 từ 1,5 tỷ đồng lên 1.125 tỷ đồng. Từ ngày 5/5/2016 đến ngày 26/9/2016, Điểm ký 04 chứng từ nộp 50.017.267.266 đồng vào tài khoản của Công ty F để hoàn trả tiền uỷ thác đầu tư, vay vốn hợp thức dòng tiền nâng khống vốn góp. Hành vi của Nguyễn Minh Đ48 đã giúp sức để H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoán, từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bản cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 8 triệu đồng/tháng.

(26). Bị can Phạm Thanh H62, nhân viên kế toán Công ty S: Hương không nộp tiền góp vốn nhưng được Nguyễn Thanh B24, lãnh đạo Công ty F nhờ đứng tên giúp Quyết là cổ đông góp vốn để hợp thức việc năng không vốn góp. Cụ thể: Hương ký hợp đồng nhận chuyển nhượng chứng từ nộp 447.111.750.000 đồng để sở hữu 28.664.325 cổ phần, tương đương 286.643.250.000 đồng để hợp thức năng khống vốn góp; sau đó ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ số cổ phần này cho 04 công ty và 01 cá nhân để hợp thức hồ sơ niêm yết trên sàn chứng khoán. Hành vì của Phạm Thanh H62 đã giúp sức để H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán, từ đó giúp Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 20 triệu đồng.

(27). Bị can Phạm Thị H193 N65, Chủ tịch HĐTV Công ty Vân Long: Ninh không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được H2 nhờ đứng tên là cổ đồng góp vốn vào Công ty F, ký hợp đồng nhận ủy thác đầu tư để hợp thức việc nâng khống vốn góp. Cụ thể: Ninh ký hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phần Giấy chuyển tiền để sở hữu 9.832.500 cổ phần, tương đương 98,325 tỷ đồng hợp thức năng không vốn góp, sau đó ký hợp đồng chuyển trả lại toàn bộ số cổ phần này cho Trịnh Văn Q1 để hợp thức việc nâng không vốn góp; nhận chuyển nhượng 5.000 cổ phiếu để hợp thức đủ số cổ đông niêm yết trên sản chứng khoán; ký hợp đồng nhận ủy thác đầu tư tổng số tiền 35 tỷ đồng, để hợp thức dòng tiền góp vẫn khống từ 1.125 tỷ đồng lên 3.037,5 tỷ đồng. Hành vi của Phạm Thị H193 N65 đã giúp sức đề H2 nâng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoán, từ đó Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 30 triệu đồng/tháng; đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 20 triệu đồng.

(28). Bị cạn Trịnh Thị Út X59, Giám đốc Công ty TNHH Đầu tư Thương mại và xuất nhập khẩu DAMEXCO: Xuân không nộp tiền góp vốn, không nhận tiền vay của Công ty F nhưng được H2 nhờ đứng tên là cổ đông góp vốn, ký hợp đồng nhận ủy thác đầu tư của Công ty F để hợp thức nâng vốn góp khống. Cụ thể: Xuân kỳ thủ tục để sở hữu 2.000 cổ phần, tương đương 20 triệu đồng để niêm yết trên sàn chứng khoán, đại diện Công ty DX ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư hợp tác kinh doanh với giá trị 286,2 tỷ đồng của Công ty F để hợp thức dòng tiền năng khống vốn góp; ký nhiều chứng từ đề H2 làm thủ tục rút tiền, chuyển tiền từ tài khoản của Công ty DX quay vòng dòng tiền góp vốn khống; ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền nâng khống vốn góp. Hành vi của Trịnh Thị Út X59 đã giúp sức để H2 năng khống vốn chủ sở hữu, để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán, từ đó Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương từ 14 triệu đồng đến 20 triệu đồng/tháng, đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 20 triệu đồng.

(29). Bị can Nguyễn Ngọc T173, Tổng giám đốc CPA Hà Nội: chịu trách nhiệm trực tiếp thu thập hồ sơ, tài liệu để đánh giá, kiểm tra tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh theo các Báo cáo tài chính của Công ty F; phân công Lê Văn T120 là Kiểm toán viên trực tiếp thực hiện cuộc kiểm toán tại Công ty F. Tuy nhiên, Nguyễn Ngọc T173 không thu thập đầy đủ bằng chứng xác thực về vốn góp, sử dụng vốn góp và khả năng thu hồi các khoản ủy thác đầu tư của Công ty F nhưng vẫn ký các Báo cáo tài chính kiểm toán chấp nhận toàn phần với số vốn thực góp của Công ty F là 4.300 tỷ đồng tại Báo cáo tài chính kiểm toán số 122 ngày 31/65/2016; Báo cáo tài chính kiểm toán số 123 ngày 31/5/2016; Báo cáo tài chính kiểm toán số 120 ngày 30/5/2016 trái pháp luật. Hành vi của Nguyễn Ngọc T173 đã giúp sức để Trịnh Văn Q1 hoàn thiện hồ sơ niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn chứng khoản, bản cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.

(30). Bị can Lê Văn T120, Kiểm toán viên CPA Hà Nội: chịu trách nhiệm trực tiếp thu thập hồ sơ, tài liệu để đánh giá, kiểm tra tỉnh hình hoạt động sản xuất kinh doanh theo các Báo cáo tài chính của Công ty F, được Nguyễn Ngọc T173 phân công trực tiếp thực hiện cuộc kiểm toán tại Công ty F. Tuy nhiên, Lê Văn T120 không thu thập đầy đủ bằng chứng xác thực về vốn góp, sử dụng vốn góp và khả năng thu hồi các khoản ủy thác đầu tư của Công ty F nhưng vẫn ký các Báo cáo tải chính kiểm toán chấp nhận toàn phần với số vốn thực góp của Công ty F là 4.300 tỷ đồng tại Báo cáo tài chính kiểm toán số 122 ngày 31/65/2016; Báo cáo tài chính kiểm toán số 123 ngày 31/5/2016; Bảo cáo tài chính kiểm toán số 120 ngày 30/5/2016 trái pháp luật. Hành vi của Lê Văn T120 đã giúp sức để Trịnh Văn Q1 hoàn thiện hồ sơ niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn chứng khoán, bản cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư.

Trong suốt giai đoạn điều tra, kết luận điều tra vụ án, bị can Lê Văn T120 thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu là phù hợp với kết quả điều tra, diễn biến vụ án. Tuy nhiên, trong giai đoạn truy tố, bị can thay đổi lời khai, không thừa nhận hành vi phạm tội, không thừa nhận đã thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính của Công ty F và không thừa nhận ký báo cáo kiểm toán nhưng không cung cấp được bằng chứng chúng mình cho lời khai của mình là khách quan, đúng sự thật. Tuy nhiên, căn củ lời khai của Nguyễn Ngọc T173, Nguyễn Thiện P74, Trần Thị N (Kiểm toán viên CPA Hà Nội) và tài liệu, chứng cứ vụ án đều phù hợp với nhau, thể hiện: Lê Văn T120 là Kiểm toán viên được phân công thực hiện cuộc kiểm toán tại Công ty F; trực tiếp ký các báo cáo kiểm toán nêu trên. Do đó, lời khai chối tội của Lê Văn T120 là không có căn cứ.

(31). Bị can Trần Thị H111, Kiểm toán viên, Phó Tổng giám đốc Công ty ASC: Chịu trách nhiệm trực tiếp thu thập hồ sơ, tài liệu để đánh giá, kiểm tra tỉnh hình hoạt động sản xuất kinh doanh theo các Báo cáo tài chính của Công ty F, Tuy nhiên, Trần Thị H111 đã không thu thập đầy đủ bằng chứng xác thực về vốn góp, sử dụng vốn góp và khả năng thu hồi các khoản ủy thác đầu tư của Công ty F nhưng vẫn ký các Báo cáo tài chính kiểm toán chấp nhận toàn phần với số vốn thực góp của Công ty F là 4.300 tỷ đồng tại Báo cáo tài chính kiểm toán riêng số 345 và Báo cáo tài chính kiểm toán hợp nhất số 346 ngày 18/8/2016 của Công ty F, Báo cáo kiểm toán vốn góp chủ sở hữu số 283/BCKT-TC ngày 23/7/2016 trái pháp luật. Ngoài ra, Hạnh ký xác nhận tại Văn bản số 118/FR-CV ngày 20/8/2016 của Công ty F về việc giải trình bổ sung ủy thác đầu tư gửi sản HOSE để Công ty F làm thủ tục niêm yết cổ phiếu trên sàn HOSE. Hành vi của Trần Thị H111 đã giúp sức để Trịnh Văn Q1 hoàn thiện hồ sơ niêm yết cổ phiếu ROS trên sản chứng khoản, bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Nhóm bị can bị khởi tố tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, quy định tại Điều 356 Bộ luật hình sự:

(1). Bị can Trần Đắc S51, Chủ tịch HĐQT sàn HOSE: Do Trần Đắc S51 quen biết Trịnh Văn Q1 và Doãn Văn P166, Tổng giám đốc T nên Q1 và Ph nhờ S tạo điều kiện để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sân chíng khoản trong tháng 9/2016. Trên cơ sở báo cáo của Phòng quản lý và thẩm định niêm yết, Ban Giám đốc, Trần Đắc S51 biết rõ không có cơ sở xác định số vốn thực góp của Công ty F là 4.300 tỷ đồng theo Báo cáo tài chính kiểm toán và Công văn số 4298 của UBCKNN nhưng vì động cơ cá nhân, Trần Đắc S51 đã chỉ đạo nhân viên cấp dưới làm nhanh hồ sơ niêm yết cổ phiếu của Công ty F; chủ trì họp HĐQT để xét Tờ trình số 142 của Trầm Tuấn V108 thay mặt Ban Giám đốc kỳ trình HĐQT đề xuất HĐQT xem xét, chấp thuận niêm yết cổ phiếu của Công ty F trải pháp luật, kỷ ban hành Nghị quyết số 18 ngày 23/8/2016 đồng ý hồ sơ của Công ty FR đủ điều kiện niêm yết trên sản HOSE, giao Tổng Giám đốc ký Quyết định niêm yết cổ phiếu ROS trái pháp luật. Hành vi của Trần Đắc S51 đã giúp sức, tạo điều kiện để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán, từ đó Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

(2). Bị can Lê Hải T53, Ủy viên HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc Thường trực, kiêm Thành viên Hội đồng niêm yết sàn HOSE: Lê Hải T53 quen biết Trịnh Văn Q1, biết rõ không đủ cơ sở xác định số vốn thực góp của Công ty F là 4.300 tỷ đồng theo báo cáo tài chính kiểm toán và Công văn số 4298 của UBCKNN nhưng Trà đã gây sức ép cho Đoàn Vĩnh N206 đề xuất chấp thuận hồ sơ niêm yết của Công ty F trong khi chưa đủ cơ sở xác định vốn góp, sử dụng vốn và khả năng thu hồi các khoản ủy thác đầu tư của Công ty F; là thành viên Hội đồng niêm yết, Lê Hải T53 đã ký Phiếu đồng ý niêm yết cổ phiếu của Công ty F, là Phó Tổng giám đốc sàn HOSE, Lê Hải T53 đã họp HĐQT, đồng ý niêm yết cổ phiếu của Công ty F trải pháp luật. Hành vi của Lê Hải T143 đã giúp sức, tạo điều kiện để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán, từ đó Trịnh Văn Q1 bản cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Bị cần khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

(3). Bị can Trầm Tuấn V108, Phó Tổng giám đốc, Thành viên Hội đồng niêm yết sản HOSE: Phụ trách trực tiếp Phòng quản lý và thẩm định niêm yết: chịu trách nhiệm thẩm định hồ sơ niêm yết của Công ty F; được Lê Thị Tuyết H56, Trường phòng và Đoàn Vĩnh N206, Chuyên viên Phòng quản lý và thẩm định niêm yết báo cáo chưa đủ cơ sở xác định vốn góp, sử dụng vốn và khả năng thu hồi các ủy thác đầu tư của Công ty FR theo báo cáo tài chính kiểm toán và Công văn số 4298 của UBCKNN. Tuy nhiên, là Thành viên Hội đồng niêm yết Trầm Tuấn V108 đã ký Phiếu đồng ý niêm yết cổ phiếu của Công ty FR; là Phó Tổng giám đốc, Trầm Tuấn V108 đã ký đồng ý niêm yết cổ phiếu tại Tờ trình số 38 ngày 24/8/2016 của Phòng quản lý và thẩm định niêm yết và ký Tờ trình số 142, đề xuất HĐQT đồng ý niêm yết cổ phiếu của Công ty FR trên sản chứng khoán trái pháp luật. Hành vi của Trầm Tuấn V108 đã giúp sức, tạo điều kiện để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoán, từ đó Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

(4). Bị can Lê Thị Tuyết H56, Trưởng Phòng Quản lý và thẩm định niêm yết, thành viên Hội đồng niêm yết: Chịu trách nhiệm trực tiếp thẩm định hồ sơ niêm yết của Công ty F; được Đoàn Vĩnh N206, Chuyên viên báo cáo chưa đủ cơ sở xác định vốn góp, sử dụng vốn và khả năng thu hồi các ủy thác đầu tư của Công ty F theo báo cáo tài chính kiểm toán và Công văn số 4298 của UBCKNN; biết rõ chưa đủ cơ sở xác định số vốn góp chủ sở hữu của Công ty F là 4.300 tỷ đồng tại thời điểm niêm yết cổ phiếu trên sản chứng khoán nhưng theo chỉ đạo của Trần Đắc S51, Hằng vẫn ký Tờ trình số 38 để xuất cổ phiếu của Công ty F đủ điều kiện niêm yết, trình Trầm Tuấn V108 xin ý kiến Hội đồng niêm yết, HĐQT chấp thuận niêm yết cổ phiếu của Công ty F trái pháp luật. Hành vi của Lê Thị Tuyết H56 đã giúp sức, tạo điều kiện để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoán, từ đó Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

- Nhóm bị can bị khởi tố về tội “Cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán":

(1). Bị can Lê Công Đ174, Vụ trưởng Vụ Giám sát công ty đại chúng UBCKNN: Chịu trách nhiệm đăng ký công ty đại chúng, kiểm tra, giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán của các công ty được chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán. Lê Công Đ174 biết rõ chưa có cơ sở xác định số vốn góp chủ sở hữu của Công ty F là 4.300 tỷ đồng tại thời điểm đăng ký công ty đại chúng, biết rõ Báo cáo tài chính kiểm toán của Công ty F vi phạm pháp luật kế toán, kiểm toán nhưng Lê Công Đ174 đã không đình chỉ kiểm toán viên theo quy định mà ký Tờ trình số 315 đề xuất Lãnh đạo UBCKNN chấp thuận Công ty F là công ty đại chúng; ký Công văn số 4298 chấp thuận Công ty F là công ty đại chúng có vốn góp chủ sở hữu là 4.300 tỷ đồng, với 114 cổ đông trái pháp luật và đăng thông tin sai lệch này lên Website của UBCKNN để công bỏ cho toàn thị trường chứng khoán biết. Hành vi của Lê Công Đ174 là cô ý che giấu thông tin sai lệch trong hoạt động niêm yết, đăng ký chứng khoán của Công ty F, đã tạo điều kiện để Trịnh Văn Q1 hoàn thiện thủ tục niêm yết cổ phiêu ROS trên sản chừng khoản, bản cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.

(2). Bị can Dương Văn T68, Tổng Giám đốc VSD: Chịu trách nhiệm quyết định đăng ký, lưu ký chứng khoán theo quy định; được Phạm Trung M71, Trường Phòng đăng ký chứng khoán báo cáo những tồn tại về vốn góp của Công ty F tại Tờ trình số 86 ngày 24/8/2016 và Công văn số 4298 ngày 01/7/2016 của UBCKNN đã chỉ ra những tồn tại về vốn góp trong Báo cáo tài chính kiểm toán của Công ty F, do đó chưa có cơ sở xác định vốn góp chủ sở hữu của Công ty F là 4.300 tỷ đồng tại thời điểm đăng ký cổ phiếu của Công ty F nhưng Dương Văn T68 vẫn ký Giấy chứng nhận đăng ký chứng khoán số 86 ngày 24/8/2016, đăng ký mã cổ phiếu ROS với số lượng 430 triệu cổ phiếu, có tổng giá trị là 4.300 tỷ đồng cho Công ty F; nhập mã cổ phiếu ROS vào khu vực giao dịch thuộc sàn HOSE và đăng thông tin sai lệch này lên Website của VSD. Hành vi của Dương Văn T68 là cố ý che giấu thông tin sai lệch trong hoạt động niêm yết, đăng ký chứng khoán của Công ty F, đã tạo điều kiện để Trịnh Văn Q1 hoàn thiện thủ tục niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn chứng khoán, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.

(3). Bị can Phạm Trung M71, Trưởng Phòng đăng ký chứng khoán VSD: Chịu trách nhiệm trực tiếp nghiên cứu, đề xuất hồ sơ đăng ký chứng khoán của Công ty F, biết rõ chưa đủ cơ sở xác định Công ty F có số vốn góp chủ sở hữu là 4.300 tỷ đồng tại thời điểm đăng ký chứng khoán nhưng Phạm Trung M175 vẫn ký Tờ trình số 86, đề nghị Dương Văn T68 đăng ký chứng khoán cho Công ty F trái pháp luật; đã ký theo thẩm quyền Giấy chứng nhận đăng ký chứng khoán số 86 ngày 24/8/2016, đăng ký mã cổ phiếu ROS với số lượng 430 triệu cổ phiếu, có tông giá trị là 4.300 tỷ đồng cho Công ty F; nhập mã cổ phiếu ROS vào khu vực giao dịch thuộc sàn HOSE và đăng thông tin sai lệch này lên Website của VSD. Hành vi của Phạm Trung M175 là cổ ý che giấu thông tin sai lệch trong hoạt động niêm yết, đăng ký chứng khoản của Công ty F, đã tạo điều kiện để Trịnh Văn Q1 hoàn thiện thủ tục niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn chứng khoán, bản cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.

III. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA TỘI THAO TÚNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOẢN:

Trịnh Văn Q1, Chủ tịch HĐQT T, là cổ đông sáng lập và giữ chức Chủ tịch HĐQT Công ty B từ ngày 11/01/2011 đến ngày 20/8/2013. Quả trình hoạt động, Trịnh Văn Q1 đã cử Hương Trần Kiều D9 (Phó Chủ tịch Thường trực HĐQT tập đoàn F, đồng thời giữ chức vụ tại 05 công ty thuộc tập đoàn F) làm chủ tịch HĐQT, đại diện theo pháp luật Công ty B; Chu Tiên V733 (bạn của Quyết) là Phó Chủ tịch Thường trực HĐQT; Lê Bá N226 (anh vợ Quyết) và Nguyễn Quỳnh N227 (Nhân viên công ty thuộc hệ sinh thái T) làm Thành viên HĐQT; Trịnh Thị Thúy N7 (em gái Quyết) làm Phó Chủ tịch HĐQT, Phó Tổng Giám đốc Công ty B để quản lý, chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động của Công ty B theo chỉ đạo của Trịnh Văn Q1, trong đó có hoạt động cấp hạn mức sức mua (bằng hình thức cấp khống tiền) cho các tải khoản chứng khoản mở tại Công ty B để Trịnh Văn Q1 Thao túng thị trường chứng khoán, thu lợi bất chính.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Thông tư 203/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015, quy định về giao dịch và thanh toán giao dịch chứng khoán; Khoản 6 Điều 16 Thông tư 121/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 của Bộ Tài chính quy định "Công ty chứng khoán khi thực hiện thanh toán lệnh mua hoặc bán chứng khoán cho khách hàng phải đảm bảo đủ tiền, chứng khoản theo quy định..."; Thông tư 210/TT- BTC ngày 31/11/2012 của Bộ Tài chính, hướng dẫn về thành lập và hoạt động của công ty chứng khoán: Điều 43 quy định về hạn chế cho vay: 1. Công ty chứng khoán không được cho vay tiền và chứng khoán dưới mọi hình thức, trừ trường hợp công ty chứng khoán cho khách hàng vay tiền để mua chứng khoán theo quy định về giao dịch ký quỹ chứng khoán của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, vì muốn thu lời bất chính trên sàn chứng khoán, Trịnh Văn Q1 đã chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 liên hệ với 45 cá nhân, có quan hệ họ hàng với gia đình, người thân ký giấy tờ, thủ tục để H2 thành lập 20 công ty và mở 500 tài khoản chứng khoán đứng tên 20 công ty và 45 cá nhân (141 tài khoản chứng khoán tại Công ty B) để H2 sử dụng các tài khoản này thực hiện các hành vi: (1) liên tục mua bản cùng loại chứng khoán; (2) mua bán khớp nội nhóm (không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu); (3)mua bán với khối lượng lớn, chỉ phối thị trường vào thời điểm mở của đóng cửa; (4) đặt lệnh mua/bán sau đó hủy lệnh... nhằm tạo ra cung cầu giả tạo, Thao túng thị trường chứng khoản đối với 5 mã cổ phiếu AMD, HAI, GAB, F, ART, thu lợi bất chính 723.322.534.069 đồng, cụ thể: cổ phiếu AMD trong giai đoạn từ ngày 26/5/2017 đến ngày 13/7/2017, thu lợi bất chính 39.075.817.133 đồng, cổ phiếu HAI trong giai đoạn từ ngày 26/6/2017 đến ngày 09/02/2018, thu lợi bất chính 238.885.676.049 đồng, cổ phiếu GAB trong giai đoạn từ ngày 19/12/2019 đến ngày 27/11/2020, thu lợi bất chính 3.437.787.029 đồng, cổ phiếu F trong giai đoạn từ ngày 23/9/2020 đến ngày 10/01/2022, thu lợi bất chính 397.338.681.335 đồng, cổ phiếu ART trong giai đoạn từ ngày 02/01/2021 đến ngày 11/6/2021, thu lợi bất chính 44.584.572.523 đồng. Trong đó, riêng mã chứng khoán AMD thực hiện hành vi thao túng trong giai đoạn từ ngày 26/5/2017 đến ngày 13/7/2017 thu lợi bất chỉnh 39.075.817,133 đồng, trước thời điểm Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã đề nghị Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UBCKNN) xử lý theo quy định tại Điều 29 Nghị định 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2 nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm. Như vậy, số tiền Trịnh Văn Q1 đã thu lợi bất chính của 4 mã chứng khoán HAI, GAB, ART và F là 684.256.716.936 đồng.

Để thực hiện thao túng các mã cổ phiếu trên, đầu giờ giao dịch hàng ngày, Trịnh Văn Q1 chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 đô H2 chỉ đạo Trịnh Thị Thúy N7 cấp khống tiền cho các tài khoản do Quyết, H2 chỉ định. Cụ thể: Đầu giờ giao dịch hàng ngày, Trịnh Thị Minh H2 gọi điện, nhắn tin cho Trịnh Thị Thúy N7 thông bảo các số tài khoản thiếu tiền, cần được cấp hạn mức để đặt lệnh mua chứng khoán theo chỉ đạo của Quyết, Trịnh Thị Thúy N7 tiếp tục chỉ đạo lãnh đạo Phòng Dịch vụ chứng khoán, gồm: Nguyễn Thị Thanh P124, Nguyễn Thị Thị T169 và Bùi Ngọc T230 cấp hạn mức mua khống cho các tài khoản đang thiếu tiền của H2 bằng cách đăng nhập vào phần mềm quản trị "B Floor Trading" theo User mang tên “Nguyễn Thị Thanh P124 - Phuongntt"; "Nguyễn Thị Thị T169 - Thomntt"; "Bùi Ngọc T230 - Tubn" do Triệu Xã L231, Trưởng Phòng Công nghệ thông tin Công ty B cấp phân quyền truy cập để chọn thư mục “Cấp hạn mức khách hàng", tìm số tài khoản giao dịch chứng khoán do Trịnh Thị Thúy N7 cung cấp và đánh máy điền số tiền tương ứng theo yêu cầu của Nga vào các tài khoản này, sau đó truy cập vào phần mềm "VGAIA" nhấn "Duyệt" thì trên tài khoản chứng khoán do Trịnh Thị Minh H2 sử dụng sẽ hiển thị đủ tiền để đặt lệnh mua cổ phiếu theo chỉ đạo của Trịnh Văn Q1.

Kết quả điều tra xác định: Từ ngày 26/5/2017 đến ngày 10/01/2022, Trịnh Thị Thúy N7 đã chỉ đạo Nguyễn Thị Thanh P124, Nguyễn Thị Thị T169 và Bùi Ngọc T125 thực hiện 1.568 lần cấp khống tiền cho 79/141 tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng, với tổng giá trị là 170.598.050.000.000 đồng để H2 đặt 15.128 lệnh mua 2.850.120.160 cổ phiếu của 05 mã chứng khoán, gồm: AMD, HAI, GAB, ART, F với tổng giả trị 46.980.907.744.300 đồng, trong đó đã khớp lệnh mua 463.375.070 cổ phiếu, với tổng giá trị là 11.855.067.296.900 đồng, còn thiếu 11.651.608.017.410 đồng. Để hợp thức cho số tiền thiếu là 11.651.608.017.410 đồng trong 228 ngày giao dịch nêu trên, Trần Thị L140 và Quách Thị Xuân T134 (đều là Kế toán trưởng Công ty B qua các thời kỳ) ký 300 Ủy nhiệm chỉ với tổng số tiền 24.635.920.000.000 đồng trình Trịnh Thị Thúy N7, Phó Tổng Giám đốc hoặc Nguyễn Quỳnh A12, Tổng Giám đốc Công ty B ký chuyển tiền vào tài khoản của Công tỷ B mở tại BIDV Chi nhánh Hà Thành để Trung tâm lưu ký chứng khoản Việt Nam thanh toán bù trừ cho các tài khoản chứng khoản của các khách hàng giao dịch tại Công ty B, trong đó có 9.903.927.029.786 đồng/11.651.608.017.410 đồng của các lần khớp lệnh mua thiếu tiên cho 75/141 tài khoản do Trịnh Thị Minh Huệ sử dụng Thao túng thị trường chứng khoán.

Đối với số tiền Trịnh Thị Minh H2 mua chứng khoản thiếu nêu trên được Nguyễn Thị Thanh P124, Nguyễn Thị Thị T169 và Bùi Ngọc T125 tổng hợp chuyên cho Trần Thị L140, Quách Thị Xuân T134 tập hợp, sau đó đăng thông tin trên ứng dụng Viber của nhóm "B - Phòng kế toán và DVKH" do Trịnh Thị Thúy N7 lập ngày 02/01/2020, gồm: Trịnh Thị Thúy N7, Trưởng nhóm, Hương Trần Kiều D9, Chủ tịch HĐQT; Chu Tiến V107, Phó Chủ tịch HĐQT; Nguyễn Quỳnh A12, Tổng Giám đốc, Trần Thị L140, Quách Thị Xuân T134, Nguyễn Thị Thanh P124, Bùi Ngọc T232 và Nguyễn Thị Thanh T233, Trưởng phòng Quân trị rủi ro để cùng theo dõi, quản lý.

Trong thời gian diễn ra sai phạm trên, ngày 31/10/2019, Công ty B đã bị UBCKNN ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 873/QĐ-XPVPHC, xử phạt số tiền 125 triệu đồng về hành vi cho khách hàng mua chứng khoán khi không có đủ tiền theo quy định nhưng hành vi sai phạm này vẫn tiếp diễn với số tiền cấp không lớn hơn. Do lo sợ vi phạm pháp luật và gây rủi ro cho Công ty B trong trường hợp không thu được tiền của những tài khoản cấp khống tiền, Nguyễn Thị Thanh T233 đã báo cáo, soạn thảo để Nguyễn Quỳnh A12, Tổng Giám đốc Công ty B đã ký Bảo cáo số 01/2020/BC-TGĐ ngày 20/01/2020 (Báo cáo số 01) đề xuất "HĐQT cửthành viên HĐQT được phê duyệt hạn mức cho vay đối với những khách hàng có phát sinh giao dịch chậm tiền từ 20 tỷ đồng trở lên và/hoặc phê duyệt hạn mức giao dịch hằng ngày từ 20 tỷ đồng trở lên" và Báo cáo số 02/2020/BC-TGĐ ngày 28/4/2020 (Báo cáo số 02) để xuất HĐQT "chịu trách nhiệm phê duyệt giải ngân cho vay giao dịch chứng khoán đối với danh sách tài khoản nêu trên và/ hoặc giải ngân cho vay đối với các tài khoản phát sinh từ việc cấp hạn mức trên 10 tỷ đồng". Căn cứ đề xuất trên, HĐQT (Hương Trần Kiều D9, Trịnh Thị Thúy N7, Lê Bá Nguyên, Tổng Hải Ninh và Nguyễn Quỳnh N227) ký Biên bản họp HĐQT số 01 ngày 20/01/2020 (Biên bản số 01) và HĐQT (Hương Trần Kiều D9, Trịnh Thị Thúy N7, Lê Bá Nguyên và Nguyễn Quỳnh N227) ký Biên bản họp HĐQT số 10 ngày 28/4/2020, đồng ý theo đề xuất của Nguyễn Quỳnh A12. Từ đó, Chu Tiên V733, Chánh Văn phòng HĐQT ký tất trong Nghị quyết, trình Hương Trần Kiều D9 thay mặt HĐQT ký ban hành Nghị quyết số 01/2020/NQ-HĐQT-B ngày 20/01/2020 (Nghị quyết số 01) và Hương Trần Kiều D9, thay mặt HĐQT ký Nghị quyết số 10/2020/NQ-HĐQT-B (Nghị quyết số 10) tiếp tục ủy quyền cho Trịnh Thị Thúy N7 được cho khách hàng mua chứng khoán hàng ngày với số tiền trên 10 tỷ đồng. Việc HĐQT hợp và thống nhất ban hành nghị quyết ủy quyền cho Trịnh Thị Thủy N202 được cho khách hàng mua chứng khoán hàng ngày với số tiền trên 10 tỷ đồng cho mỗi tài khoản chứng khoản không có tài sản đảm bảo là trái pháp luật, giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 Thao túng thị trường chứng khoán, thu lời bất chính với số tiền đặc biệt lớn.

Trong khoảng thời gian Trịnh Thị Thúy N7 cấp khống tiền cho các tài khoản để Trịnh Thị Minh H2 thực hiện hành vi Thao túng thị trường chứng khoán, Chu Tiến V107 đã đại diện HĐQT, cùng với Nguyễn Quỳnh A12, đại diện Ban Tổng Giám đốc; Nguyễn Thị Thanh P124, đại diện Phòng dịch vụ chứng khoán; Quách Thị Xuân T134 và Trần Thị L140, đại diện Phòng Kế toán; Nguyễn Thị Thanh T233, đại diện phòng rủi ro và Triệu Xã L231, đại diện Phòng Công nghệ thông tin làm việc với Đoản kiểm tra của UBCKNN về vi phạm của Công ty B, đặc biệt là những vi phạm liên tiếp tái diễn cho khách hàng mua chứng khoán khi không có đủ tiển. Kết thúc cuộc kiểm tra, Chu Tiến V107 đã đại diện Công ty B ký biên bản kết luận của đoàn kiểm tra về sai phạm nêu trên. Đoàn kiểm tra đã yêu cầu chấm dứt sai phạm nhưng Chu Tiến V107, các bị can và các cả nhân liên quan vẫn tiếp tục đồng ý để Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Thúy N7 thực hiện hành vi trái pháp luật này kéo dài đến khi bị Cơ quan điều tra khởi tố, điều tra.

Hành vi của nhóm Trịnh Văn Q1 đã được Kết luận giám định của UBCKNN ngày 12/12/2022, xác định: Vi phạm khoản 4 Điều 9 Luật chứng khoản năm 2006 "Thông đồng để thực hiện việc mua, bán chứng khoản nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo,...", khoản 3 Điều 12 Luật chứng khoán năm 2019 “Sử dụng một hoặc nhiều tải khoản giao dịch của mình hoặc của người khác để thực hiện việc mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo,...", khoản 2 Điều 70 Nghị định 58/2012/NĐCP và điểm a, c khoản 2 Điều 3 Nghị định 156/2020/NĐ-CP của Chính phủ "a. Sử dụng một hoặc nhiều tài khoản giao dịch của mình hoặc của người khác... liên tục mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, câu giả tạo; b. Một người hay một nhóm người thông đồng... với nhau giao dịch mua bán chứng khoán mà không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu hoặc quyền sở hữu chi luân chuyển giữa các thành viên trong nhóm nhằm tạo giả chứng khoán, cung cầu giả tạo; c. Liên tục mua hoặc bán chứng khoán với khối lượng chi phối vào thời điểm mở cửa hoặc đồng cửa thị trường nhằm tạo ra mức giá đóng cửa hoặc giá mở cửa mới cho loại chứng khoản đó trên thị trường,...) và điểm b khoản 2 Điều 3 Nghị định 156/2020/NĐCP của Chính phủ “Đặt lệnh mua và bán cùng loại chứng khoán trong cùng ngày giao dịch... mà không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu hoặc quyền sở hữu chỉ luân chuyển giữa các thành viên trong nhóm nhằm tạo giá chứng khoán, cung cầu giả tạo", thu lời bất chính tổng số tiền 723.322.534.069 đồng. Tất cả các hành vi đó đều là hành vi vi phạm pháp luật hình sự được quy định tại Điều 211 Bộ luật hình sự.

- Về khoản thu lợi trái pháp luật của Công ty B: Tổng số tiền Công ty B thu từ hành vi trái quy định pháp luật (cấp hạn mức sức mua cho các tài khoản chứng khoản, thanh toán thay cho Trịnh Thị Minh H2 mua chứng khoán thiếu tiền) là 46.195.956.716 đồng (gồm: phí giao dịch của các lệnh khớp mua thiều tiên: 17.616.439.990 đồng và phí quản lý: 28.579.516.726 đồng). Công ty B đã nộp phí cho Sở giao dịch chứng khoán là 3.521.857.150 đồng, còn lại thu lợi là 42.674.099.566 đồng; trong đó: mã AMD là 202.577.903 đồng, mã HAI là 411.585.227 đồng; mã GAB là 37.011.979.501 đồng, mã F là 5.030.027.111 đồng; mã ART là 17.929.824 đồng.

- Về số tiền thu lợi bất chính: Trong các giai đoạn Thao túng thị trường chứng khoáng từ ngày 26/5/2017 đến ngày 10/01/2022, Trịnh Thị Minh Huề sử dụng 190/500 tài khoản chứng khoản mở tại 18/43 Công ty chứng khoán và 83/107 tài khoản ngân hàng (đứng tên 42 cả nhân, đại diện pháp nhân) để thao túng 5 mà cô phiếu AMD, HAI, GAB, F, ART, trong 562 phiên giao dịch; đặt 27.230 lệnh mua 5.705.577.000 cổ phiếu, khớp mua 1.299.665.090 cổ phiếu với giá trị 15.134.146.801.500 đồng. Trong đó, chủ động hủy 5.019 lệnh đặt mua 1.621.095.230 cổ phiếu; đặt 11.978 lệnh bản 1.477.410.730 cổ phiếu, đã khớp bán 1.343.026.290 cổ phiếu với giá trị 17.002.612.938.600 đồng và chủ động hủy 942 lệnh bán 84.315.890 cổ phiếu để Trịnh Văn Q1 thu lợi bất chính 723.322.534.069 đồng (trong đó, mã AMD trong giai đoạn từ ngày 26/5/2017 đến ngày 13/7/2017, thu lợi bất chính 39.075.817.133 đồng; mã HAI trong giai đoạn từ ngày 26/6/2017 đến ngày 09/02/2018, thu lợi bất chính 238,885.676.049 đồng; mã GAB trong giai đoạn từ ngày 19/12/2019 đến ngày 27/11/2020, thu lợi bất chính 3.437.787.029 đồng, mù F trong giai đoạn từ ngày 23/9/2020 đến ngày 10/01/2022, thu lợi bất chính 397.338.681.335 đồng, mã ART trong giai đoạn từ ngày 02/01/2021 đến ngày 11/6/2021, thu lợi bất chính 44.584.572.523 đồng). Cụ thể như sau:

(1). Đối với mã chứng khoán AMD: Từ ngày 26/5/2017 đến ngày 13/7/2017, giá cổ phiếu AMD tăng từ 13.750 đồng/cổ phiếu tại ngày 26/5/2017 lên 23.450 đồng/cổ phiếu tại ngày 07/6/2017 tương đương với mức tăng 70,54% và giả cổ phiếu AMD tại ngày 13/7/2017 là 10.000 đồng/cổ phiếu. Trong giai đoạn thao túng mã cổ phiếu AMD, Trịnh Thị Minh H2 sử dụng 18/500 tài khoản tham gia 31/35 phiên giao dịch cổ phiếu AMD, cụ thể;

a). Đối với giao dịch khớp lệnh thông thường của Nhôm 18 tài khoản - Đặt mua 122.243.210 cổ phiếu AMD chiếm 46,34% khối lượng đặt mua toàn thị trường, khớp mua 20.270.380 cổ phiếu AMD với tổng giá trị 319.870.896.500 đồng, chiếm 16,28% khối lượng khớp mua toàn thị trường, đặt bản 37.913.350 сổ phiếu AMD chiếm 17,73% khối lượng đặt bán toàn thị trường, khớp bán 36.028.790 cổ phiếu AMD với tổng giá trị 602.776.072.800 đồng, chiếm 28,93% khối lượng khớp bán toàn thị trường.

Trong đó, có 22/31 phiên có tỷ trọng đặt mua chiếm trên 25% khối lượng đặt mua toàn thị trường; 7/31 phiên có tỷ trọng khớp mua chiếm trên 25% khối lượng khớp toàn thị trường, có 9/31 phiên có tỷ trọng đặt bán chiếm trên 25% khối lượng đặt bản toàn thị trường; 9/31 phiên có tỷ trọng khớp bán chiếm trên 25% khối lượng khớp bản toàn thị trường.

- Khớp nội nhóm (không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu) trong 13/31 phiên với 133 giao dịch, tổng khối lượng khớp đối ứng là 2.675.170 cổ phiếu AMD chiếm 2,15% khối lượng khớp lệnh toàn thị trường, giá trị khớp đối ứng là 42.313.888.000 đồng.

- Nhóm tài khoản hủy mua 56,512.860 cổ phiếu AMD chiếm 68,65% khối lượng huỷ mua toàn thị trường; huỷ bán 1.666.130 cổ phiếu chiếm 3,05% khối lượng huỷ bản toàn thị trường. Trong đó, 19 phiên có tỷ lệ huỷ mua chiếm tỷ lệ trên 25% khối lượng huỷ muatoàn thị trường; 1 phiên có tỷ lệ hủy bán chiếm tỷ lệ trên 25% khối lượng hủy bán toàn thị trường.

- Trong đợt khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửa: Nhóm 18 tải khoản tham gia đặt lệnh mua trong 6/31 phiên với tổng khối lượng 3.796.060 cổ phiếu AMD chiếm 53,19% khối lượng đặt mua toàn thị trường, khớp mua 130.410 cổ phiếu AMD chiếm 7,02% khối lượng khớp mua toàn thị trường, tham gia đặt lệnh bán 7/31 phiên với tổng khối lượng 427,380 cổ phiếu AMD chiếm 3,71% khối lượng đặt bản toàn thị trường, khớp bản 361.750 cổ phiếu AMD chiếm 14,89% khối lượng khớp bản toàn thị trường.

Trong đó, có 5 phiên có tỷ trọng đặt mua chiếm trên 25% khối lượng đặt mua toàn thị trường, 2 phiên có tỷ trọng khớp mua chiếm trên 25% khỏi lượng khớp toàn thị trường, có 5 phiên có tỷ trọng đặt bản chiếm trên 25% khối lượng đặt bản toàn thị trường, 5 phiên có tỷ trọng khớp bán chiếm trên 25% khối lượng khớp bản toàn thị trường.

b). Đối với giao dịch khớp lệnh thỏa thuận của Nhóm 18 tài khoản - Nhóm 18 tài khoản khớp mua thỏa thuận với tổng khối lượng 6.140.000 cổ phiếu AMD trị giá 110.520.000.000 đồng, khớp bán thỏa thuận 200.000 cổ phiếu AMD trị giá 4.380.000.000 đồng.

Thu lợi bất chính. Từ ngày 26/5/2017 đến ngày 13/7/2017, Trịnh Văn Q1 chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 củng đồng phạm thực hiện hành vi thao túng đối với cổ phiếu AMD thu lợi bất chính 39.075.817.133 đồng.

(2). Đối với mã chứng khoán HAI: Từ ngày 26/6/2017 đến ngày 09/02/2018, giá cổ phiếu HAI tăng từ 3.780 đồng/cổ phiếu tại ngày 26/6/2017 lên 22.500 đồng/cổ phiếu tại ngày 08/08/2017, tương đương với mức tăng 459,2%; tại ngày 09/02/2018 giá cổ phiếu HAI là 4.610 đồng/cổ phiếu. Trong giai đoạn thao túng đối với mã chứng khoán HAI, Trịnh Thị Minh H2 sử dụng 69/500 tải khoản tham gia 156/161 phiên giao dịch cổ phiếu HAI, cụ thể như sau:

a). Đối với giao dịch khớp lệnh thông thường của Nhôm 69 tài khoản - Đặt mua 906,179,630 cổ phiếu HAI chiếm 48,91% so với khối lượng đặt mua toàn thị trường, khớp mua 216.195.720 cổ phiếu HAI với tổng giá trị 2.162.977.538.700 đồng, chiếm 28,39% khối lượng khớp mua toàn thị trường; đặt bán 267.412.830 cổ phiếu HAI chiếm 19,16% so với khối lượng đặt bán toàn thị trường, khớp bán 238.710.250 cổ phiếu HAI với tổng giá trị 2.445.868.588.700 đồng, chiếm 8,12% khối lượng khớp bản toàn thị trường;

Trong đó, có 78/156 phiên có tỷ trọng đặt mua chiếm trên 25% khối lượng đặt mua toàn thị trường: 49/156 phiên có tỷ trọng khớp mua chiếm trên 25% khối lượng khớp toàn thị trường; có 44/156 phiên có tỷ trọng đặt bản chiếm trên 25% khối lượng đặt bán toàn thị trường; 68/156 phiên có tỷ trọng khớp bán chiếm trên 25% khối lượng khớp bán toàn thị trường.

- Khớp nội nhóm (không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu) trong 64/156 phiên với 1.112 giao dịch, tổng khối lượng khớp đối ứng là 54.348.560 cô phiếu HAI chiếm 7,14% khối lượng khớp lệnh toàn thị trường, giả trị khớp đối ứng là 617.107.804.300 đồng.

Nhóm tài khoản huỷ mua 239.283.200 cổ phiếu chiếm 52,15% khối lượng huỷ mua toàn thị trường; huỷ bản 26.577.940 cổ phiếu chiếm 8,12% khối lượng huỷ bản toàn thị trường. Trong đó, 59 phiên có tỷ lệ huỷ mua chiếm tỷ lệ trên 25% khối lượng huỷ muatoàn thị trường: 10 phiên có tỷ lệ hủy bán chiếm tỷ lệ trên 25% khối lượng hủy bản toàn thị trường.

- Trong đợt khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửu: Nhóm 69 tải khoản tham gia đặt lệnh mua trong 113/156 phiên với tổng khối lượng 45,620,670 cổ phiếu HAI chiếm 56,23% khối lượng đặt mua toàn thị trường, khớp mua 2.923.980 cổ phiếu HAI chiếm 23,07% khối lượng khớp mua toàn thị trường; Nhóm tài khoản tham gia đặt lệnh bán trong 31/156 phiên với tổng khối lượng 2.467.720 cổ phiếu HAI chiếm 3,15% khối lượng đặt bán toàn thị trưởng, khớp bán 1.597.860 cổ phiếu HAI chiếm 7,10% khối lượng khớp bán toàn thị trường.

Trong đó, có 36 phiên có tỷ trọng đặt mua chiếm trên 25% khối lượng đặt mua toàn thị trường, 15 phiên có tỷ trọng khớp mua chiếm trên 25% khối lượng khớp toàn thị trường, có 13 phiên có tỷ trọng đặt bán chiếm trên 25% khối lượng đặt bản toàn thị trường; 13 phiên có tỷ trọng khớp bản chiếm trên 25% khối lượng khớp bản toàn thị trường.

b). Đối với giao dịch khớp lệnh thỏa thuận của Nhóm 69 tải khoản - Nhóm 49 tài khoản khớp mua thỏa thuận với tổng khối lượng 14.208.150 cổ phiếu HAI trị giá 167.985.642.500 đồng, khớp bán thỏa thuận 19.078.150 cổ phiếu HAI trị giá 247.619.642.500 đồng.

- Khớp nội nhóm (không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu) trong 5 phiên với 14 giao dịch, tổng khối lượng khớp nội nhóm là 14.208.150 cổ phiếu HAI giá trị khớp nội nhóm là 167.985.642.500 đồng.

Thu lợi bất chính: Từ ngày 26/6/2017 đến ngày 09/02/2018, Trịnh Văn Q1 chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 cùng đồng phạm thực hiện hành vi Thao túng thị trường chúng khoán đối với cổ phiếu HAI thu lợi bất chính 238.885.676.049 đồng.

(3). Đối với mã chứng khoán GAB: Từ ngày 19/12/2019 đến ngày 27/11/2020, giá cổ phiếu GAB tăng từ 10.900 đồng/cổ phiếu tại ngày 19/12/2019 lên 193.600 đồng/cổ phiếu tại ngày 27/11/2020, tương đương với mức tăng 1.776%. Trong giai đoạn thao tùng mã cổ phiếu GAB, Trịnh Thị Minh H2 sử dụng 81/500 tài khoản tham gia 236/237 phiên giao dịch cổ phiếu GAB (có 07 tài khoản chỉ tham gia giao dịch thỏa thuận), cụ thể như sau:

a). Đối với giao dịch khớp lệnh thông thường của Nhóm 81 tải khoản - Đặt mua 84.472.120 cổ phiếu GAB chiếm 59,17% so với khối lượng đặt mua toàn thị trường, khớp mua 18.994.100 cổ phiếu GAB với tổng giá trị 2.700.901,059.000 đồng, chiếm 66,07% khối lượng khớp mua toàn thị trường, đặt bản 22.816,720 cổ phiếu GAB chiếm 55,01% so với khối lượng đặt bản toàn thị trường, khớp bán 15.493.180 cổ phiếu GAB với tổng giá trị 2.351.655.892.500 đồng, chiếm 53,89% khối lượng khớp bán toàn thị trường.

Trong đó, có 200/236 phiên có tỷ trọng đặt mua chiếm trên 25% khối lượng đặt mua toàn thị trường (124/200 phiên cổ phiếu GAB tăng giá), 203/236 phiên có tỷ trọng khớp mua chiếm trên 25% khối lượng khớp toàn thị trường (115/203 phiên cổ phiếu GAB tăng giả); có 197/236 phiên có tỷ trọng đặt bản chiếm trên 25% khối lượng đặt bán toàn thị trường (118/197 phiên cổ phiếu GAB tăng giá); 193/236 phiên có tỷ trọng khớp bản chiếm trên 25% khối lượng khớp bán toàn thị trường (113/193 phiên cổ phiếu GAB tăng giá).

- Khớp nội nhóm (không dẫn đến chuyển nhương thực sự quyền sở hữu) trong 158/236 phiên với 6.067 giao dịch, tổng khối lượng khớp đối ứng là 9.861.560 cô phiếu GAB chiếm 34,30 % khối lượng khớp lệnh toàn thị trường, giá trị khớp đối ứng là 1.724.194.934.500 đồng.

Nhóm tài khoản huỷ mua 16.520.650 cổ phiếu GAB chiếm 62,94% khối lượng huỷ mua toàn thị trường, huỷ bản 1.808.950 cổ phiếu chiếm 31,99% khối lượng huỷ bản toàn thị trường. Trong đó, 101 phiên có tỷ lệ huỷ mua chiếm tỷ lệ trên 25% khối lượng huỷ mua toàn thị trường: 105 phiên có tỷ lệ hủy bán chiếm tỷ lệ trên 25% khối lượng hủy bán toàn thị trường.

Trong đợt khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửa: Nhóm 81 tải khoản tham gia đặt lệnh mua trong 58/236 phiên với tổng khối lượng 3.281.900 cổ phiếu GAB chiếm 69,62% khối lượng đặt mua toàn thị trường, khớp mua 610.170 cổ phiếu GAB chiếm 29,79% khối lượng khớp mua toàn thị trường; Nhóm 81 tài khoản tham gia đặt lệnh bản trong 48/236 phiện với tổng khối lượng 405.790 cổ phiếu chiếm 16,30% tổng khối lượng đặt bán toàn thị trường, khớp hán 163.600 cổ phiếu GAB chiêm 7,99% khối lượng khớp bản toàn thị trường.

Trong đó, có 55/58 phiên có tỷ trọng đặt mua chiếm trên 25% khối lượng đặt mua toàn thị trường, 23/58 phiên có tỷ trọng khớp mua chiếm trên 25% khối lượng khớp toàn thị trường, có 32/48 phiên có tỷ trọng đặt bản chiếm trên 25% khối lượng đặt bản toàn thị trường; 18/48 phiên có tỷ trọng khớp bán chiếm trên 25% khối lượng khớp bán toàn thị trường.

b). Đối với giao dịch khớp lệnh thỏa thuận của Nhóm 81 tài khoản - Nhóm 81 tài khoản khớp mua thỏa thuận với tổng khối lượng 49.844.340 cô phiếu GAB trị giá 6.614.125.397.000 đồng, khớp bản thỏa thuận 45.534.960 cổ phiếu GAB trị giá 6.222.586.418.000 đồng.

- Khớp nội nhóm (không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu) 44.224.960 cổ phiếu GAB với giá trị là 6.061.431.418.000 đồng.

Thu lợi bất chính: Từ ngày 19/12/2019 đến ngày 27/11/2020, Trịnh Văn Q1 chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 cùng đồng phạm thực hiện hành vi thao túng đối với cổ phiếu GAB thu lợi bất chính 3.437.787.029 đồng.

(4). Đổi với mã chứng khoán ART: Từ ngày 02/01/2021 đến ngày 11/6/2021, giá cổ phiếu ART tăng từ 3.300 đồng/cổ phiếu lên 10.300 đồng/cổ phiếu tương đương với mức tăng 330%. Trong giai đoạn thao túng mã cổ phiếu ART, Trịnh Thị Minh H2 sử dụng 36/500 tài khoản tham gia 58/107 phiên giao dịch cổ phiếu ART, cụ thể như sau:

a). Đối với giao dịch khớp lệnh thông thường của Nhóm 36 tài khoản Đặt mua 366.908.900 cổ phiếu ART chiếm 24,75% so với khối lượng đặt mua toàn thị trường, khớp mua 81.720.200 cổ phiếu ART với tổng giá trị 798.437.680.000 đồng, chiếm 11,09% khối lượng khớp mua toàn thị trường, đặt bán 84.183.900 cổ phiếu ART chiếm 6,39% so với khối lượng đặt bản toàn thị trường, khớp bán 81.229.200 cổ phiếu ART với tổng giá trị 841.647.640.000 đồng, chiếm 11,02% khối lượng khớp bản toàn thị trường, Trong đó, có 36/58 phiên có tỷ trọng đặt mua chiếm trên 25% khối lượng đặt mua toàn thị trường, 16/58 phiên có tỷ trọng khớp mua chiếm trên 25% khối lượng khớp toàn thị trường, có 08/58 phiên có tỷ trọng đặt bản chiếm trên 25% khối lượng đặt bản toàn thị trường; 12/58 phiên có tỷ trọng khớp bản chiếm trên 25% khối lượng khớp bán toàn thị trường.

- Nhóm tài khoản huỷ mua 56.077.700 cổ phiếu chiếm 17,32% khối lượng huỷ mua toàn thị trường; huỷ bán 3.154.700 cổ phiếu chiếm 1,18% khối lượng huỷ bán toàn thị trường. Trong đó, 21/58 phiên có tỷ lệ huỷ mua chiếm tỷ lệ trên 25% khối lượng huỷ mua toàn thị trường, 2/58 phiên có tỷ lệ hủy bản chiếm tỷ lệ trên 25% khối lượng hủy bản toàn thị trường.

- Trong đợt khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửa: Nhóm 36 tài khoản tham gia đặt lệnh mua trong 23/58 phiên với tổng khối lượng 27.101.300 cổ phiếu ART chiếm 50,85% khối lượng đặt mua toàn thị trường, khớp mua 4.436.700 cổ phiếu ART chiếm 26,71% khối lượng khớp mua toàn thị trường; Nhóm 36 tài khoản tham gia đặt lệnh bản trong 4/58 phiên với tổng khối lượng 399.200 cổ phiếu ART chiếm 1,05% khối lượng đặt bản toàn thị trường, khớp bán 399.200 cổ phiếu ART chiếm 1,76% khối lượng khớp bản toán thị trường.

Trong đó, có 20 phiên có tỷ trọng đặt mua chiếm trên 25% khối lượng đặt mua toản thị trường; 9 phiên có tỷ trọng khớp mua chiếm trên 25% khối lượng khớp toàn thị trường; có 4 phiên có tỷ trọng đặt bản chiếm trên 25% khối lượng đặt bán toàn thị trường, 4 phiên có tỷ trọng khớp bán chiếm trên 25% khối lượng khớp bán toàn thị trường.

b). Đối với giao dịch khớp lệnh thoả thuận của Nhóm 36 tài khoản Trong giai đoạn từ ngày 02/01/2021 đến ngày 11/6/2021, Nhóm 36 tài khoản không phát sinh giao dịch thoả thuận.

Thu lợi bất chính: Từ ngày 02/01/2021 đến ngày 11/6/2021, Trịnh Văn Q1 chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 cùng đồng phạm thực hiện hành vi thao túng đối với mã cổ phiếu GAB thu lợi bất chính 44.584.572.523 đồng.

(5). Đối với mã chứng khoán F: Từ ngày 23/09/2020 đến ngày 10/01/2022, giả cổ phiếu F tăng từ 3.050 đồng/cổ phiếu tại ngày 23/9/2020 lên 21.150 đồng/cổ phiếu tại ngày 10/01/2022, tương đương với mức tăng 593,4%. Riêng phiên giao dịch ngày 10/01/2022, giả cổ phiếu F biến động mạnh: tăng trần lên 24.100 đồng/cổ phiếu (tương đương với mức tăng 690,2% so với giá đóng cửa ngày 23/9/2020) sau đó giảm sản về mức 21.000 đồng (giảm 12,9% so với mức giá cao nhất) và đóng cửa ở mức 21.150 đồng/cổ phiếu. Giá trung bình phiên giao dịch ngày 10/01/2022 là 22.586 đồng/cổ phiếu. Trong phiên giao dịch này, Trịnh Văn Q1 chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 đã bán “chui” (không báo cáo về việc dự kiến giao dịch) 74.800.0000 cổ phiếu F với tổng giá trị khớp lệnh là 1.689.422.165.000 đồng. UBCKNN phát hiện hành vi vi phạm của Trịnh Văn Q1, ban hành văn bản số 198/UBCK-TT ngày 11/01/2022 chỉ đạo Sở Giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh ra quyết định hủy bỏ giao dịch bản 74.800.000 cổ phiếu F ngày 10/01/2022 của Trịnh Văn Q1, kịp thời ngăn chặn không để hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, giao dịch của Trịnh Văn Q1 đã ảnh hưởng đến diễn biến giá cổ phiếu F trong ngày 10/01/2022 cũng như thời gian tiếp theo.

Trong giai đoạn thao túng mã chứng khoán F từ ngày 23/9/2020 đến 10/01/2022, Trịnh Thị Minh H2 sử dụng 96/500 tài khoản tham gia 283/327 phiên giao dịch cổ phiếu F, cụ thể:

a). Đối với giao dịch khớp lệnh thông thường của Nhóm 96 tài khoản - Đặt mua 4.225.773.140 cổ phiếu F (chiếm 26,12% khối lượng đặt mua toàn thị trường). Trong đó, có 112/283 phiên tổng khối lượng đặt mua của nhóm chiếm trên 25% khối lượng đặt mua toàn thị trường (84/112 phiên cổ phiếu F tăng giá).

Khớp mua 964.958.140 cổ phiếu F với tổng giá trị 9.148.959.627.300 đồng (chiếm 12,54% tổng khối lượng khớp mua toàn thị trường). Trong đó, có 47/283 phiên có tỷ trọng khớp mua chiếm trên 25% khối lượng khớp toàn thị trường (39/47 phiên cổ phiếu F tăng giá).

- Đặt bán 1.065.083.930 cổ phiếu F (chiếm 7,10% khối lượng đặt bản toàn thị trường). Trong đó, có 17/283 phiên tỷ lệ đặt bán của nhóm chiếm trên 25% khối lượng đặt bán toàn thị trường (02/17 phiên cổ phiếu F tăng giá);

- Khớp bán 985.249.100 cổ phiếu F với tổng giá trị 9.071.242.579.600 đồng (chiếm 12,80% khối lượng khớp bán toàn thị trường). Trong đó, có 49/283 phiên có tỷ trọng khớp bán chiếm trên 25% khối lượng khớp bản toàn thị trưởng (11/49 phiên cổ phiếu F tăng giá).

- Khớp nội nhóm (không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu) trong 23/283 phiên tham gia giao dịch, tổng khối lượng khớp đối ứng là 32.233.800 cô phiếu chiếm 0,42% khối lượng khớp toàn thị trường, giá trị khớp đối ứng là 189.397.833.500 đồng.

- Nhóm tài khoản huỷ mua 1.250.227.370 cổ phiếu F chiếm 25,19% khối lượng huỷ mua toàn thị trường. Trong đó, 94 phiên tỷ lệ huỷ mua chiếm trên 25% khối lượng huỷ mua toàn thị trường;

- Huỷ bản 37,423.940 cổ phiếu F chiếm 0,83% khối lượng huỷ bán toàn thị trường. Trong đó, có 01 phiên hủy bản chiếm trên 25% khối lượng hủy bán toàn thị trưởng.

- Trong đợt khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửa:

+ Nhóm 96 tài khoản tham gia đặt lệnh mua trong 207/283 phiên với tổng khối lượng đặt mua là 481.583.360 cổ phiếu F (chiếm 62,69% tổng khối lượng đặt mua toàn thị trường). Trong đó, có 163/207 phiên tỷ trọng đặt mua chiếm tỷ lệ trên 25% so với thị trường, khớp mua 67.446.710 cổ phiếu F (chiếm 22,17% khối lượng khớp mua toàn thị trường trong phiên xác định giá đóng cửa). Trong đó, 51/207 phiên có tỷ trọng khớp mua chiếm trên 25% khối lượng khớp toản thị trưởng trong phiên xác định giả đóng cửa Đặt bán trong 13/283 phiên với tổng khối lượng đặt bán là 6.722.540 cổ phiếu F (chiếm 1,75% khối lượng đặt bán toàn thị trường). Trong đó, có 7/13 phiên có khối lượng đặt bản chiếm tỉ trọng trên 25% tổng khối lượng đặt bản toàn thị trường; tổng khối lượng khớp bán 5.314.540 cổ phiếu F (chiếm 1,75% khối lượng khớp bán toàn thị trường trong phiên xác định giả đóng cửa). Trong đó, có 5/13 phiên có tỷ trọng khớp bán chiếm trên 25% khối lượng khớp bán toàn thị trường trong phiên xác định giá đóng cửa.

b). Đối với giao dịch khớp lệnh thoả thuận của Nhóm 96 tài khoản Trong giai đoạn từ ngày 23/9/2020 đến 10/01/2022, Nhôm 96 tài khoản không phát sinh giao dịch thoả thuận.

Thu lợi bất chính: Từ ngày ngày 23/9/2020 đến ngày 10/01/2022, Trịnh Văn Q1 chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 cùng đồng phạm thực hiện hành vi Thao túng thị trường chứng khoản đối với cổ phiếu F thu lợi bất chính 397.338.681.335 đồng. Đối với Trịnh Văn Q1 chỉ đạo. Trịnh Thị Minh H2 việc bán trái pháp luật 74.800.0000 cổ phiếu F với tổng giá trị khớp lệnh là 1.689.422.165.000 đồng (ngày 10/01/2022), đã hoàn thành về hành vi phạm tội nhưng chưa đạt hậu quả là do UBCKNN ngăn chận.

Về việc sử dụng số tiền thu lợi bất chính 723.322.534.069 đồng, Trịnh Văn Q1 đã chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 chuyển tiền để Quyết sử dụng các mục đích khác nhau, cụ thể:

- Từ ngày 08/02/2021 đến ngày 21/10/2021, chuyển 83.786.298.800 đồng vào tải khoản của Công ty CP Hàng không TV để mua cổ phần Công ty CP Hàng không TV;

- Ngày 17/3/2021, chuyển 29,34 tỷ đồng vào tài khoản số 222100001xxxx của Công ty NH để mua cổ phần Công ty CP CP F Travel;

- Ngày 17/01/2018, chuyển 35,95 tỷ đồng vào tài khoản số 2221000000xxxx của Lê Thị Ngọc D (vợ Quyết);

- Ngày 09/03/2020, chuyển 9.060.575.000 đồng vào tài khoản số 3101000186xxxx của Công ty CP Nông dược HAI để mua cổ phần của Công ty CP Nông được HAI (mã chứng HAI);

- Từ ngày 06/02/2020 đến ngày 09/4/2021, 13 lần chuyển 73.650.000.000 đồng vào tài khoản của Tống Xuân V212 để trả nợ.

- Trả tiền sửa chữa nhà biệt thự BT30, khu đô thị Mỹ Đình đứng tên Trịnh Văn Q1 và Lê Thị Ngọc D với số tiền 7.799.366.000đồng;

- Từ ngày 22/8/2017 đến ngày 04/3/2021 nộp 38.105,100.000 đồng vào tài khoản chứng khoán đứng tên Trịnh Văn Q1, - Ngày 28/05/2021 chuyển 100 tỷ đồng vào tài khoản số 10787125xxxx của Trịnh Thị Minh H2 mở tại Ngân hàng Vietinbank để gửi tiết kiệm.

- Số tiền còn lại, Quyết và H2 sử dụng để mua bán chứng khoán, hoạt động của các công ty thuộc T và các công ty liên quan.

Kết quả điều tra đã làm rõ được hành vi phạm tội của các bị can như sau:

(1). Bị can Trịnh Văn Q1, là chủ mưu, chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thúy N7, Hương Trần Kiều D9 và các đồng phạm khác thực hiện hành vi cấp khống tiên cho các tài khoản do H2 quản lý sử dụng để thao túng 05 mã cổ phiếu AMD, HAI, GAB, ART và F thu lợi bất chính số tiền 723.322.534.069 đồng, trong đó có mã AMD thao túng trong giai đoạn từ ngày 26/5/2017 đến ngày 13/7/2017 thu lợi bất chính 39.075.817.133 đồng, trước thời điểm Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã đề nghị UBCKNN xử lý theo quy định tại Điều 29 Nghị định 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Do đó, Trịnh Văn Q1 phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền thu lợi bất chính của 04 mã chứng khoán HAI, GAB, ART và F là 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu (2). Bị can Trịnh Thị Minh H2, Kế toán T, em ruột Trịnh Văn Q1: Thực hiện chỉ đạo của Trịnh Văn Q1, H2 nhờ 45 cá nhân có quan hệ gia đình, đứng tên lập hồ sơ, thủ tục để H2 thành lập 20 công ty và mở 500 tài khoản tại 43 công ty chứng khoán giao cho H2 quản lý, sử dụng để thực hiện các hành vi Thao túng thị trường chứng khoán. Từ ngày 26/5/2017 đến ngày 10/01/2022, H2 đã sử dụng 190/500 tải khoản chứng khoản mở tại 18/43 Công ty chứng khoán và 83 tải khoản ngân hàng để: (1) liên tục mua bán cùng loại chứng khoán; (2) mua bán khớp chéo (không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu); (3) mua bán với khối lượng lớn, chỉ phối thị trường vào thời điểm mở của đóng cửa; (4) đặt lệnh mua/bán sau đó hủy lệnh.... nhầm tạo ra cung cầu giả tạo, thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, GAB, ART và F, giúp Quyết thu lợi bất chính số tiền 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.

(3). Bị can Trịnh Thị Thúy N7, Thành viên HĐQT, Phó Tổng Giám đốc Công ty B: Thực hiện chỉ đạo của Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 và ủy quyền của HĐQT tại các Nghị quyết số 01 và số 10, Nga đã chỉ đạo Phòng Dịch vụ chứng khoán cấp khống tiền cho nhóm tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng để đặt lệnh mua cổ phiếu F, ART, HAI, AMD, GAB với tổng số tiền là 170.598.050.000.000 đồng; tổng giá trị thiếu tiền khớp lệnh mua là 11.651.608.017.410 đồng, giúp Trịnh Văn Q1 Trịnh Thị Minh H2 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 100 triệu đồng.

(4). Bị can Hương Trần Kiều D9, Phó Chủ tịch Thường trực T kiêm Chủ tịch HĐQT, người đại diện theo pháp luật của Công ty B: Biết Trịnh Thị Thúy N7 cho các tài khoản chứng khoán trong nhóm của Trịnh Văn Q1 mua cổ phiếu khi không có đủ tiền trong tài khoản là trái pháp luật nhưng đã ký Biên bản họp HĐQT số 01 và số 10, đại diện HĐQT kỷ Nghị quyết số 01 và số 10, ủy quyền cho Trịnh Thị Thúy N7 được cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sửdụng mua chứng khoán với số tiền trên 10 tỷ đồng không có tài sản đảm bảo trái pháp luật, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 03 mã cổ phiếu F, GAB, ART, thu lợi bất chính 445.361.040.887 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu vẫ khai được hưởng lương 80 triệu đồng/tháng.

(5). Bị can Chu Tiến V107, Chánh Văn phòng HĐQT, Phó Chủ tịch Thường trực HĐQT Công ty B: Vượng biết việc cho khách hàng mua chứng khoán không có đủ tiền là trái quy định của pháp luật; được Hương Trần Kiều D9 ủy quyền giám sát quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐQT. Vượng ký tắt vào Nghi quyết số 01 để Hương Trần Kiều D9 ký ủy quyền cho Trịnh Thị Thúy N7 được cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng mua chứng khoán với số tiền trên 10 tỷ đồng không có tài sản đảm bảo trái pháp luật. Vượng được các cá nhân thuộc các Phòng dịch vụ chứng khoán, Kế toán, Quản trị rủi ro báo cáo hàng ngày việc cho nhóm tài khoản của Nga mua chứng khoán khi không có đủ tiền trên ứng dụng Viber. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, Vượng đã thay mặt HĐQT làm việc, ký biên bản với Đoàn kiểm tra của UBCKNN về vi phạm của B khí cho khách hàng mua chứng khoán không có đủ tiền. Tuy nhiên, Vượng vẫn đồng ý để Nga cấp tiền khống cho các tài khoản do H2 quản lý, sử dụng để thao túng 03 mã cổ phiếu F, GAB, ART, giúp Quyết thu lợi bất chính 445.361.040.887 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng phụ cấp 4,5 triệu đồng/tháng.

(6). Bị can Nguyễn Quỳnh A12, Tổng Giám đốc Công ty B: chịu trách nhiệm điều hành toàn diện hoạt động kinh doanh chứng khoán của Công ty B; quá trình thực hiện nhiệm vụ Quỳnh Anh biết Trịnh Thị Thúy N7 cho các tài khoản chứng khoán do H2 quản lý, sử dụng mua chứng khoán khi không có đủ tiền trong tài khoản là trái quy định pháp luật nhưng đã ký Báo cáo số 01 ngày 20/01/2020 và số 02 ngày 28/4/2020 đề xuất với HĐQT ủy quyền cho Trịnh Thị Thúy N7 được cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng mua chứng khoán với số tiền trên 10 tỷ đồng không có tài sản đảm bảo trái pháp luật; ký các chứng từ kế toán, báo cáo tài chính, hạch toán các khoản tiền từ việc cho mua chứng khoán thiếu tiền, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 03 mã cổ phiếu F, GAB, ART, thu lợi bất chính 445.361.040.887 đồng. Bị can. Quỳnh Anh đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 73 triệu đồng/tháng.

(7). Bị can Nguyễn Thị Thanh P124, Trưởng phòng Dịch vụ chứng khoán Công ty B: Chịu trách nhiệm quản lý tài khoản chứng khoán, thanh toán bù trừ chứng khoán... Thực hiện chỉ đạo của Trịnh Thị Thúy N7, từ ngày 26/5/2017 đến ngày 10/01/2022, Phương đã thực hiện 596 lần cấp khống số tiền 96.456 tỷ đồng cho 69 tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 sử dụng, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 21 triệu đồng/tháng.

(8). Bị can Nguyễn Thị Thị T169, Phó Trưởng phòng Dịch vụ chứng khoán Công ty B: Chịu trách nhiệm quản lý tài khoản chứng khoản, thanh toán bù trừ chứng khoán... Thực hiện chỉ đạo của Trịnh Thị Thúy N7 và Nguyễn Thị Thanh P124, từ ngày 19/12/2019 đến ngày 29/4/2021, Thơm đã thực hiện 872 lần cấp khống cho 03 mã cổ phiếu GAB, ART và F số tiền 51.648 tỷ đồng cho 35 tải khoản do Trịnh Thị Minh H2 sử dụng, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 03 mã cổ phiếu F, GAB, ART, thu lợi bất chính 445.361.040.887 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 17 triệu đồng/tháng.

(9). Bị can Bùi Ngọc T125, Phó Trưởng phòng Dịch vụ chứng khoán Công ty B: Chịu trách nhiệm quản lý tài khoản chứng khoán, thanh toán bù trừ chứng khoán... Thực hiện chỉ đạo của Trịnh Thị Thúy N7 và Nguyễn Thị Thanh P124, từ ngày 23/3/2020 đến ngày 07/01/2022, Tú đã thực hiện 100 lần cấp khống cho 02 mã cổ phiếu GAB và F số tiền 22.494 tỷ đồng cho 18 tài khoản chứng khoán do Trịnh Thị Minh H2 sử dụng, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 02 mã cổ phiếu F, GAB thu lợi bất chính 400.776.468.364đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 18 triệu đồng/tháng.

(10). Bị can Trần Thị L140, Kế toán trưởng Công ty B (từ ngày 04/9/2020 đến nay): Chịu trách nhiệm kỹ các chứng tử, hóa đơn, sổ sách kế toán, thanh toán bù trừ chứng khoán... Từ ngày 14/9/2020 đến ngày ngày 11/01/2022, Lan lập, trình Nguyễn Quỳnh A12/Trịnh Thị Thúy N7 kỳ 140 Ủy nhiệm chỉ chuyên 10.358.700.000.000 đồng để thanh toán bù trừ đối với mã cổ phiếu GAB, ART và F cho 138 ngày giao dịch, với tổng số tiền thiếu khí khớp lệnh là 4.307.117.502.532 đồng, giúp Trịnh Văn Q1 thao tùng 03 mã cổ phiếu F, GAB, ART thu lợi bất chính 445.361.040.887 đông. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 28 triệu đồng/tháng.

(11). Bị can Quách Thị Xuân T134, Phó Phòng kế toán Công ty B (từ tháng 9/2018 đến ngày 03/9/2020): Chịu trách nhiệm kỳ các chứng từ, hóa đơn, số sách kế toán, thanh toán bù trừ chứng khoản... Từ ngày 23/12/2019 đến ngày 03/9/2020, Thu đã lập, trình Nguyễn Quỳnh A12/Trịnh Thị Thúy N7 kỳ 106 Ủy nhiệm chỉ chuyển 8.022.420.000.000 đồng để thanh toán bù trừ đối với mã cổ phiếu GAB cho 100 ngày giao dịch, với tổng số tiền thiếu khi khớp lệnh là 5.272.436.529.007 đồng, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 01 mã cổ phiếu GAB thu lợi bất chính 3.437.787.029đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 28 triệu đồng/tháng.

(12). Bị can Trịnh Văn Đ78, Trưởng nhóm vật tư cảnh quan, Phòng Vật tư mua sắm và cung ứng vật tư Công ty TNHH FL: Cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân, ký các giấy tờ để H2 thành lập, đứng tên là người đại diện theo pháp luật 03 công ty và mở 21 tài khoản chứng khoán: (1) Công ty TNHH Đầu tư Thương mại và Xuất nhập khẩu Vietexco; (2) Công ty CP Vật tư thiết bị và xây dựng ĐT Hà Nội; (3) Công ty CP Đầu tư và Thương mại SCO. Ngoài ra, Đại còn cho H2 mượn chứng minh thư mở 12 tài khoản chứng khoán mang tên cá nhân để H2 Thao túng thị trường chứng khoán.

Trịnh Thị Minh H2 đã sử dụng 14/33 tài khoản đứng tên công ty và cá nhân Trịnh Văn Đ78 để thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, GAB, ART, F. Cụ thể: H2 sửdụng 14 tài khoản này để giao dịch trong 373 phiên giao dịch, đối với 04 mã chứng khoán: HAI, GAB, ART, F, đặt 4.211 lệnh mua, giá trị khớp mua 1.113.543.692.400 đồng, 447 lần hủy mua; đặt 1.230 lệnh bán, giá trị khớp bán: 115.558.143.900 đồng; ký khống 110 chứng từ, nộp tiền, chuyển tiền, rút tiền để H2 thực hiện giao dịch với tổng số tiền 1.469.143.321.000 đồng, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.

(13). Bị can Nguyễn Văn M8, Phó Tổng giám đốc Công ty F: Cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân, ký các giấy tờ để thành lập, đứng tên là người đại diện theo pháp luật 02 công ty để H2 mở 43 tài khoản chứng khoán, gồm: Công ty CP Đầu tư thương mại và phát triển dịch vụ Phúc Thịnh, Công ty CP Đầu tư và xây dựng An Du và đứng tên cá nhân Nguyễn Văn M8 mở 16 tài khoản chứng khoản để H2 sử dụng Thao túng thị trường chứng khoán. Cụ thể: H2 đã sử dụng 11/43 tài khoản để thực hiện Thao từng thị trường chứng khoán trong 166 phiên giao dịch đối với 04 mã chứng khoán: F, GAB, HAI, ART, đặt 612 lệnh mua, với tông giá trị khớp mua 295,744.186.100 đồng; hủy mua 89 lần; đặt 730 lệnh bản với tổng giá trị khớp bản: 486.465.465.400 đồng, kỷ 76 chứng từ để chuyển tiền, nộp tiền, rút tiền để Huề sử dụng với tổng số tiến 1.875.341.000.000 đồng, giúp Trịnh Văn Q1 thao tùng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.

(14). Bị can Trịnh T86, Trưởng phòng vật tư, Công ty TNHH FL: Cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân, ký các giấy tờ, tài liệu liên quan để thành lập, đứng tên là người đại diện theo pháp luật Công ty TNHH Đầu tư và phát triển ITH mở 16 tài khoản chứng khoán và mở 17 tải khoản chứng khoản cá nhân để H2 sử dụng Thao túng thị trường chứng khoản. Cụ thể: H2 đã sử dụng 17/33 tài khoản để thực hiện hành vị Thao túng thị trường chứng khoán trong 308 phiên giao dịch đối với 04 mã chứng khoản F, GAB, HAI, ART, đặt 1.225 lệnh mua với giá trị khớp mua: 964.636.509,600 đồng; hủy 213 lệnh mua, đặt 582 lệnh bản với tổng giả trị khớp bản 1.074.945.451.900 đồng, kỷ 101 chứng từ (ủy nhiệm chỉ, giấy rút tiền mặt), với tổng số tiền 1.402.088.200.000 đồng, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 35 triệu đồng/tháng.

(15). Bị can Nguyễn Thị Hạ D228, Thợ may: Cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân, ký các giấy tờ để thành lập và đứng tên người đại diện theo pháp luật Công ty TNHH Khu Công nghiệp Toàn Cầu để H2 mở 13 tài khoản chứng khoán; đứng tên cá nhân mở 12 tài khoản chứng khoán đề H2 sử dụng Thao túng thị trường chứng khoán. Cụ thể: H2 đã sử dụng 12/25 tài khoản để thực hiện Thao tùng thị trường chứng khoán trong 263 phiên giao dịch đối với 04 mã chứng khoán: HAI, GAB, ART, F; đặt 1.477 lệnh mua, tổng giá trị khớp mua 788.489.693.700 đồng; hủy mua 375 lần; đặt 692 lệnh bán, với giá trị khớp bán 826.938.336.400 đồng, ký 102 chứng từ chuyển tiền, nộp tiền, rút tiền để H2 thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 1.240.927.683.043 đồng, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 05 triệu đồng/tháng, đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 70 triệu đồng.

(16). Bị can Nguyễn Quang T80, lái xe Bệnh viện Hà Thành: Cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cả nhân, ký các giấy tờ thành lập, đứng tên là người đại diện theo pháp luật 02 công ty để H2 mở 20 tài khoản chứng khoán, gồm: Công ty CP Xây dựng và Phát triển thương mại Đại Dương Xanh và Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Eldon; mở 08 tài khoản chứng khoán cá nhân để H2 sử dụng Thao túng thị trường chứng khoán. Cụ thể: H2 đã sử dụng 12/28 tài khoản để thực hiện Thao túng thị trường chứng khoán trong 469 phiên giao dịch đối với 04 mã chứng khoán: HAL, GAB, ART, F, đặt 1.657 lệnh mua, với tổng giá trị khớp mua 980.900.780.800 đồng, hủy lệnh mua 275 lần, đặt lệnh bản 937 lần, với tổng giá trị khớp bán: 1.120.970.160.200 đồng; ký khống 93 chứng từ chuyển tiền, nộp tiền, rút tiền để H2 thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 1.454.815.000.000 đồng, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 7,5 triệu đồng/tháng.

(17). Bị can Trịnh Thị Thanh H83, nhân viên Công ty CP Đầu tư kinh doanh bất động sản F Home: Cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân, ký các giấy tờ thành lập, đứng tên là người đại diện theo pháp luật 02 công ty để H2 mở 18 tài khoản chứng khoán, gồm: Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Thịnh Phát và Công ty CP Đầu tư Kinh doanh và phát triển An Bình; mở 13 tài khoản chứng khoán cá nhân để H2 sử dụng Thao túng thị trường chứng khoán. Cụ thể: H2 đã sử dụng 12/31 tài khoản để Thao túng thị trường chứng khoản trong 375 phiên giao dịch đối với 04 mã chứng khoán F, GAB, HAI, ART; đặt 2.459 lệnh mua, tổng giá trị khớp mua 1.271.587.727.900 đồng; hủy mua 333 lần, đặt 662 lệnh bán, tổng giá trị khớp bản 951.683.889.500 đồng, Kỳ 101 chứng từ (ủy nhiệm chỉ, giấy rút tiên mặt) với tổng số tiền 1.132.530.103.000 đồng để H2 thực hiện các giao dịch, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 08 triệu đồng/tháng; đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 160 triệu đồng.

(18). Bị can Hoàng Thị H18, nhân viên Công ty CP Thương mại và dịch vụ F: Cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân, ký các giấy tờ đứng tên là người đại diện theo pháp luật Công ty CP Vật tư thiết bị ĐT Hà Nội để H2 mở 05 tài khoản và mở 13 tài khoản cá nhân để sử dụng Thao túng thị trường chứng khoản. Cụ thể: H2 sử dụng 06/13 tài khoản giao dịch 157 phiên; đặt 835 lênh mua với tổng giá trị khớp mua 286.611.885.700 đồng; hủy 271 lệnh mua, đặt 476 lệnh bản với tổng giá trị khớp bản 426.371.201.000 đồng; ký 104 chứng từ (ủy nhiệm chỉ, giấy rút tiền mặt) với tổng số tiền 1.278.998.000.000 đồng để H2 thực hiện giao dịch, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 3 triệu đồng/tháng, đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 48 triệu đồng.

(19). Bị can Đỗ Thị Huyền T21, nhân viên Ban Kế toán T: Cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân, ký các giấy tờ, tài liệu đứng tên là người đại diện theo pháp luật Công ty TNHH Đầu tư địa ốc Thanh Hóa để H2 mở 07 tài khoản chứng khoản và mở 12 tài khoản chứng khoán cá nhân để H2 sử dụng Thao túng thị trường chứng khoán. Cụ thể: H2 đã sử dụng 10/19 tài khoản thực hiện hành vì Thao túng thị trường chứng khoản trong 214 phiên giao dịch đối với 04 mã chứng khoán HAI, GAB, ART, F, đặt 888 lệnh mua với tổng giá trị khớp mua 534.709.129.100 đồng, hủy 205 lệnh mua, đặt 369 lệnh bán với tổng giá trị khớp bán 608.818.771.400 đồng, kỷ 97 chứng từ (ủy nhiệm chỉ, giấy rút tiền mặt), với tổng số tiền 1.127.518.00.000 đồng để H2 thực hiện giao dịch, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 25 triệu đồng/tháng; đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 54 triệu đồng.

(20). Bị can Nguyễn Thị N15, nhân viên Ban kế toán T: Cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân, ký các giấy tờ thành lập, đứng tên là người đại diện theo pháp luật Công ty CP Đầu tư và Phát triển IMR, Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển ACO để H2 mở 22 tài khoản chứng khoán Thao túng thị trường chứng khoán. Cụ thể: H2 sử dụng 13/22 tài khoản để thực hiện hành vi Thao túng thị trường chứng khoán trong 305 phiên giao dịch đối với 03 mã cổ phiếu F, ART, GAB; đặt 1.014 lệnh mua, tổng giá trị khớp mua 832.630.997.200 đồng; hủy 237 lệnh mua; đặt 697 lệnh bán, tổng giá trị khớp bán 981.141.726.600 đồng; Ký 148 chứng từ (ủy nhiệm chỉ, giấy rút tiền mặt), với tổng số tiền 1.782.440.841.512 đồng để H2 thực hiện giao dịch, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 03 mã cổ phiếu F, GAB, ART thu lợi bất chính 445.361,040,887 đông. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 17 triệu đồng/tháng; đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả số tiền 108 triệu đồng.

(21). Bị can Trịnh Văn N77, nhân viên Công ty CP Hàng không TV: Cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân, ký các giấy tờ thành lập, đứng tên người đại diện theo pháp luật Công ty TNHH Đầu tư và thương mại SIP và Công ty TNHH Đầu tư Thương mại và xuất nhập khẩu Tâm An để mở 19 tài khoản sử dụng thao túng thị trường chứng khoản. Cụ thể: H2 đã sử dụng 10/19 tài khoản để thực hiện Thao túng thị trường chứng khoán trong 292 phiên giao dịch đối với 03 mã chứng khoản: F, ART, GAB; đặt 1.491 lệnh mua, giá trị khớp mua: 1.079.762.039.100 đồng; hủy lệnh mua 279 lần, đặt 1.108 lệnh bán, giá trị khớp bán 1.298.105.062.700 đồng; ký 46 chứng từ chuyển tiền, nộp tiền, rút tiền để H2 thực hiện các giao dịch, với tổng số tiền 601.425.000.000 đồng, giúp Trịnh Văn Q1 thao túng 03 mã cổ phiếu F, GAB, ART thu lợi bất chính 445.361.040.887 đồng. Bị can khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu và khai được hưởng lương 45 triệu đồng/tháng.

IV. CÁC CÁ NHÂN CÓ LIÊN QUAN TRONG VỤ ÁN:

Kết quả điều tra đến nay xác định, ngoài các bị can bị khởi tố, điều tra về các tội danh nêu trên, còn có các cá nhân thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam, Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, các công ty kiểm toán, các đoàn thanh tra, kiểm tra, các cá nhân thuộc T, Công ty F, Công ty B; Ngân hàng BIDV chi nhánh TX... có liên quan đến hành vi phạm tội. Tuy nhiên, xét tính chất mức độ hành vi, Cơ quan điều tra không xử lý đối với các đối tượng sau đây:

1. Các cá nhân thuộc UBCKNN, Trung tâm lưu ký chứng khoán Gồm: (1)ông Vũ Bằng, nguyên Chủ tịch UBCKNN; (2) bà Lê Thị Thu H204, Phó Vụ trưởng Vụ Giám sát công ty đại chúng, (3) bà Trần Thị H210, chuyên viên Phòng Đăng ký chứng khoán thuộc Trung tâm lưu ký chứng khoán.

Kết quả điều tra xác định các cá nhân trên có dấu hiệu thiếu trách nhiệm trong việc tham mưu, đề xuất, chỉ đạo liên quan đến hồ sơ chấp thuận công ty đại chúng, đăng ký chứng khoán của Công ty F, nhưng Cơ quan điều tra xác định trách nhiệm chính để xảy ra sai phạm tại UBCKNN và Trung tâm lưu ký chứng khoán thuộc về các bị can Lê Công Đ174, Dương Văn T68, Phạm Trung M71 đã cố ý che giấu, công bố thông tin sai lệch, dẫn đến tạo điều kiện cho Công ty F của Trịnh Văn Q1 và đồng phạm thực hiện hành vi phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, Cơ quan điều tra xem xét không xử lý hình sự, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm về hành chính đối với các cả nhân nêu trên.

2. Các cá nhân tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh - Đối với (1) Đoàn Vĩnh N206, Chuyên viên Phòng Quản lý và Thẩm định niêm yết, Thư ký Hội đồng niêm yết Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh: Khi được phân công nghiên cứu, thẩm định hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu của Công ty F, Nam biết rõ chưa có cơ sở xác định số vốn thực góp của Công ty F là 4.300 tỷ đồng theo báo cáo tài chính kiểm toán và văn bản số 4298/UBCK-GSDC ngày 01/7/2016 của UBCKNN; đồng thời Công ty F cũng chưa báo cáo, giải trình, làm rõ được những nội dung tại công văn 4298. Tuy nhiên, do Trần Đắc Sình, Trầm Tuấn V108 chỉ đạo và sức ép của Lê Hải T53 nên Đoàn Vĩnh N206 vẫn đề xuất hồ sơ của Công ty F đủ điều kiện niêm yết trên sản chứng khoán trái pháp luật.

Hành vi của Đoàn Vĩnh N206 có dấu hiệu tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" quy định tại Điều 356 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, xét tính chất, mức độ, tham gia với vai trò lệ thuộc, thứ yếu, chịu sự chỉ đạo, sức ép từ lãnh đạo cấp trên nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý hình sự, mà kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm về hành chính.

Đối với (2) Nguyễn Thị Minh H208, Giám đốc Phòng Giám sát giao dịch, thành viên Hội đồng niêm yết Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh; (3) Đỗ Thị Phương L209, Giám đốc Phòng Pháp chế, thành viên Hội đồng niêm yết Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh; (4) Ngô Viết Hoàng G234, Ủy viên HĐQT, kiêm Phó Tổng Giám đốc phụ trách tài chính và Phòng Giám sát thị trường chứng khoán Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh; (5) Nguyễn Thị Việt H235, Ủy viên HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc; 6) Trần Văn D205, Phó Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh, kiêm Chủ tịch Hội đồng niêm yết: các cá nhân này đã cho ý kiến chấp thuận hồ sơ niêm yết của Công ty F trên cơ sở tin tưởng vào báo cáo thẩm định của Phòng Quản lý và Thẩm định niêm yết trình và Nghị quyết của HĐQT là hồ sơ của Công ty F đã đủ điều kiện niêm yết. Hành vi của 05 cá nhân nêu trên có dấu hiệu tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, quy định tại Điều 360 BLHS. Tuy nhiên, xét tính chất, mức độ hành vi Cơ quan điều tra không xem xét, xử lý hình sự mà kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm về hành chính.

23. Đối với các đoàn thanh tra, kiểm tra 3.1. Đối với Đoàn kiểm tra do Bộ Tài chính Ngày 02/3/2017, Bộ Tài chính có Quyết định số 395/BTC "Về việc kiểm tra tại Công ty F và giao dịch cổ phiếu Công ty F (Mã chứng khoán: ROS) ци 07 công ty chứng khoán", kiểm tra về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh; việc tăng vốn và sử dụng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh; việc chấp hành các qui định của pháp luật về thuế, việc chấp hành các qui định pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán; thời kỳ kiểm tra: Năm 2014, năm 2015 và năm 2016 và tỉnh hình, số liệu có liên quan đến thời kỳ kiểm tra...".

Quá trình kiểm tra, đoàn kiểm tra đã phát hiện một số dấu hiệu bất thường trong việc góp vốn và sử dụng vốn góp tại Công ty F. Đoàn kiểm tra đã thu thập các chứng từ kế toán thể hiện số vốn góp đã được chuyển vào tài khoản của Công ty F nhưng sau đó được sử dụng chủ yếu vào các hoạt động đầu tư tài chính. Đoàn kiểm tra đã tham vấn ý kiến của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và đối chiếu với các quy định của pháp luật, phát hiện nhiều bất cập, sơ hở trong các quy định của pháp luật về doanh nghiệp, hoạt động đăng ký kinh doanh, hoạt động đầu tư tài chính, cho vay, ủy thác đầu tư nên đã tham mưu cho Bộ Tài chính ban hành các Văn bản số 575/BTC-TTr ngày 31/5/2017, số 1081/BTC-TTr ngày 05/10/2017 và số 151/BTC-TTr ngày 09/02/2018 báo cáo kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành 9 nội dung, trong đó có 8 nội dung về rà soát các quy định pháp luật liên quan đến Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Bộ Luật Dân sự, các quy định quản lý Nhà nước về lĩnh vực cổ phần, chứng khoán,... và một nội dung đề nghị xử phạt hành chính đối với Công ty F về hành vi vi phạm trong công bố thông tin. Kết quả điều tra không phát hiện vi phạm trong hoạt động thanh tra, kiểm tra nên không có căn cứ xem xét, xử lý.

3.2. Đối với Đoàn kiểm tra Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh Ngày 30/12/2016, UBCKNN ban hành Quyết định số 1459/QĐ-UBCK về việc kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật về chứng khoán đối với hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán của Sàn HOSE, kỳ kiểm tra từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/12/2016. Nội dung kiểm tra: (1) Việc chấp hành pháp luật về niêm yết chứng khoản; (2) Về giao dịch cổ phiếu quỹ; (3) Về các mã cổ phiếu chạm tiêu chí cảnh báo; chế độ báo cáo và công bố thông tin đối với thành viên của sàn HOSE và việc xử lý vi phạm các quy định đối với tổ chức niêm yết; (4)Về nội dung thực hiện các kiến nghị của UBCKNN sau kiểm tra năm 2015.

Từ ngày 09/01/2017 đến ngày 13/01/2017, Đoàn kiểm tra đã kiểm tra việc thực hiện các quy định về niêm yết chứng khoán (gồm 24 hồ sơ thẩm định niêm yết lần đầu, trong đó có hồ sơ chấp thuận niêm yết mã chứng khoán ROS của Công ty F, kiểm tra xác suất 12/174 hồ sơ thay đổi đăng kỷ niêm yết) và kiểm tra theo nội dung đã được phân công nhiệm vụ cho từng thành viên. Quá trình kiểm tra, Đoản kiểm tra không phát hiện ra sai phạm trong việc thẩm định hồ sơ niêm yết của sàn HOSE. Kết quả điều tra không phát hiện vi phạm trong hoạt động thanh tra, kiểm tra nên không có căn cứ xem xét, xử lý.

4. Đối với các cá nhân liên quan khác thuộc Công ty B, Công ty F, T và Công ty ASC - Nhóm 188 đổi tượng liên quan đến hành vi Lira đảo chiếm đoạt tài sản: là các cá nhân đứng tên đại diện pháp luật, nhân viên các công ty thuộc hệ sinh thái T và các công ty liên quan, người thân, quen của Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thúy N7 có hành vi ký các thủ tục để Trịnh Thị Minh H2 tạo dòng tiền, hợp thức nâng khống vốn góp tại Công ty F, hoàn thiện thủ tục để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sản chứng khoán, có dấu hiệu đồng phạm giúp sức của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 174 BLHS. Tuy nhiên, xem xét tính chất, mức độ hành vi của các đối tượng và không được hưởng lợi nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự.

- Nhóm 23 đối tượng là nhân viên các công ty thuộc hệ sinh thái F, là người thân họ hàng trong gia đình Trịnh Văn Q1, có hành vi giúp sức cho Trịnh Thị Minh H2 thực hiện hành vi Thao túng thị trường chứng khoán: Các cá nhân này đã cho Trịnh Thị Minh H2 mượn chứng minh nhân dân, giấy tờ tùy thân để H2 làm hồ sơ mở tài khoản chứng khoán, tài khoản ngân hàng, sau đó giao cho H2 quản lý, sử dụng để Thao túng thị trường chứng khoán, giúp Trịnh Văn Q1 thu lới bất chính, có dấu hiệu đồng phạm giúp sức của tội Thao túng thị trường chứng khoán, quy định tại Điều 211 BLHS. Tuy nhiên, xét tính chất, mức độ hành vi đã tham gia và không được hưởng lợi nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự.

- Nhóm 05 cả nhân thuộc Công ty B, gồm: Lê Bá Nguyên, Nguyễn Quỳnh N227, Tổng Hải Ninh, Thành viên HĐQT; Nguyễn Thị Thanh T233, Trưởng Phòng kiểm soát nội bộ và quản trị rủi rovà Triệu Xã L231, Trưởng Phòng công nghệ thông tin đã cho phép Trịnh Thị Thúy N7 cho khách hàng mua chứng khoán không có tài sản đảm bảo trái quy định, giúp Trịnh Văn Q1 Trịnh Thị Minh H2 Thao túng thị trường chứng khoán, thu lời bất chính, có dấu hiệu tội Thao túng thị trường chứng khoán, quy định tại Điều 211 BLHS. Tuy nhiên, xét tính chất mức độ hành vì không xử lý hình sự, cần kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính nghiêm khắc.

5. Đối với nhóm Giao dịch viên, Kiểm soát viên Ngân hàng BIDV Chi nhánh TX, Hà Nội:

Kết quả điều tra xác định có 13 kiểm soát viên và giao dịch viên ngân hàng BIDV Chi nhánh TX thực hiện các giao dịch nộp tiền, chuyển tiền, rút tiền theo các chứng tử được ký sẵn để Công ty F tăng vốn, vi phạm khoản 2 Điều 14 Quy định số 6440/QĐ-NHBL ngày 14/10/2014 của Ngân hàng BIDV. Cơ quan điều tra xác định không có sự thông đồng, bàn bạc giữa Trịnh Thị Thuý N167 với nhóm cán bộ Ngân hàng nên không có căn cứ xem xét xử lý trách nhiệm hình sự đối với giao dịch viên, kiểm soát viên mà kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét xử lý theo quy định.

6. Hành vi có dấu hiệu của tội "Chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước", quy định tại Điều 337 Bộ luật Hình sự của Trịnh Thị Minh H2 và các đối tượng liên quan.

Trong quá trình điều tra vụ án, ngày 29/3/2022, Cơ quan CSĐT Bộ Công an thi hành Lệnh khám xét tại Phòng Công nghệ thông tin, Văn phòng Công ty CP T, đã trích xuất dữ liệu lưu trữ của Email [email protected] từ máy chủ có địa chỉ IP là 192.168.60.252, phát hiện tại thời điểm ngày 10/6/2020 email [email protected] là của Trịnh Thị Minh H2 có hình ảnh Công văn số 640/TTGSNH1 ngày 02/6/2020 của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi Tổng Giám đốc các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài "Về việc đề nghị cung cấp thông tin doanh nghiệp, kèm theo Danh sách 06 doanh nghiệp và 05 cá nhân đại diện pháp luật"; phía trên bên trái công văn được đóng dấu “TÔI MẬT".

Ngày 12/9/2023, Cục An ninh chính trị nội bộ, Bộ Công an (A03) đã ban hành Kết luận giám định số 7049/KLGĐ-ANCTNB, kết luận: Mẫu giám định ... không phải là tài liệu bí mật nhà nước tại thời điểm ban hành".

Như vậy, hành vi của Trịnh Thị Minh H2 lưu giữ hình ảnh bản photo là Công văn số 640/TTGSNH1 ngày 02/6/2020 của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được đóng dấu "TỚI MẬT" tại email [email protected] không đủ yếu tố cấu thành tội Chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước, quy định tại Điều 337 Bộ luật Hình sự năm 2015.

V. THU GIỮ, TẠM GIỮ ĐỒ VẬT, TÀI LIỆU; KẾ BIÊN TÀI SẢN, PHONG TỎA TÀI KHOẢN:

Về số tiền nộp khắc phục khắc quả: Đến nay, các bị can và người liên quan đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả thiệt hại tổng số tiền là 195.297.700.973 đồng trong đó: Trịnh Văn Q1 nộp 189.572.240.000 đồng; Nguyễn Thiện P146 nộp 260.568.000 đồng; Nguyễn Thanh B24 nộp 2.651.367.973 đồng, Trần Thế A117 nộp 1.100.000.000 đồng, Nguyễn Thị Hạ D228 nộp 70 triệu đồng; Đỗ Thị Huyền T21 nộp 54 triệu đồng, Hoàng Thị H18 nộp 48 triệu đồng; Nguyễn Thị N15 nộp 108 triệu đồng: Trịnh Thị Thanh H83 nộp 160 triệu đồng; Lê Thành V192 nộp 596.525.000 đồng, Đặng Thị H36 nộp 30 triệu đồng; Nguyễn Văn T101 nộp 25 triệu đồng; Trịnh Thị Út X59, Trương Văn T42, Phạm Thanh H62 nộp 20 triệu đồng, Đàm Quang C181 nộp 42 triệu đồng, Phạm Thị H193 N65 nộp 20 triệu đồng, Nguyễn Bình P45 nộp 30 triệu đồng, Đỗ Quang L128 nộp 30 triệu đồng, Trịnh Thị Thuý N167 nộp 100 triệu đồng, Nguyễn Văn M8 nộp 20 triệu đồng, Trịnh Thị Minh H2 nộp 100 triệu đồng, Lê Tân S33 nộp 20 triệu đồng, Hương Trần Kiều D9 nộp 200 triệu đồng.

* Tại Cáo trạng số 2950/CT-VKSTC-V5 ngày 08/4/2024, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như sau:

- Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thúy N7, Hương Trần Kiều D9, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và tội "Thao túng thị trường chứng khoán", quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 và điểm b khoản 2 Điều 211 Bộ luật Hình sự, - Đỗ Như T131, Đỗ Quang L128, Nguyễn Văn T101, Đàm Mai H100, Nguyễn Bình P45, Hoàng Thị Thu H179, Nguyễn Tiến D30, Lê Thành V27, Nguyễn Thanh B24, Lê Tân S33, Trần Thế A117, Đặng Thị H36, Lê Văn S39, Trương Văn T42, Nguyễn Minh Đ48, Trịnh Thị Út X59, Phạm Thanh H62, Phạm Thị H193 N65, Nguyễn Thiện P146, Nguyễn Ngọc T173, Lê Văn T120, Trần Thị H111 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự, - Trần Đắc S51, Lê Hải T53, Trầm Tuấn V108, Lê Thị Tuyết H204 về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ", quy định tại Khoản 3 Điều 356 Bộ luật Hình sự, - Nguyễn Quỳnh A12, Chu Tiến V107, Nguyễn Thị Thanh P124, Bùi Ngọc T125, Nguyễn Thị Thị T169, Quách Thị Xuân T134, Trần Thị L140, Trịnh Văn N77, Trịnh Thị Thanh H83, Nguyễn Thị N15, Hoàng Thị H18, Đỗ Thị Huyền T21, Nguyễn Quang T80 về tội "Thao túng thị trường chứng khoán", quy định tại điểm b khoản 2 Điều 211 Bộ luật Hình sự;

- Lê Công Đ174, Dương Văn T68, Phạm Trung M175 về tội “Cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán", quy định tại điểm c khoản 2 Điều 209 Bộ luật Hình sự;

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 426/2024/HSST ngày 05/8/2024, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã quyết định:

1. Về tội danh đối với các bị cáo:

- Tuyên bố các bị cáo: Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thuỷ N236, Hương Trần Kiều D9, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228 phạm các tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và "Thao túng thị trường chứng khoán".

- Tuyên bố các bị cáo: Đỗ Như T131, Đỗ Quang L128, Nguyễn Văn T101, Đàm Mai H100, Nguyễn Bình P45, Hoàng Thị Thu H179, Nguyễn Tiến D30, Lê Thành V192, Nguyễn Thanh B24, Lê Tân S33, Trần Thế A117, Đặng Thị H36, Lê Văn S39, Trương Văn T42, Nguyễn Minh Đ48, Trịnh Thị Út X59, Phạm Thanh H62, Phạm Thị H193 N65, Nguyễn Thiện P74, Nguyễn Ngọc T173, Lê Văn T120, Trần Thị H111 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

- Tuyên bố các bị cáo: Trần Đắc S51, Lê Hài T211, Trầm Tuấn V108, Lê Thị Tuyết H56 phạm tội "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ".

- Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Quỳnh A12, Chu Tiến V107, Nguyễn Thị Thanh P124, Bùi Ngọc T125, Nguyễn Thị Thị T169, Quách Thị Xuân T134, Trần Thị L140, Trịnh Văn N77, Trịnh Thị Thanh H83, Nguyễn Thị N15, Hoàng Thị H18, Đỗ Thị Huyền T21, Nguyễn Quang T80 phạm tội "Thao túng thị trường chứng khoán".

- Tuyên bố các bị cáo: Lê Công Đ174, Dương Văn T68, Phạm Trung M71 phạm tội “Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán".

II. Về điều luật áp dụng và hình phạt đối với các bị cáo:

(1). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 41, 55, 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 20171 (BLHS);

- Xử phạt bị cáo Trịnh Văn Q1 18 (mười tám) năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 03 (ba) năm tù về tội Thao túng thị trường chứng khoán. Tổng hợp hình phạt của hai tội là 21 (hai mươi mốt) năm tù. Thời hạn tù tỉnh từ ngày 29/3/2022.

(2). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 41, 54, 55, 58 BLHS.

-Xử phạt bị cáo Trịnh Thị Minh H2 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Lim đào chiếm đoạt tài sản và 30 (ba mươi) tháng tù về tội Thao túng thị trường chứng khoản. Tổng hợp hình phạt của hai tội là 14 (mười bốn) năm tù; Thời hạn từ tính từ ngày 04/4/2022.

(3). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 41, 54, 55, 58 BLHS.

- Xử phạt bị cáo Trịnh Văn Đ78 10 (mười) năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 01 (một) năm tù về tội Thao túng thị trường chứng khoán. Tổng hợp hình phạt của hai tội là 11 (mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2024.

(4). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 41, 54, 55, 58 BLHS.

- Xử phạt bị cáo Hương Trần Kiều D9 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 02 (hai) năm tù về tội Thao túng thị trường chứng khoản. Tổng hợp hình phạt của hai tội là 08 (tám) năm 06 (său) tháng tử. Thời hạn tù túng từ ngày 08/4/2022.

(5). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, 5 khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 41, 54, 55, 58 BLHS.

- Xử phạt bị cáo Trịnh Thị Thuỷ N236 06 (sáu) năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 02 (hai) năm tù về tội Thao túng thị trường chứng khoán. Tổng hợp hình phạt của hai tội là 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tỉnh từ ngày 05/4/2022.

(6). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 41, 54, 55, 58 BLHS.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M8 05 (năm) năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 01 (một) năm tù về tội Thao túng thị trường chứng khoán. Tổng hợp hình phạt của hai tội là 06 (sáu) năm tù. Thời hạn từ tính từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành án, (7). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 41, 54, 55, 58 BLHS.

- Xử phạt bị cáo Trịnh T86 03 (ba) năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 18 (mười tâm) tháng tù về tội Thao túng thị trường chứng khoán. Tổng hợp hình phạt của hai tội là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2024.

(8). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 41, 54, 55, 58 BLHS.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hạ D228 30 (ba mươi) tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 18 (mười tám) tháng tù về tội Thao túng thị trường chứng khoản. Tổng hợp hình phạt của hai tội là 48 (bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(9). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Thu H179 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng từ. Thời hạn tù tỉnh từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành án (10). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Đỗ Như T131 07 (bảy) năm tù; Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2024.

(11). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T101 07 (bảy) năm tử, Thởi hạn từ tính từ ngày 30/01/2024.

(12). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Đỗ Quang L128 06 (său) năm tù; Thời hạn tửtỉnh từ ngày 30/01/2024.

(13). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, 8 khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B24 06 (sáu) năm tù; Thời hạn từ tính từ ngày 30/01/2024.

(14). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến D30 05 (năm) năm tù; Thời hạn từ tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(15). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, 1 khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiện P74 05 (năm) năm tù; Thời hạn từ tính từ ngày 12/9/2022, (16). Áp dụng: điểm a khoản 4, 5 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Bình P45 05 (năm) năm tù; Thời hạn từ tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(17). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Thành V192 03 (ba) năm tù; Thời hạn từ tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(18). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Đảm Mai Hương 03 (ba) năm tù; Thời hạn tủ tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(19). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Trần Thế A117 03 (ba) năm tù; Thời hạn tử tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(20). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Tân S33 03 (ba) năm tù; Thời hạn tù tình từ ngày 30/01/2024.

(21). Áp dụng: điểm a khoản 4, 5 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T173 06 (sáu) năm tù; Thời hạn tử tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(22). Áp dụng: điểm a khoản 4, 5 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Văn T120 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, Thời hạn từ tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(23). Áp dụng: điểm a khoản 4, 5 Điều 174; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Trần Thị H111 04 (bốn) năm tù; Thời hạn từ tính từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành án, (24). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, 5 khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Đặng Thị H36 30 (ba mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường L, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trả tự do cho bị cáo nếu không bị giam, giữ về hành vi phạm tôi khác.

(25). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm 0, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Văn S39 30 (ba mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường C, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trả tự do cho bị cáo nếu không bị giam, giữ về hành vi phạm tội khác.

(26). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Trương Văn T42 30 (ba mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (sâu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường K, quận BĐ, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trả tự do cho bị cáo nếu không bị giam, giữ về hành vi phạm tội khác.

(27). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Đ48 24 (hai mươi bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường TM, quận N, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trả tự do cho bị cáo nếu không bị giam, giữ về hành vi phạm tội khác.

(28). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Phạm Thị H193 N65 30 (ba mươi) tháng tủ, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường LK, quận HĐ, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(29). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Trịnh Thị Út X59 30 (ba mươi) tháng tù, nhưng cho hướng án treo, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên ản. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường C, quận N, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(30). Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, 5 khoản 1 Điều 51; Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Phạm Thanh H62 30 (ba mươi) tháng từ, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giso bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường TM, quận N, thành phố Hà Nội, giảm sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(31). Áp dụng: khoản 3, khoản 4 Điều 356; điểm b, s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Trần Đắc S51 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tử, Thời hạn từ tỉnh từ ngày 31/01/2024.

(32). Áp dụng: khoản 3, khoản 4 Điều 356, điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Trầm Tuấn V108 05 (năm) năm 06 (sáu) thẳng từ; Thời hạn tù tính từ ngày 31/01/2024.

(33). Áp dụng: khoản 3, khoản 4 Điều 356; điểm b, s, t, v, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Hải T53 05 (năm) năm tù; Thời hạn từ tính từ ngày 31/01/2024, (34). Áp dụng: khoản 3, khoản 4 Điều 356; điểm b, s, t, ỵ khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Thị Tuyết Hăng 03 (ba) năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên ân.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chi Mình, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(35). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, 41, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Quỳnh A12 24 (hai mươi bốn) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành án, được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giam từ ngày 08/4/2022 đến ngày 04/9/2022.

(36). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, 41, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Chu Tiến V107 24 (hai mươi bốn) tháng tù; Thời hạn từ tỉnh từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành an.

(37). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh P124 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tử tỉnh từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành án.

(38). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, t khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thị T169 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn từ tính từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành án.

(39). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc T125 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành án.

(40). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, 1 khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Trần Thị L140 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành ăn.

(41). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, 1 khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Quách Thị Xuân T134 16 (mười sáu) tháng tủ. Thời hạn tù tỉnh từ ngày bị cáo bắt đầu thì hành án.

(42). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 41, 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Huyền T21 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thửthách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường MĐ, quận N, Thành phố Hà Nội, giảm sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(43). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 41, 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N15 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thửthách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường MĐ, quận N, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(44). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 41, 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Hoàng Thị H18 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường MĐ, quận N, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(45). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm ở khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 41, 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T80 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cảo cho Uỷ ban nhân dân phường BH, quận C, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(46). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 41, 54, 58, 65 BLHS: Xử phạt bị cáo Trịnh Vân Nam 15 (mmười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường B, quận C, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(47). Áp dụng: điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, 5 khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 41, 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Trịnh Thị Thanh H83 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thửthách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường CN 2, quận B, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(48). Áp dụng: điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 209, điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 41 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Công Đ174 36 (ba mươi sáu) tháng tủ. Thời hạn tử tỉnh từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành án.

(49). Áp dụng: điểm c khoản 2, 3 Điều 209; điểm 5, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 41, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Dương Văn T68 24 (hai mươi bốn) tháng từ, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường Yên Hoà, quận C, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(50). Áp dụng: điểm c khoản 2, 3 Điều 209; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 41, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Phạm Trung M71 18 (mười tám) tháng tủ, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân Giảng Võ, quận BĐ, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

* Đối với các bị cáo được hưởng án treo: Trong thời gian thử thách nêu người được hưởng án treo cổ ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Luật Thi hành án hình sự.

* Về hình phạt bổ sung:

- Cấm các bị cáo phạm tội “Thao túng thị trường chứng khoán", "Cổ ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khí thi hành công vụ" gồm: Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thuý N167, Hương Trần Kiều D9, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228, Nguyễn Quỳnh A12, Chu Tiến V107, Nguyễn Thị Thanh P124, Bùi Ngọc T125, Nguyễn Thị Thị T169, Quách Thị Xuân T134, Trần Thị L140, Trịnh Văn N77, Trịnh Thị Thanh H83, Nguyễn Thị N15, Hoàng Thị H18, Đỗ Thị Huyền T21, Nguyễn Quang T80, Lê Công Đ174, Dương Văn T68, Phạm Trung M71; Trần Đắc S51, Lê Hải T53, Trầm Tuấn V108, Lê Thị Tuyết H56 làm việc trong lĩnh vực chứng khoán trong thời hạn 01 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính.

- Cấm các bị cáo Nguyễn Ngọc T173, Lê Văn T120, Trần Thị H111 làm việc trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán trong thời hạn 01 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính.

III. Về trách nhiệm dân sự và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sự; Các Điều 357, 468, 584, 585, 587, 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

1. Đối với tội danh "Lửa đảo chiếm đoạt tài sản":

* Buộc các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 phải liên đới bồi thường cho: Các bị hại số tiền đã chiếm đoạt là 2.559.593.400 đồng và bồi thường cho những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu bồi thường số tiền là 1.783,280.002.038 đồng; Tổng cộng các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 phải liên đới bồi thường cho các bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan số tiền là: 1.785.839.595.438 đồng; (số tiền bồi thường cụ thể cho mỗi người được nêu tại Phụ lục 1, Phụ lục 3.1 kèm theo Bản án). Xác nhận các bị cáo trong vụ án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nộp số tiền 264.358.700.973 đồng để bồi thường. Các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Mình H203 còn phải tiếp tục bồi thường số tiền cho các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan số tiền là 1.521.480.894,465 đồng.

Nếu chia theo phần, tương ứng với vị trí, vai trò, trách nhiệm: Bị cáo Trịnh Văn Q1 phải bồi thường số tiền 1.369.332.805,018,5 đồng (tương ứng 90%); Bị cáo H2 phải bồi thường số tiền 152.148.089.446,5 đồng (tương ứng 10%).

Đối với các nhà đầu tư khác là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hiện chưa có yêu cầu bồi thường, có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết quyền lợi của mình trong vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.

* Đối với các nhà đầu tư đã bán cổ phiếu mã chứng khoán ROS cho nhà đầu tư khác có quyền tự thoả thuận với bên mua về việc hoàn trả giá trị bị nâng khống, nếu có tranh chấp các bên có quyền giải quyết trong vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.

2. Đối với tội danh "Thao túng thị trường chứng khoán":

* Buộc các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thuý N167 phải liên đới truy nộp sung công quỹ nhà nước: Số tiền hưởng lợi bất chính từ hành vì Thao túng thị trường chứng khoán lá: 684.246.716.936 đồng (đã trừ đi số tiền hưởng lợi từ hành vi thao túng mã chứng khoán AMD). Xác nhận các bị cáo khác đã nộp số tiền 570.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. Các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thuý N167 còn phải liên đới truy nộp sung công quỹ nhà nước số tiền còn lại là 683.676.716.936 đồng.

Nếu chia theo phần, tương ứng với vị trí, vai trò, trách nhiệm thì mỗi bị cáo phải bồi thường như sau: Bị cáo Trịnh Văn Q1 phải truy nộp: 500.000.000.000 đồng; Bị cáo Trịnh Thị Minh H2 phải truy nộp: 100.000.000.000 đồng; Bị cáo Trịnh Thị Thuý N167 phải truy nộp: 83.676.716.936 đồng.

* Buộc Công ty Cổ phần Chứng khoán B: Phải truy nộp số tiền hưởng lợi trái pháp luật từ hành vi Thao túng thị trường chứng khoán là 42.471.521.663 đồng để sung công quỹ nhà nước (đã trừ hưởng lợi từ mã AMD).

3. Các biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm thi hành ản:

Áp dụng: Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 128, 129 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

3.1. Tiếp tục duy trì các Lệnh kê biên tài sản, phong toả tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán, các yêu cầu ngăn chặn giao dịch do Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, Ngân hàng nhà nước, Uỷ ban Chứng khoán nhà nước đã áp dụng, cụ thể như sau:

3.1.1. Để bảo đảm cho nghĩa vụ bồi thường cho các bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và truy nộp sung công quỹ nhà nước:

* Kê biên tài sản:

(1). Đối với Trịnh Thị Minh H2: 04 thủm đất và tài sản gắn liền với đất, gồm:

(1). Tài sản là "Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: AI 853370 do UBND quận C, thành phố Hà Nội cấp ngày 26/06/2020, được cập nhật đăng ký thay đổi quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đùng tên bà Trịnh Thị Minh H2, tại địa chỉ NV-A38, KĐT Trung Hòa - Nhân chính, phường Trung Hòa, quận C, thành phố Hà Nội" gồm 158,3 m2 nhà, đất tại: NV-A38, KĐT Trung Hòa - Nhân Chính, phường Trung Hòa, quận C, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 72/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an, hiện đang bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Minh H2 tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Thành theo Hợp đồng cho vay số 20092005/2020-HDCV/NHCT188-HUE ngày 18/02/2020 và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 00997.2020/HĐTC quyển số 01 TP/HĐGD ký ngày 17/02/2020. Văn phòng Công chứng Đông Đô, Hà Nội.

(2). Tài sản là “Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CO 899004 và CO 899005 đứng tên ông Vũ Anh T6 và bà Trịnh Thị Minh H2, tại địa chỉ Ô số 4, dây A, lô BT6, khu đô thị Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, thành phố Hà Nội" diện tích 200,0 m2 nhà, đất tại: ô số 4 dây A, Lô BT6, khu đô thị mới Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 73/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an; hiện đang bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của ông Vũ Anh T6 và bà Trịnh Thị Minh H2 theo Hợp đồng tín dụng số 01/2018/121353/HĐTD ký ngày 20/11/2018 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh TX và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chíng 5149.2018/HĐGD, quyên số 04/TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 20/11/2018, Văn phòng Công chứng TX, Hà Nội.

(3). Tài sản là "Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CO 869794 đứng tên bà Trịnh Thị Minh H2, tại địa chỉ Ô số 20, dãy A, lô BT6, khu đô thị Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, thành phố Hà Nội" diện tích 200,0 m2 nhà, đất tại: Ô số 20 là BT6 dãy A, khu đô thị mới Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 74/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an; hiện đang bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Minh H2 theo Hợp đồng tín dụng số 01/2018/1739542/HĐTD ký ngày 01/10/2018 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh TX và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 4238.2018/HĐGD, quyền số 03/TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 28/09/2018 tại Văn phòng Công chứng TX, Hà Nội.

(4). Tài sản là "Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: DA 870968 do sở Tài nguyên và Môi trưởng thành phố Hà Nội cấp ngày 20/04/2021 đứng tên ông Vũ Anh T6 và bà Trịnh Thị Minh H2, tại địa chỉ Ô 20, khu B đấu giá quyền sử dụng đất nhà vườn BT4, phường Mỹ Đình II, quận N, thành phố Hà Nội" có diện tích 125,3 m2 nhà, đất tại: B20 khu nhà vườn BT4 Mỹ Đình, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 75/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an; hiện đang bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Minh H2 tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thành An theo Hợp đồng cho vay số 08/2021-HĐCV/NHCT320-HUETUAN ngày 10/8/2021 và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 1160 quyền số 02/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 20/07/2021 tại Văn phòng Công chứng Phùng Quân, Hà Nội.

(2). Đối với Trịnh Văn Q1: 03 thửa đất và tài sản gắn liền với đất, gồm:

(5) Tài sản là "Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 732873, số vào số cấp GCN: CS-NTL: 06485 do sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội cấp ngày 27/04/2017 đứng tên ông Trịnh Văn Q1 và bà Lê Thị Ngọc D, tại địa chỉ Lô B30-BT6+B32-BT6+B12-BT6+B10-BT6 khu ĐTM Mỹ Đình II, quận N, thành phố Hà Nội" có diện tích 799,6 m2 nhà đất, tại: Lô B30-BT6+ B32BT6 B12 BT6 khu ĐTM Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 76/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an; (hiện đang đảm bảo nghĩa vụ cho các công ty sau tại Ngân hàng TMCP Phương Đông - Chi nhánh Hà Nội (Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số công chứng 1089/2017/HĐTC; Quyên số 01/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 10/05/2017 và Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nghĩa vụ 2) số công chứng 2221/2020/HĐTC, Quyền số 01/TP/CC-SCC/HDGD ngày 29/10/2020);

(6) 199,9 m2 nhà đất tại: B34 - BT6, khu ĐTM Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 77/LKB-VPCQCSĐĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an; hiện đang bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Thuý N167 và ông Nguyễn Văn M8 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh TX theo các Hợp đồng tín dụng số 01/2019/2464340/HĐTD ký ngày 31/7/2019, Hợp đồng tín dụng số 01/2020/2464340/HĐTD ký ngày 30/11/2020 và Hợp đồng tín dụng số 01/2021/2464340/HĐTD ký ngày 18/5/2021 và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 3581.2019/HĐGD, quyến số 03/TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 29/7/2019, Văn phòng Công chứng TX, Hà Nội.

(7) 199,9 m2 nhà, đất tại: Ô 36, dãy B, Lô BT6, khu ĐTM Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 78/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an, hiện đang bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Thuỷ N236 và ông Nguyễn Văn M8 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh TX theo các Hợp đồng tín dụng số 01/2019/2464340/HĐTD ký ngày 31/7/2019, Hợp đồng tín dụng số 01/2020/2464340/HĐTD ký ngày 30/11/2020 và Hợp đồng tín dụng số 01/2021/2464340/HĐTD kỷ ngày 18/5/2021 và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 4982.2019/HĐGD, quyền số 04/TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 30/11/2020, Văn phòng Công chứng TX, Hà Nội.

3.1.2. Để bảo đảm cho nghĩa vụ truy nộp sung công quỹ nhà nước của các bị cáo đối với hành vì Thao túng thị trường chứng khoản:

Đối với Trịnh Thị Thúy N7: 02 thửa đất và tài sản gắn liền với đất, gồm:

(8). Tài sản là “Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đứng tên ông Nguyễn Văn M8 và bà Trịnh Thị Thúy N7, tại địa chỉ Ô số 2, dây A, 18 BT6, khu đô thị Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, thành phố Hà Nội" có diện tích 193,1 m2 nhà, đất tại: Ô số 2, dây A, lô BT6, khu đô thị mới Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 79/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an; hiện đang đảm bảo nghĩa vụ vay tại Ngân hàng TNHH MTV Public Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.

(9). Tài sản là “Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn Hiền với đất số: DA 870967 do sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội cấp ngày 12/04/2021 đúng tên ông Nguyễn Văn M8 và bà Trịnh Thị Thúy N7, tại địa chỉ Ô 18, khu B đấu giá quyền sử dụng đất nhà vườn BT4, phường Mỹ Đình II, quận N, thành phố Hà Nội" có diện tích 165,7 m2 nhà, đất tại: Ở 18, BT4, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 80/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an, hiện đang đảm bảo nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Thuý N167 và ông Nguyễn Văn M8 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh TX theo các Hợp đồng tín dụng số 01/2019/2464340/HĐTD ký ngày 31/7/2019, Hợp đồng tin dụng số 01/2020/2464340/HĐTD kỳ ngày 30/11/2020 và Hợp đồng tín dụng số 01/2021/2464340/HDTD ký ngày 18/5/2021 và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 2052/HĐTC, quyến số 02/2021, TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 18/5/2021 tại Văn phòng Công chứng TX, Hà Nội).

3.1.3. Để bảo đảm cho nghĩa vụ bồi thường cho các bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và truy nộp sung công quỹ nhà nước của các bị cáo:

Phong toả tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán: Theo các Lệnh phong toả của Cơ quan Cảnh sát điều tra, các Quyết định về việc phong toả tài khoản chứng khoán số 19/QĐ-UBCK ngày 10/01/2022, số 214/QĐ-UBCK ngày 21/4/2022, số 653/QĐ-UBCK ngày 03/8/2023 Uỷ ban chứng khoán nhà nước, Ngân hàng nhà mước đã áp dụng đối với các tài khoản ngân hàng, tải khoản chứng khoán (Chi tiết tại Phụ lục 4, 5 kèm theo Bản án), * Đối với các tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán khác ngoài tài khoản trong Phụ lục nêu trên: Đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, Ngân hàng nhà nước, Uỷ ban Chứng khoán nhà nước tiếp tục xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Đối với các bất động sản, số cổ phiếu các bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang thế chấp/giao dịch ký quỹ với các Ngân hàng Vietinbank, OCB, Public Bank, BIDV (ngoài 05 bất động sản như nêu trên còn nhận thế chấp 800.000 cổ phiếu GAB của Trịnh Văn Q1), Công ty chứng khoán Mirae ASSET (Việt Nam), đã nhận thế chấp cho giao dịch ký quỹ 32.266.730 cổ phiếu F của Trịnh Văn Q1, các hợp đồng thế chấp có đăng ký giao dịch bảo đảm và hợp đồng giao dịch ký quỹ chứng khoản theo quy định thì ưu tiên thanh toán cho các Ngân hàng, Công ty chứng khoán trước, số tiền còn lại sẽ được dùng để thi hành các nghĩa vụ của các bị cáo trong vụ án này.

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến các tài sản bị kê biên, phong toà, ngăn chặn giao dịch có quyền đề nghị Cơ quan Thi hành án có thẩm quyền xem xét, giải quyết quyền lợi của mình trong quá trình thi hành án theo quy định của pháp luật.

3.2 Tiếp tục đề nghị ngăn chận giao dịch tài sản của các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để bảo đảm việc bồi thường cho các bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và nghĩa vụ truy nộp sung công quỹ nhà nước của các bị cáo: Theo Công văn số 997/VPCQCSĐT ngày 05/4/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an có gửi Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các đơn vị liên quan tạm dừng biến động (giao dịch chuyển nhượng, mua, bán, cho, tặng, cầm cố, thế chấp...) đối với tài sản (bất động sản, cổ phần vốn góp, cổ phiếu...) đứng tên Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thúy N7, Lê Thị Ngọc D, trong đó: riêng Trịnh Văn Q1: 215.436.257 cổ phiếu F; 218.340.338 có phần tại Công ty CP Đầu tư kinh doanh phát triển bất động sản FHOMES; 7.614.000 cổ phiếu GAB tại Công ty CP Đầu tư khai khoáng và quản lý tài sản F; 1,045.325.000 cổ phần tại Công ty CP Quản lý vốn và tài sản F Holding; 3.156.000 cổ phiếu ART tại Công ty CP Chứng khoán B, 669.000 cổ phần tại Công ty CP Sản xuất và Xuất nhập khẩu Nông sản Fam; 11.450.000 cổ phần tại Công ty CP F Travel; 11.022.000 cổ phần tại Công ty CP Trịnh Gia Việt Nam và những người bạn; 60.000 cổ phần tại Công ty CP Từ thiện xã hội F.

3.3. Kiến nghị Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội phong toả cổ phiếu số cổ phiếu ROS còn lại của các bị cáo tại Công ty F để bảo đảm việc bồi thường cho các bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, gồm: Trịnh Văn Q1: 56 cổ phiếu; Hương Trần Kiều D9: 1.132.000 cổ phiếu; Đỗ Như Tuần: 66.000 cô phiếu; Lê Văn S39: 6.758 cổ phiếu; Lê Tân S33: 6.600 cổ phiếu; Nguyễn Văn T101: 9.240 cổ phiếu; Hoàng Thị H18: 06 cổ phiếu; Nguyễn Văn M8: 06 cổ phiếu; Trịnh Thị Út X59: 58 cổ phiếu; Trịnh Văn Đ78: 158 cổ phiếu; Hoàng Thị Thu H179: 1.418 cổ phiếu, Trương Văn T42: 56 cổ phiếu; Đỗ Quang L128: 39.600 cổ phiếu, Trịnh Thị Thanh H83: 04 cổ phiếu; Trịnh T86: 70 cổ phiếu; Nguyễn Bình P45: 39.600 cổ phiếu; Nguyễn Tiến D30: 39.600 cổ phiếu; 3.4. Về biện pháp bảo đảm thi hành án: Đối với khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3.5. Về số tiền và vật chứng đã thu giữ:

- Tiếp tục tạm giữ số tiền: 264,358,700.973 đồng các bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nộp để bảo đảm bồi thường cho hành vì Lừa đào chiếm đoạt tài sản và 570.000.000 đồng các bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nộp để truy nộp sung công quỹ cho hành vì Thao túng thị trường chứng khoán (Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã có Uỷ nhiệm chỉ ngày 10/5/2024 số tiền 195.357.700.973 đồng đền Cục Thi hành án dân sự TP. Hà Nội; Các khoản tiền khác hiện đang tạm giữ tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an và Cục Thi hành án dân sự TP. Hà Nội - chi tiết nêu tại Phụ lục 7 kèm theo Bản án).

- Tiếp tạm giữ các đồ vật, tài sản đã thu giữ của các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thuỷ N236, Hương Trần Kiều D9, Nguyễn Thiện P146, Nguyễn Quỳnh A12 và Công ty Cổ phần chứng khoán B để bảo đảm thi hành án (chi tiết nêu tại Phụ lục 6 kèm theo Bản ản).

- Trả lại các tài sản khác cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác là: Công ty CP T, Công ty F, Công ty CP Nông dược HAI; Trả lại cho các Công ty có các dấu tròn bị thu giữ và bị cáo Lê Văn S39 các đồ vật tài sản đã bị thu giữ (chỉ tiết nêu tại Phụ lục 6 kèm theo Bản án).

- Tịch thu, tiêu hủy các con đấu chữ ký, đầu chức danh của các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được sử dụng vào việc phạm tội (chi tiết nêu tại Phụ lục 6 kèm theo Bản ản).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông bảo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NỘI DUNG KHÁNG CÁO:

[A]. Kháng cáo của các bị cáo:

+ Ngày 06/8/2024, bị cáo Trần Thị H111 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

+ Ngày 12/8/2024, bị cáo Trần Thị L140 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

+ Ngày 12/8/2024, bị cáo Nguyễn Thị Thị T169 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

+ Ngày 12/8/2024, bị cáo Nguyễn Thị Thanh P124 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

+ Ngày 12/8/2024, bị cáo Nguyễn Quỳnh A12 kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xin được hưởng án treo và gỡ bỏ phong tỏa các tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán của bị cáo, + Ngày 12/8/2024, bị cáo Bùi Ngọc T125 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

+ Ngày 12/8/2024, bị cáo Chu Tiến V107 kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xin được hưởng án treo.

+ Ngày 13/8/2024, bị cáo Hoàng Thị Thu H179 kháng cáo về trách nhiệm hình sự và mức hình phạt.

+ Ngày 13/8/2024, bị cáo Nguyễn Vân M237 kháng cáo đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo và dỡ bỏ kê biên phong tỏa đối với mọi tài sản, tài khoản ngân hàng của bị cáo trong vụ án + Ngày 13/8/2024, bị cáo Đàm Mai H100 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

+ Ngày 13/8/2024, bị cáo Lê Văn T120 kháng cáo toàn bộ bản án.

+ Ngày 14/8/2024, bị cáo Trịnh Thị Thúy N7 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và không yêu cầu bị cáo khắc phục hậu quá.

+ Ngày 15/8/2024, bị cáo Lê Công Đ174 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

+ Ngày 15/8/2024, bị cáo Trần Thế A117 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được cải tạo tại địa phương.

+ Ngày 15/8/2024, bị cáo Đỗ Quang L128 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt + Ngày 15/8/2024, bị cáo Trịnh Văn Đ78 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

+ Ngày 15/8/2024, bị cáo Đỗ Như T131 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và kháng cáo toàn bộ bản án.

+ Ngày 15/8/2024, bị cáo Nguyễn Văn T101 khảng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

+ Ngày 15/8/2024, bị cáo Nguyễn Ngọc T173 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phat.

+ Ngày 15/8/2024, bị cáo Trịnh Văn Q1 kháng cáo về mức hình phạt và mức trách nhiệm dân sự áp dụng với bị cáo trong vụ án.

+ Ngày 15/8/2024, bị cáo Hương Trần Kiều D9 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

89 + Ngây 15/8/2024, bị cáo Trịnh Thị Minh H2 kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự của bị cáo trong vụ án.

+ Ngày 15/8/2024, bị cáo Nguyễn Thị Hạ D228 khảng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

+Ngày 15/8/2024, bị cáo Trầm Tuấn V108 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

+ Ngày 16/8/2024, bị cáo Quách Thị Xuân T134 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại và người liên quan có kháng cáo:

[B]. Kháng cáo của bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

1. Kháng cáo về hình phạt:

1. Đã được bồi thường toàn bộ, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2:

Bị hại ở phụ lục 1: Các ông bà Trần Nhị Khánh D222, Lê Quang T238, Kiều Như N223, Trần Xuân M239, Lương Phủ S225, Lê Võ Hương G240, Trần Duyên P241, Hoàng Đình H242, Trần Thụy Vân L243, Phạm Kim K244, Nguyễn Thành T245, Lê Thanh H246, Lê Nguyễn Nhật D247, Lê Trung H248, Nguyễn Công H249, Đặng Thị My M250, Đặng Lê Kim K251, Nguyễn Thị Ngọc T252, Vũ Văn H253, Hoàng Ngọc P254, Kim Hữu B255, Nguyễn Phương Đ256, Nguyễn Thị L257, Trần Huy C258, Võ Minh P259, Nguyễn Hữu L260, Lê Thị Thu H261, Phạm Thu H262, Nguyễn Lê Kim Y263, Ngô Viết M264, Nguyễn Minh H265, Châu Văn T266, Trần Kỳ H267, Nguyễn Quốc V268, Nguyễn Anh T269, Phạm Thanh H270, Đỗ D271, Viên Quốc Đ272, Bùi Ái L273, Lê Xuân Q274, Lê Anh T275, Nguyễn Tuấn A276, Nguyễn Văn N277, Vũ Thị X278, Trần Quốc H279, Nguyễn Thế L280 (bố bị hại Nguyễn Văn D281), Nguyễn Tiến H282, Đặng Đỗ M283, Vũ Thị H284, Bùi Duy H285, Ngô Văn T286, Bùi Thị Thanh T287, Nguyễn Thủy P288, Phạm Thị Mai L289, Trịnh Tú A290, Dương Đức T291, Đình Thị L292, Phùng Văn T293, Nguyễn Văn C294, Nguyễn Hồng Q295, Trần Thị Bích N296, Nguyễn Xuân T297, Mai Thành Đ298, Nguyễn Thị Hải H299, Nguyễn Quang T300, Ngô Việt T301, Nguyễn Thế A302, Vũ Xuân H303, Lê Văn T304, Bùi Văn S305, Trần Mạnh D306, Nguyễn Cảnh C307, Đỗ Hữu T308, Lê Thị Thu T309, Nguyễn Thị Thanh H310, Đình Thị H311, Nguyễn Văn D312, Trần Thị T313, Vương Ngọc V314, Trần Thị L315, Lê Bả Đ316, Nguyễn Văn T317, Nguyễn Thị M635 H318, Trương Đăng N319, Phạm Quốc P320 (bố bị hại Phạm Thị Thúy L321), Nguyễn Minh C322, Tạ Minh P323, Lô Tư T324, Trần Đức H325, Nguyễn Quốc L326, Trịnh Công B327, Trương Thanh T328, Huỳnh Tổ L329, Nguyễn Hoàng V330, Võ Chí H331, Phạm Minh C66, Huỳnh Thị Kim A332, Nguyễn Danh N333, Nguyễn Thị Y109, Phạm Trường H334, Đỗ Nguyễn Việt H335, Phạm Đức P336, Nghiêm Xuân H337, Nguyễn Văn K338, Nguyễn Huyền T339, Trịnh Thị H340, Nguyễn Thị Thu T341, Vũ Thị T342, Trần Minh H343, Vũ Tuấn A344, Nguyễn Quang T345, Ngô Thị N346, Nguyễn Như H347, Trần Thị Phương Q348 (vợ bị hại Nguyễn Văn K349).

2. Đã được bồi thường theo phụ lục 1, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2:

Bị hại ở phụ lục 1: Ông Nguyễn Văn S350.

3. Đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2:

Bị hại ở phụ lục 1: Các ông bà Nguyễn Việt H351, Phạm Quang T352

II. Kháng cáo về trách nhiệm dân sự:

1. Yêu cầu bổ sung vào Phụ lục 3.1 và yêu cầu bồi thường thiệt hại:

1.1. Bị hại ở phụ lục 2: Các ông bà Nguyễn Thanh H353, Lê Thanh S354, Lê Thị Hồng L355, Trần Thị H556 Q152, Nguyễn Phương T356, Lê Thu H357.

1.2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2: Các ông bà Trần Trọng L358, Hoàng Văn T359, Lê Văn T360, Nguyễn Thị T158, Trần Kim N159, Tô Thị Minh N361, Lê Phúc T154, Nguyễn Thị H153, Nguyễn Thị T158, Cát Hoàng Phương D155, Đoản Văn T362, Dương Thị T363, Triệu Phi S364, L Thị V365, Phạm Việt T366, Hồ T367, Lê Thu T368, Võ Thị Thanh T369, Nguyễn Thanh N370, Nguyễn Thị Quỳnh N371, Hoàng Anh M372, Phạm Thùy L373, Đào Minh D374, Phạm Thị A375, Nguyễn Đình H376, Lê Quang Quốc T377, Nguyễn Vũ Quỳnh N378, Vũ Trọng N379, Trần Văn K380, Phạm Sơn T381, Nguyễn Thị Bích L382, Nông Thanh T383, Trần Thế A117, Phạm Kim C384, Trần Hữu N385, Nguyễn Mạnh L386, Nguyễn Thị Phương D387, Hoàng Lê G388, Lê Thị Hồng H389, Nguyễn Văn H390, Nguyễn Ngọc H391, Dương Văn H392, Nguyễn Thị Lan H393, Lê Văn Q394, Bùi Thị Lệ H395, Nguyễn Tổ Q396, Khắc Thị Xuân D397, Nguyễn Tùng Đ398, Thạch Văn S399, Nguyễn Minh V400, Phạm Thị Thùy D401, Lý Thị Tú T402, Nguyễn Thị Thị H403, Nguyễn Thị Thanh T404, Lê Mỹ Hoàn T405, Chang Quốc L406, Ngô Quang Phúc L407, Đàm Anh T408, Phạm Thị G409, Đào Đức M410, Nguyễn Hồng H411.

2. Yêu cầu bổ sung vào Phụ lục 3.1 và buộc các bị cáo (kể cả các bị cáo là cân hộ Sở giao dịch chứng khoán) liên đới bồi thường thiệt hại:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2: Các ông bà Nguyễn Thị H412, Nguyễn Thị Hoài T413, Nguyễn Thị T415, Bùi Xuân T416, Bùi Kim T417, Đảo Minh T419, Ngô Phương T420, Phan Công Đ421, Vũ Hồng H422, Khương Đức H423.

3. Yêu cầu bồi thường thiệt hại:

3.1. Bị hại ở phụ lục 2: Các ông bà Trương Đình T424, Vũ Huy T425, Huỳnh Trần Duy T426, Phạm Quang D427, Đinh Thị Thu H428.

3.2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3: Các ông bà Lê Minh Tr429, Nguyễn Văn T430, Nguyễn Thành N431, Lưu Gia M432, Nguyễn Phương M162, Trương Tuấn H433, Trần Quang D434, Bùi Thị Thanh A435, Trần Vũ H436, Kha Vũ T437, Phạm Thị V438, Nguyễn Văn Y439, Đỗ Khắc N440, Tạ Thị Hoàng Y441, Phạm Đình D442.

3.3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2: Các ông bà Đình Thị H443, Đinh Thị H444, Phân Thị Thu P445, Đặng Thị Quỳnh D446, Trương Thị Huyên P447, Nguyễn H448, Nguyễn Thủy B449, Nguyễn Thu H450, Nguyễn Phú A451, Trần Xuân N452, Vũ Bảo M453, Lê Thị Hồng X454, Đặng Mạnh C455, Trần Thiện T456, Nguyễn Duy T457, Bùi Thanh T458, Trịnh Văn T459, Phí Thị Hồng T460, Trương Quang T461, Huỳnh Triều T462, Phan Xuân T463, Phạm Văn T464, Vũ Minh S465, Mai Khả S466, Phạm Thanh S467, Nguyễn Thị Thị S468, Nguyễn Thị Ngọc V469, Nguyễn Thanh C470, Hán Đức T471, La Thị Thanh T472, Trần Thị Minh T473, Nguyễn Đức T474, Lê Anh T275, Nguyễn Tấn T475, Nguyễn Nhân N476, Nguyễn Xuân T297, Trần Huyền T477, Lương Thị Nguyên L478, Huỳnh Ngọc T479, Lê Minh H480, Lê Huỳnh C481, Lê Tấn T482, Đình Thị Thu N483, Trịnh Bích N484, Phạm Văn N485, Hoàng Trường M486, Lưu Hoàng L487, Vũ Sỹ L488, Đào Văn L489, Nguyễn Thanh L490, Dương Văn K491, Đào Hương G492, Nguyễn Thị Như G493, Nguyễn Thị Lam Đ494, Nguyễn Văn Đ495, Trần Quốc Đ496, Vũ Đình Đ497, Trần Trung Đ498, Phạm Văn Đ499, Đinh Thị H500, Nguyễn Anh D501, Cao Thị Hồng D502, Vũ Đình D503, Trần Ngọc D504, Tô Đăng D505, Nguyễn Thị Linh C506, Lê Phú C507, Nguyễn Ngọc C508, Nguyễn Mạnh C509, Phạm Văn B510, Phạm Đình B511, Phạm Xuân A512, Vũ Thị Phương A513, Nguyễn Hạnh Minh A514, Lưu Chí T515, Dương Minh P516, Lê Kim H517, Nguyễn Phan Tam A518, Nguyễn Xuân V519, Thái Hoàng D520, Nguyễn Hải Đ521, Nguyễn Thị N522, Nguyễn Thị Phương T523, Nguyễn Quang Đăng K524, Trần Ngọc H525, Trịnh Thị X526, Hồ Thị Hương G527, Trần Thị Thu H528, Phan Thị N529, Lê Thị Ngọc D530, Ông Văn T531, Lê Thị Hoài T532, Đặng Thị L533, Bùi Trung H534, Đoàn Việt H535, Đậu Thị Thanh H536, Lê Thị Thu H204, Nguyễn Đăng H537, Trần Thị H538, Nguyễn Nhật Q539, Nguyễn Thị Q540, Trần Văn Q541, Lê Minh Q542, Nguyễn Thị Thục Q543, Nguyễn Thị Thanh Q544, Trương Công P545, Nguyễn Trung T546, Nguyễn Thị Thanh T547, Nguyễn Quốc H548, Lê Thị Thúy N549, Tạ Văn T550, Đoàn Thị V551, Dương Văn C552, Nguyễn Thu T553, Đỗ Thị Kim T554, Cao Phương A555, Trần Thị H556, Phạm Thị Mai P557, Nguyễn Văn P558, Nguyễn Hồng H559, Phạm Văn K560, Phạm Thị Hồng C561, Đỗ Thị Hồng Đ562, Trần Giang T564, Nguyễn Thị Q565, Cao Thị Kim A566, Nguyễn Thị Mỹ H567, Trần Thị Hà P568, Nguyễn Văn Q569, Nguyễn Minh S570, Nguyễn Tiến T571, Vũ Thị Ngọc M572, Trần Hùng T573, Lê Hoàng Bảo T574, Nguyễn Thị M575, Nguyễn Thị M576, Nguyễn Thành C577, Nguyễn Văn L578, Bùi Trung Q579, Nguyễn Thành N580, Trần Thị Lệ A581, Võ Quốc N582, Nguyễn Thị Kim H583, Nguyễn Thị Kim N584, Ngô Thị Thanh N586, Phan Thị Ánh T585, Nguyễn Ích B587, Đàm Văn Q589, Nguyễn Thị T590, Phạm Thủy N591, Đỗ Thị Bích H592, Dương Minh Q593, Trần Thị N64, Đàm Thị Thúy Q594, Đào Thị Kim N595, Trần Thị Thu T596.

4. Buộc các bị cáo (kể cả các bị cáo là cản bộ Sở giao dịch chứng khoán) liên đới bồi thường thiệt hại:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2. Các ông bà Đinh Văn P597, Nguyễn Văn T598, Dương Hồng H599, Bùi Minh P600, Phan Trọng H601, Lê Ngọc N602.

5. Yêu cầu tất cả các bên liên quan trong việc niêm yết cổ phiếu ROS liên đới bồi thường thiệt hại; điều chỉnh mức bồi thường cho 133 tài khoản trong phụ lục 1, bồi thường cao hơn 32% so với mức bồi thường ở phụ lục 3.1 là không hợp lý, xem xét giả trị tài sản ở các thời điểm của Công ty F Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.1. Ông Lưu Quang H603.

6. Yêu cầu chuyến cổ phiếu ROS từ phụ lục 3.2 sang phụ lục 3.1 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.1: Bà Nguyễn Tường V604.

7. Xác định lại và giảm trừ bớt số tiền thu lợi trái pháp luật Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2: Công ty Cổ phần Chứng khoản B.

III. Kháng cáo toàn bộ bản ản:

1. Yêu cầu bổ sung vào Phụ lục 3.1, buộc các bị cáo (kể cả các bị cáo là cản bộ Sở Giao dịch chứng khoán) phải liên đới bồi thường thiệt hại, tăng hình phạt đối với các bị cáo:

1.1. Bị hại ở phụ lục 2. Các ông bà Chung Vân T605, Hà Quốc H606, Trương Duy L607.

1.2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2. Các ông bà Hoàng Thiên V608, Phạm Văn H609, Trương Văn H610, Đỗ Thị TX, Lê Khắc H611, Nguyễn Hữu P612, Nguyễn Yến N613, Phan Minh N614, Nguyễn Xuân T615: Nguyễn Thanh T616, Trần Thị Thanh T617, Nguyễn Văn T618, Nguyễn Thị Thanh H619, Đinh Ngọc L620, Trần Ngọc T621, Nguyễn Thị Như T622, Trần Phong V623, Hà Hoàng V624, Đặng Thị Hồng V625, Phạm Thị X626, Nguyễn Tùng Nguyệt S627, Nguyễn Thị O628, Bùi Thị Y629, Nguyễn Thị Kim T630, Vũ Duy T630, Hà Đình T631, Đỗ Mai H632, Lê Thị Thanh N633, Nguyễn Thị Thúy N634, Nguyễn Thị M635, Nguyễn Thị Phương L636, Đoàn Văn L637, Trần Duy K638, Lê Kim D639, Dương Thanh D640, Ngô Thế D641, Vũ Trí C642, Thân Thị Ngọc A643, Đào Công A644, Nguyễn Thị Thị H645, Nguyễn Trung H646, Huỳnh Minh T647, Nguyễn Ngọc L648, Trần Ngọc Thanh N649, Hồ Như T650, Nguyễn Bá C651, Nguyễn Sơn T652, Đàm Quang H653, Huỳnh Hoàng Huy L654, Nguyễn Ngọc T655, Đào Hoàng G656, Đồng Vũ T657, Trần Anh T658, Hoàng Thị Lệ H659, Lê Quốc H660, Trương Tuấn H661, Nguyễn Thanh H662, Nguyễn Văn H663, Trần Thị Thu H664, Nguyễn Thúy H665, Phan Hồng H666, Lê Nữ H667, Mai Thị Q668, Đậu Thùy T669, Nguyễn Phương N670, Lê Ngọc C671, Hoàng Tiến D672, Dương Kiều P673, Võ Thị Ngọc P674, Hạ Vi Thùy A675, Quách Tổ C676, Bùi Khắc Đ677, Lê Thị Minh H678, Phạm Ngọc M679, Nguyễn Quốc M680, Nguyễn Thị S681, Trần Nguyễn Hùng S682, Nguyễn Thị T104, Vũ Thị T683, Lương Tuấn A684, Nguyễn Ngọc L685, Nguyễn Ngọc P686, Đô Tuấn A687, Nguyễn Bá N688, Lê Hồng M689.

2. Buộc các bị cáo (kể cả các bị cáo là cản bộ Sở Giao dịch chứng khoán) phải liên đới bồi thường thiệt hại, tăng hình phạt đối với các bị cáo:

2.1. Bị hại ở phụ lục 2: Các ông bà Nguyễn Thị Bích V670, Lê Thị Vân N671, Lê Dương K672.

2.2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phụ lục 3.1. Các ông bà Vũ Thị Mỹ H673, Trần Thị Thu T596 2.3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phụ lục 3.2: Các ông bà Trần Quang N674, Nguyễn Tấn T675, Trần Ngọc S676, Lê Minh H677, Trần Minh T678, Ngô Thị Huyền T679, Phạm Thị Thu H680, Phạm Thị G409, Vũ Thị Ngọc A681, Vũ Thị Linh C682, Vũ Tiến H683, Nguyễn Thủy H684, Lê Thị Hương L685, Nguyễn Thị Y686, Nguyễn Thị Mỹ P687, Tăng Bá T688, Đặng Nguyễn Thị L689, Nguyễn Thị H690.

3. Yêu cầu bổ sung vào Phụ lục 3.1, yêu cầu bồi thường thiệt hại, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trịnh Văn Q1:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2: Bà Thiều Thị Hải Y691.

4. Yêu cầu bồi thường thiệt hại, tăng hình phạt đối với các bị cáo phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" 4.1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.1: Ông Hoàng Quang H692.

4.2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2. Các ông bà Nguyễn Văn T693, Huỳnh Tuyết Q694, Huỳnh Tuyết K695, Nguyễn Kim H696, Nguyễn Hải N697, Vũ Ngọc Nguyễn A698, Đào Thị Hoài T699, Trần Thu H700, Vũ Mạnh H701, Nguyễn Trung T702, Phan Thị L703, Phan Thị V704, Nguyễn Duy P705, Nguyễn Thị Mỹ L706, Lê Thị Ái L708, Phạm Minh N709, Nguyễn Tấn P710, Lê Văn Q711.

5. Không đồng ý tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà phải là bị hại; yêu cầu bồi thường thiệt hại Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.1. Ông Phạm Quốc T712.

6. Yêu cầu bồi thường thiệt hại, xác định Ủy ban chứng khoán Nhà nước và Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2: Các ông bà Lương Thanh T713, Đặng Thảo V714.

7. Xác định Ủy ban chứng khoán Nhà nước và Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, yêu cầu Ủy ban chứng khoán Nhà nước thông qua Tổng công ty Lưu kỳ và Bù trừ chứng khoán Việt Nam và các công ty chứng khoản thành viên chốt quyền yêu cầu bồi thường cho tất cả các nhà đầu tư hiện còn đang giữ cổ phiếu ROS Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2. Các ông bà Đặng Tuệ M715, Đoàn Thị Tuấn N716, Bùi Văn M717, Nguyễn Kim T718, Nguyễn Quang H719, Nguyễn Minh P720, Trần Ngọc S676, Trần Văn D721, Trần Thị Thu H528, Đoàn Ngọc M722, Trần Mạnh H723, Nguyễn Hoàng T724, Dương Thái B725, Dương Thị Hồng N726.

8. Yêu cầu bổ sung vào phụ lục 3.1; buộc các bị cáo (kể cả các bị cáo là cản bộ Sở giao dịch chứng khoán) liên đới bồi thường thiệt hại; xác định Ủy ban chứng khoán Nhà nước và Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoản Việt Nam (VSDC) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; yêu cầu Ủy ban chứng khoán Nhà nước thông qua Tổng công ty Lưu kỳ và Bù trừ chứng khoán Việt Nam và các công ty chứng khoán thành viên chốt quyền yêu cầu bồi thường cho tất cả các nhà đầu tư hiện còn đang giữ cổ phiếu ROS; tăng hình phạt đối với các bị cáo Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2: Ông Phạm Việt H727.

9. Yêu cầu bổ sung vào phụ lục 3.1; yêu cầu bồi thường thiệt hại; xác định Ủy ban chứng khoán Nhà nước và Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; yêu cầu Ủy ban chứng khoán Nhà nước thông qua Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam và các công ty chứng khoản thành viên chốt quyền yêu cầu bồi thường cho tất cả các nhà đầu tư hiện còn đang giữ cổ phiếu ROS Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở phụ lục 3.2: Các ông bà Đặng Văn H728, Hà Anh D729.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

25 bị cáo có kháng cáo:

+ Bị cáo Trần Thị H111 thay đổi kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

+ Bị cáo Trần Thị L140 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền.

+ Bị cáo Nguyễn Thị Thị T169 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền.

+ Bị cáo Nguyễn Thị Thanh P124 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền.

+ Bị cáo Nguyễn Quỳnh A12 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiển và gỡ bỏ phong tỏa các tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán của bị cáo.

+ Bị cáo Bùi Ngọc T125 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền.

+ Bị cáo Chu Tiến V107 giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xin được hưởng án treo.

+ Bị cáo Hoàng Thị Thu H179 thay đổi kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

+ Bị cáo Nguyễn Văn M8 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đổi với tội Thao túng thị trường chứng khoán và giảm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; dỡ bỏ kê biên phong tỏa đối với mọi tài sản, tài khoản ngân hàng của bị cáo trong vụ án.

+ Bị cáo Đàm Mai H100 giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

+ Bị cáo Lê Văn T120 thay đổi kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

+ Bị cáo Trịnh Thị Thúy N7 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đối với tội Thao túng thị trường chứng khoản và giảm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, không kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự.

+ Bị cáo Lê Công Đ174 giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xìn được hưởng án treo.

+ Bị cáo Trần Thế A117 giữ nguyên khảng cáo xin giảm nhẹ hình phạt bằng thời hạn tạm giam hoặc xin được hưởng án treo.

+ Bị cáo Đỗ Quang L128 thay đổi kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

+ Bị cáo Trịnh Văn Đ78 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đối với tội Thao túng thị trường chứng khoán và giảm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội Lira đảo chiếm đoạt tài sản.

+ Bị cáo Đỗ Như T131 thay đổi kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

+ Bị cáo Nguyễn Văn T101 thay đổi kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

+ Bị cáo Nguyễn Ngọc T145 giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

+ Bị cáo Trịnh Văn Q1 vắng mặt tại phiên tòa vì lý do sức khỏc. Luật sư của bị cáo trình bày: Bị cáo thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đối với tội Thao túng thị trường chứng khoán và giảm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, không kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự.

+ Bị cáo Hương Trần Kiều D9 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đối với tội Thao tùng thị trường chứng khoản và giảm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

+ Bị cáo Trịnh Thị Minh H2 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đối với tội Thao túng thị trường chứng khoán và giảm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, không kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự.

+ Bị cáo Nguyễn Thị Hạ D228 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đối với tội Thao túng thị trường chứng khoán và giảm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

+ Bị cáo Trầm Tuấn V108 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

tiền. + Bị cáo Quách Thị Xuân T134 thay đổi kháng cáo xin được chuyển hình phạt Các bị cáo có kháng cáo đều xuất trình tỉnh tiết mới làm căn cứ kháng cáo; đều công nhận đã thực hiện các hành vì như bản án sơ thẩm nêu, không có ý kiến gì về tội danh bị truy tổ, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nguyên nhân, bối cảnh thực hiện hành vi phạm tội, vị trí vai trò, ý thức chủ quan của mình khi thực hiện hành vi phạm tội để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

25 bị cáo bị kháng cáo:

+ 07 bị cáo: Đăng Thị H730, Lê Vân S731, Lê Thị Tuyết H56, Trịnh Thị Út X59, Phạm Thị H193 N65, Dương Văn T68, Phạm Trung M175 đều có đơn xin xét xử vắng mặt và không có đề nghị gì.

+ 08 bị cáo đã được hưởng án treo: Trịnh Văn N77, Nguyễn Quang T80, Trịnh Thị Thanh H83, Nguyễn Thị N15, Hoàng Thị H18, Đỗ Thị Huyền T21, Trương Văn T42, Phạm Thanh H62 đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

+09 bị cáo bị tạm giam: Nguyễn Thiện P74, Trịnh T86, Nguyễn Thanh B24, Lê Thành V192, Nguyễn Tiến D30, Lê Tân S33, Nguyễn Bình P45, Trần Đắc S51, Lê Hải T53 đều đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho các bị cáo.

+ Bị cáo Nguyễn Minh Đ48 đã được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt 24 tháng tù treo, bị cáo xin giảm thời gian thử thách do đã bị tạm giam 06 tháng.

- Các bị hại có ý kiến như sau: Một số bị hại cỏ ý kiến đề nghị xem xét buộc các bị cáo phải bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, đề nghị xét xử các bị cáo theo quy định của pháp luật. Một số bị hại khác có ý kiến đề nghị tạo điều kiện cho các bị cáo khắc phục hậu quả vụ án, sớm trở về với gia đình và xã hội.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến:

+ Một số nhà đầu tư đã mua và hiện đang nắm giữ cổ phiếu ROS, đề nghị xác định mình là bị hại trong vụ án, đề nghị được chuyên vào phục lục 1 và 3.1 để buộc các bị cáo phải bồi thường cho các nhà đầu tư thiệt hại phát sinh do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra.

+ Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác, không có ý kiến tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên toà: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án như sau:

Nội dung thứ nhất về hình phạt đối với các bị cáo:

- Đối với kháng cáo về việc tăng hình phạt đối với các bị cáo.

+ Một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo: Căn cứ Điều 65, khoản 4 Điều 331 BLTTHS: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chỉ được kháng cáo đối với phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Do đó, kháng cáo về nội dung này của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu là không có căn cứ để chấp nhận.

+ Xét kháng cáo tăng hình phạt của một số bị hại đối với các bị cáo:

Mặc dù các bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, song do các bị cáo có nhiều tỉnh tiết giảm nhẹ TNHS ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm; Hơn nữa, trách nhiệm dân sự trong vụ án này đã được các bị cáo thực hiện xong. Do đó, có cơ sở để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Kháng cáo của các bị hại đề nghị tăng hình phạt là không có cơ sở để chấp nhận - Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho 02 bị cáo Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2 của 117 bị hại.

Như đã phân tích nêu trên, do bị cáo Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2, đã nộp thêm số tiền bồi thường khắc phục và cung cấp nhiều tài liệu mới ở giai đoạn phúc thẩm, trách nhiệm dân sự trong vụ án đã được các bị cáo thực hiện xong nên có căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt cho hai bị cáo. Do vậy, kháng cáo của 117 người bị hại về nội dung này là có cơ sở chấp nhận.

Xét kháng cáo của các bị cáo Tại phiên tòa thì các bị cáo bị xét xử về 2 tội gồm (1) Trịnh Văn Q1, (2) Trịnh Thị Minh H2, (3) Trịnh Thị Thúy N7, (4) Hương Trần Kiều D9, (5) Trịnh Văn Đ78, (6) Nguyễn Văn M8, (7) Nguyễn Thị Hạ D228 thay đổi nội dung kháng cáo so với nội dung kháng cáo ban đầu xin giảm hình phạt đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và xin chuyển sang hình phạt tiền đối với tội Thao túng thị trường chứng khoán; 8 bị cáo bị xét xử về tội Thao túng thị trường chứng khoán (8) Nguyễn Quỳnh A12, (9) Nguyễn Thị Thanh P124 (10) Nguyễn Thị Thị T169, (11) Bùi Ngọc T125, (12) Trần Thị L140, (13) Quách Thị Xuân T134, (14) Chu Tiến V107 và (15) Trịnh T86 (bị cáo này không kháng có nhưng có đơn đề nghị xin giảm hình phạt). Các bị cáo này đều bị truy tố, xét xử tội Thao túng thị trường chứng khoán theo điểm b khoản 2 Điều 211 BLHS: khung hình quy định phạt Quy định phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

Luật sư của bị cáo Q1 trình bày và gửi Đơn đề nghị và cam kết của bà Phạm Tú A732 là người nhà gia đình bị cáo Q1 cung cấp tài liệu thể hiện có số dư tài khoản 24,5 tỷ đồng tại ngân hàng Techcombank và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng hình phạt tiền đối với 15 bị cáo trên, nếu được sẽ dùng số tiền này để phong tỏa đảm bảo thi hành án.

Mặt khác, số tiền gia đình bị cáo Q1 nộp thừa để khắc phục hậu quả theo công bố của Hội đồng xét xử là trên 22 tỷ đồng, gia đình và luật sư trình bày nếu được áp dụng hình phạt tiền cũng dùng số tiền này để bảo đảm cho việc thi hành án.

Do vậy, về quy định của pháp luật và điều kiện đảm bảo thi hành có thể chấp nhận kháng cáo của 15 bị cảo này.

Vụ án này gia đình bị cáo Q1 đã nộp khắc phục toàn bộ và vượt số tiền mà bản án sơ thẩm đã tuyên, ngoài ra 1 số bị cáo bản án sơ thẩm không buộc phải bồi thường nhưng vẫn nộp tiền để khắc phục hậu quả của vụ ăn. Do vậy quan điểm của Viện kiểm sát trên cơ sở đánh giá tổng thể vụ án khi xét giảm kháng cáo của các bị cáo đầu vụ thì xét giảm cả các bị cáo đồng phạm không kháng cáo và các biện pháp tư pháp phong tỏa tài sản, tài khoản ngân hàng, chứng khoán, tạm giữ tài sản để đảm bảo thi hành án cần hủy bỏ và trả lại tài sản cho các bị cáo.

(1) Đối với bị cảo Trịnh Văn Q1 xét thấy, bị cáo Q1 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cái, được nhiều cá nhân, tập thể đề nghị giảm nhẹ TNHS; bản thân lần đầu phạm tội, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác, học tập, lao động; tham gia nhiều hoạt động thiện nguyện, Gia đình có công với cách mạng; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS trong đó đặc biệt bị cáo và gia đình cùng một số tổ chức cá nhân khác đã nộp khắc phục xong toàn bộ hậu quả vụ án. Do đó, có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Về biện pháp tư pháp: Do gia đình bị cáo đã nộp đầy đủ các khoản phải thi hành án, án phí, trách nhiệm dân sự nên cần chấp nhận khảng cáo hủy bỏ các lệnh kê biên, phong tỏa và trả lại tài sản cho bị cáo; đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo Quyết sửa bản án sơ thẩm, cụ thể:

- Xử phạt bị cáo: 7 năm tù đến 8 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản": phạt bị cáo 4 tỷ đồng về tội "Thao túng thị trường chứng khoản - Hủy bỏ kẻ biên, phong tỏa tài khoản ngân hàng và tài khoản chứng khoán, trả lại tài sản cho bị cáo.

(2) Đối với bị cảo Trịnh Thị Minh H2 (em gái bị cáo Q1) Tại cấp phúc thẩm: Có 118 bị hại kháng cáo xác nhận các bị cáo Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2 đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường nên xin giảm hình phạt cho hai bị cáo. Bị cáo và gia đình bị cáo đã nộp tại cấp phúc thẩm tổng số 254 tỷ đồng tổng số còn phải nộp theo quyết định của bản án sơ thẩm là 252.148.089.4464. Đây là những tỉnh tiết mới quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS và có đủ điều kiện áp dụng hình phạt tiền tội Thao túng thị trường chứng khoán.

VKS đề nghị HĐXX chấp nhận khảng cáo của bị cáo, cụ thể:

Xử phạt bị cáo: 3 tỷ 500 triệu đồng về tội "Thao túng thị trường chứng khoán"; 4 năm 6 tháng tù đến 05 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

- Hủy bỏ kê biên, phong tỏa tài khoản ngân hàng và tài khoản chứng khoán, trả lại tài sản cho bị cáo.

(3) Đối với bị cảo Trịnh Thị Thúy N7 (em gái bị cáo Quyết) Tại cấp phúc thẩm bị cáo và gia đình cung cấp tài liệu thể hiện:

Bị cáo sức khỏe yếu: Bị cáo bị viêm trào ngược thực quản độ A – viêm dạ dày, mất phải u bở tự do mi trên (đã phẫu thuật ngày 10/10/2024). Bị cáo và gia đình bị cáo đã nộp tại cấp phúc thẩm tổng số 85.900.000.000 đ/tổng số còn phải nộp theo quyết định của bản án sơ thẩm là 83.676.716.936 ₫ (thừa 2.223.283.064 đ) Đây là những tình tiết mới, quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin phạt tiền tội Thao túng thị trường chứng khoán và giảm hình phạt tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản Đề nghị xử phạt bị cáo 3 tỷ đồng tội Thao từng thị trường chứng khoán, 3 năm 6 tháng tù đến 4 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(4) Đối với bị cáo Hương Trần Kiều D9:

Tại cấp phúc thẩm bị cảo cung cấp tài liệu mới thể hiện: Gia đình bị cáo có công với cách mạng. Chồng, con trai và anh trai ruột của bị cáo có thành tích xuất sắc trong học tập, công tác. Đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo của Công ty Cổ phần F Quy Nhơn Golf & Resort, Công ty cổ phần Hàng không TV, Công ty TNHH quản lý khách sạn và khu nghỉ dưỡng F, Công ty TNHH Samon Golf & Resort, Công ty TNHH và đầu tư F Hạ Long. Mặc dù Bản án sơ thẩm không buộc bị cáo phải chịu TNDS hoặc bị áp dụng biện pháp tư pháp nhưng ở giai đoạn phúc thấm bị cáo đã tự nguyện nộp thêm 300.000.000 đồng tại Biên lai số 0068332 ngày 06/3/2025. Tại kết luận điều tra xác định bị cáo Dung tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án nhưng chưa được cấp sơ thẩm áp dụng nên đề nghị áp dụng thêm điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo.

Do có đủ điều kiện áp dụng hình phạt tiền đối với tội Thao túng thị trường chứng khoản và giảm nhẹ hình phạt tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo xử phạt bị cáo 3 tỷ đồng tội Thao túng thị trường chứng khoán, 3 năm 6 tháng tù đến 4 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(5) Đối với bị cáo Nguyễn Quỳnh A12:

Tại cấp phúc thẩm bị cáo xin được phạt tiền và xuất trình tài liệu thể hiện có 17 cá nhân là bác sỹ, cán bộ tổ dân phố nơi cư trú và đồng nghiệp của bị cáo tại công ty chứng khoán kiến thiết Việt Nam có đơn xin giảm hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo. Đây là tỉnh tiết mới, và có đủ điều kiện áp dụng hình phạt tiền.

Đề nghị chấp nhận không cảo của bị cáo, xử phạt bị cáo 02 tỷ đồng về tội Thao từng thị trường chứng khoản.

(6) Đối với bị cáo Chu Tiến V107:

Tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp một số tài liệu thể hiện: Bị cáo nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067399 ngày 18/12/2024. Bị cáo bị u dưới da vùng đỉnh bên trái, đau cột sống thắt lưng, đau cổ chân. Gia đình bị cáo có công với cách mạng; Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính, bố mẹ giả, 02 con nhỏ hiện đang đi học, được UBND phường Trung Văn, quận N, thành phố Hà Nội xác nhận. Bị cáo tham gia nhiều hoạt động thiện nguyện: Ủng hộ đồng bào do cơn bão số 3 Yagi số tiền 30 triệu đồng, hiến máu nhân đạo. Đây là những tỉnh tiết giảm nhẹ mới theo khoản 2 Điều 51 BLHS và bị cáo có đủ điều kiện để áp dụng hình phạt tiền.

Đề nghị xử phạt bị cáo Vượng 02 tỷ đồng tù về tội Thao từng thị trường chứng khoản.

(7) Đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh P124:

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo xin được phạt tiền và xuất trình tài liệu thể hiện bị cáo có thành tích trong quá trình công tác. Gia đình bị cáo có công với cách mạng. Mẹ đẻ, bố chồng và chồng của bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác, được tặng thưởng nhiều Giấy khen. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện. Khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067471 ngày 20/12/2024 để khắc phục hậu quả cho bị cáo Quyết; nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0066065 ngày 20/8/2024. Bị cáo có những tỉnh tiết mới và đủ điều kiện để áp dụng hình phạt tiền.

Đề nghị xử phạt bị cáo 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoản.

(8) (9) Đối với các bị cáo Nguyễn Thị Thị T169 và Bùi Ngọc T125:

Tại cấp phúc thẩm các bị cáo thay đổi kháng cáo xin được phạt tiền và xuất trình 1 số tỉnh tiết mới:

+ Bị cáo Nguyễn Thị Thị T169: Bị cáo có thành tích trong quá trình công tác. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện. Gia đình bị cáo có công với cách mạng. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ bị cáo tuổi cao, mẹ bị cáo là bà Trịnh Thị Ngà bị suy thận mãn tính, đái tháo đường. Khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067472 ngày 20/12/2024 để khắc phục hậu quả cho bị cáo Quyết + Bị cáo Bùi Ngọc T232: Bị cáo có thành tích trong quá trình học tập và công tác: Được tặng thưởng Danh hiệu học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. T tặng thường Giấy khen danh hiệu nhân viên tiêu biểu năm 2019.

tiền. Đây là những tình tiết mới và cả 2 bị cáo đều đủ điều kiện để áp dụng hình phạt Đề nghị HĐXX xử phạt mỗi bị cáo 2 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoản.

(10) (11) Đối với các bị cáo Trần Thị L140 và Quách Thị Xuân T134:

Tại cấp phúc thẩm các bị cáo thay đổi kháng cáo xin được phạt tiền và xuất trình một số tài liệu thể hiện:

+ Bị cáo Trần Thị L140: Khắc phục hậu quả của vụ án 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067469 ngày 20/12/2024. Bị cáo nộp 200.000 đồng án phí sơ thẩm tại Biên lai số 0066067 ngày 20/8/2024. Bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác. Gia đình bị cáo có công với cách mạng. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, chồng bị cáo bị gan xơ hóa và xơ gan, bố mẹ giản, 02 con nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình, được UBND phường Phú La, quận HĐ, thành phố Hà Nội xác nhận. Bị cáo tham gia các hoạt động thiện nguyện.

+ Bị cáo Quách Thị Xuân T134: Khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067468 ngày 20/12/2024 để khắc phục hậu quả cho bị cáo Quyết; Bị cáo có thành tích trong công tác; Gia đình bị cáo có công với cách mạng; Bố chồng bị cáo là ông Cao Quốc S745 được Thủ tướng Chính phủ, BCH Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng thưởng Bằng khen; Công ty cổ phần Chúng khoán An Bình (ABS) có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Hoàn cảnh gia đình bị cáo khô khăn, 02 con đang đi học, mẹ già, bản thân bị cáo mắc nhiều bệnh. 61 cả nhân có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyên.

Đây là những tình tiết mới tại cấp phúc thẩm và các bị cáo này đều đủ điều kiện để phạt tiền.

Đề nghị xử phạt mỗi bị cáo 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán.

(12) Đối với bị cáo Trịnh Văn Đ78:

Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình một số tài liệu thể hiện: Bị cáo nộp khắc phục 200.000.000 đồng tại Biên lai số 0067481 ngày 20/12/2024. Bị cáo đã nộp án phi hình sự sơ thẩm và có nhiều hoạt động thiện nguyện.

Đây là tình tiết mới tại cấp phúc thẩm và bị cáo đủ điều kiện để áp dụng hình phạt tiền tội Thao túng thị trường chứng khoán.

Đề nghị chấp nhận khảng cáo xử phạt bị cảo Đại 02 tỷ đồng tội Thao túng thị trường chứng khoản, 4 năm tù đến 4 năm 6 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(13) Đối với bị cáo Nguyễn Văn M8: Tại cấp phúc thẩm bị cáo thay đổi kháng cáo xin được phạt tiền tội "Thao túng thị trường chứng khoán" đồng thời xuất trình một số tài liệu thể hiện: Bị cáo nộp khắc phục 150.000.000 đồng tại Biên lai số 0067480 ngày 20/12/2024; Gia đình bị cáo có công với cách mạng, nhiều người thân được tặng thưởng các huân chương cao quý của Nhà nước; bản thân bị cáo được xác nhận có công trong việc phát hiện và tố giác hành vi phạm tội trong vụ án khác. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện.

Đây là tình tiết mới cần ghi nhận bổ sung cho bị cáo. Do đó, có căn cứ giảm một phần hình phạt và đủ điều kiện áp dụng hình phạt tiền.

Đề nghị xử phạt bị cáo 02 tỷ đồng tỏi Thao túng thị trường chứng khoán, 2 năm 6 tháng từ đến 3 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(14) Đối với bị cáo Nguyễn Thị Hạ D228: Tại cấp phúc thẩm bị cáo Dung thay đổi kháng cáo xin phạt tiền tội Thao túng thị trường chứng khoán và xuất trình tài liệu thể hiện: Bị cáo nộp khắc phục 50.000.000 đồng theo Biên lai số 0067479 ngày 20/12/2024. Đây là tình tiết mới cần ghi nhận bổ sung cho bị cáo. Ngoài ra đánh giá bị cáo có vai trò thấp, có căn cứ giảm một phần hình phạt cho bị cáo và đủ điều kiện áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo Dung tội Thao túng thị trường chứng khoán.

Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hạ D228 02 tỷ đồng tội Thao túng thị trường chứng khoản, 16 tháng tù đến 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(15) Đối với bị cáo Đỗ Như T131: Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình một số tài liệu thể hiện: 171 Cán bộ, nhân viên Công ty CP Xây dựng F và Công ty CP T có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Chủ tịch UBND phường Lê Đại Hành, quận H, thành phố Hà Nội tặng Giấy khen do có thành tích xuất sắc trong công tác bảo vệ an ninh trật tự năm 2011. Bị cáo ủng hộ phòng chống dịch Covid và đã nộp ăn phí hình sự sơ thẩm. Đây là những tình tiết mới cân ghi nhận bổ sung cho các bị cáo theo khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Đề nghị xử phạt bị cáo 3 năm 6 tháng tù đến 4 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(16) Đối với bị cáo Đàm Mai H100: Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình một số tài liệu thể hiện: Bị cáo có thành tích trong quá trình công tác, Sức khỏe bị cáo yếu: Bị cáo bị bướu keo thủy trái tuyến giáp, u sơ tuyến giáp, u sơ cổ tử cung, Gia đình bị cáo có công với cách mạng; Bị cáo có nhiều hoạt đồng thiện nguyện. Đây là những tình tiết mới cần ghi nhận bổ sung cho các bị cáo theo khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, có căn cứ chấp nhận khảng cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Đề nghị xử phạt bị cáo 16 tháng tù đến 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(17) Đối với bị cáo Nguyễn Văn T101: Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình một số tài liệu thể hiện: Bị cáo nộp 25.000.000 đồng tại Biên lai số 0067490 ngày 23/12/2024 khắc phục hậu quả của vụ án. Bị cáo có thành tích xuất sắc trong quá trình công tác. Bị cáo có thời gian tham gia quân ngũ, đã theo học khóa 4 Sĩ quan dự bị Trường đại học Kinh tế kế hoạch. Bị cáo được tặng thưởng Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng. Đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo của Hiệu trưởng, các giảng viên và học viên của Trường Đại học Thương mại; đại diện Công ty Cổ phần F Quy Nhơn Golf&Resort. Gia đình bị cáo có công với cách mạng; Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn: Bố mẹ già, vợ bị cáo sức khỏe yếu, đã cất hoàn toàn tuyến giáp. Đây là những tỉnh tiết mới cần ghi nhận bổ sung cho bị cáo theo điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, có căn cứ giảm một phần hình phạt cho các bị cáo.

Đề nghị xử phạt bị cáo 3 năm 6 tháng tù đến 4 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(18) Đối với bị cáo Hoàng Thị Thu H179: Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không có trách nhiệm liên đới bồi thường nhưng tự nguyện nộp 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) để khắc phục hậu quả vụ án. UBND phường Phương Canh, quận N, thành phố Hà Nội có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Quá trình sinh sống tại địa phương, bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật; đóng góp ủng hộ phòng chống dịch Covid 19, ủng hộ nhân dân bị ảnh hưởng bởi bão Yagi; Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện. Đây là những tỉnh tiết mới cần ghi nhận bổ sung cho bị cáo theo điểm b khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, có căn cứ giảm một phân hình phạt cho bị cáo.

Đề nghị xử phạt bị cáo 3 năm 6 tháng tù đến 4 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(19) Đối với bị cảo Trần Thế A117: Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình một số tài liệu thể hiện: Bị cáo tự nguyện nộp khắc phục 1,3 tỷ đồng; Gia đình bị cáo có công với cách mạng, Mẹ đẻ bị cáo là bà Hà Thị T762 được tặng thưởng Huy chương Vì sức khỏe nhân dân. Vợ bị cáo là Trần Thị D763 được tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba... Đây là những tình tiết mới cần ghi nhận bổ sung cho bị cáo theo điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, có căn cứ giảm một phần hinh phạt cho bị cáo.

Đề nghị xử phạt bị cáo Thế Anh 17 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" (20) Đối với bị cảo Đỗ Quang L128. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo nộp khắc phục hậu quả của vụ án số tiền 200.000.000 đồng tại Biên lai số 0068622 ngày 24/3/2025.

Gia đình bị cáo có công với cách mạng. Vợ bị cáo là Bùi Thanh M766 có nhiều thành tích trong quá trình công tác; Bị cáo tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện. Do vậy, cân xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 năm tù đến 3 năm 6 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(21) (22) Đối với các bị cáo Nguyễn Ngọc T145 và Lê Văn T120:

+ Bị cáo Nguyễn Ngọc T173 có tài liệu mới như: Bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác. Gia đình bị cáo có công với cách mạng; Bị cáo bị ung thư Amydal giai đoạn 2, sức khỏe yêu. Bị cáo có hoạt động thiện nguyện, cứu trợ các hộ dân sau cơn bão số 10 năm 2013. Trên cơ sở đó có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

+ Đối với bị cáo Lê Văn T120: Tuy không có tỉnh tiết giảm nhẹ mới song trên cơ sở đánh giá tổng thể vụ án ở cấp phúc thẩm cần xem xét giảm một phần hình phạt cho các bị cáo để thể hiện sự thống nhất khi phân hóa vai trò đồng phạm và cá thể hỏa hình phạt.

Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T145 3 năm tù đến 3 năm 6 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Xử phạt Lê Văn T120 từ 2 năm 6 tháng tù đến 3 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(23) Đối với bị cáo Trần Thị H111: Tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp một số tài liệu thể hiện: Bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0065972 ngày 15/8/2024. Công ty TNHH Kiểm toán TTP có đơn trình bày gia đình bị cáo có công với cách mạng, chống và con bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác, học tập, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo có 4 con nhỏ, bố mẹ già và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo lập công chuộc tội; có nhiều thành tích trong quá trình công tác và có nhiều hoạt động thiện nguyện. Đây là những tỉnh tiết giảm nhẹ mới theo khoản 2 Điều 51 BLHS cần ghi nhận bổ sung cho bị cáo. Do đó có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Đề nghị xử phạt bị cáo 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(24). Đối với bị cáo Trầm Tuấn V108 (đã rút đơn kháng cáo, tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm bị cảo lại giữ nguyên nội dung không cảo xin giảm hình phạt).

Tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp một số tài liệu thể hiện: Bị cáo nộp khắc phục 150.000.000 đồng tại Biên lai số 0067508 ngày 24/12/2024. Bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác. Công đoàn Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và các Công ty có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Gia đình bị cáo có công với cách mạng. Các thành viên trong gia đình bị cáo có thành tích xuất sắc trong quá trình công tác. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyễn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo ở mức độ nhất định là phù hợp.

Đề nghị xử phạt bị cáo 24 tháng tù đến 30 tháng tù về tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ.

(25) Đối với bị cáo Lê Công Đ174: Tại cấp phúc thẩm bị cáo xin được chuyển sang hình phạt tiền hoặc hưởng án treo, bị cáo cung cấp một số tài liệu thể hiện:

Bị cáo có thành tích xuất sắc trong quá trình công tác. Gia đình bị cáo có công với cách mạng. Tập thể cán bộ, công chức Ủy ban chứng khoán Nhà nước có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện. Và có xuất trình 1 số tiết kiệm nếu được phạt tiền thì đề nghị dùng sổ tiết kiệm này để đảm bảo cho việc thi hành án, Xét thấy bị cáo Điền có những tỉnh tiết giảm nhẹ mới theo khoản 2 Điều 51 BLHS nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoản.

Đối với một số bị cáo không có đơn kháng cáo nhưng có đơn đề nghị xem xét giảm hình phạt gồm: Phạm Thị H193 N65, Nguyễn Thanh B24, Lê Thành V27, Nguyễn Tiến D30, Lê Tân S33, Nguyễn Bình P45, Trần Đắc S51, Lê Hải T53, Nguyễn Thiện P74 và Trịnh T86, nhận thấy:

Sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo thừa nhận tội danh bị quy kết và không có đơn kháng cáo nhưng có đơn đề nghị xin giảm hình phạt và cung cấp một số tài liệu chứng cứ mới. Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới theo khoản 2 Điều 51 BLHS, trên cơ sở đánh giá tổng thể vụ ăn ở cấp phúc thẩm cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo ở mức độ nhất định. Cụ thể, đề nghị:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B24 3 năm tù đến 3 năm 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản";

- Xử phạt bị cáo Lê Thành V192 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản";

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến D30 30 tháng tù đến 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản";

- Xử phạt bị cáo Lê Tân S33 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản";

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Bình P45 30 tháng tù đến 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản";

- Xử phạt bị cáo Trần Đắc S51 4 năm 6 tháng tù đến 5 năm tù về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ";

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiện P74 3 năm tù đến 3 năm 6 tháng tù về tội "Lửa đảo chiếm đoạt tài sản";

- Xử phạt bị cáo Trịnh T86 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", 2 tỷ 500 triệu đồng về tội "Thao túng thị trường chứng khoán".

- Xử phạt bị cáo Lê Hải T53 4 năm tù đến 4 năm 6 tháng tù về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ".

- Các bị cáo đã được hưởng án treo cần giữ nguyên mức hình phạt như cấp sơ thẩm đã tuyên.

Đối với kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về việc xác định lại tư cách tham gia tố tụng (đề nghị xác định là bị hại, không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) Những người đã được bản án sơ thẩm xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại phụ lục 3.1, 3.2 không phải nhà đầu tư mua cổ phiếu ban đầu mà mua lại của các nhà đầu tư khác, không chịu tác động trực tiếp bởi hành vi phạm tội của Quyết và đồng phạm mà bị gián tiếp thiệt hại. Do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo về nội dung này.

Đối với yêu cầu của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại phụ lục 3.2 yêu cầu chuyển sang danh sách tại phụ lục 3.1 của bản án sơ thẩm; Những người này và một số bị hại tại phụ lục 02 của bản án sơ thẩm yêu cầu được bồi thường thiệt hại trong vụ án này tại cấp phúc thẩm.

Đối với các nhà đầu tư khác đang sở hữu cổ phiếu ROS là bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hiện chưa có yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường trong vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu. Do đó, yêu cầu đưa vào danh sách được bồi thường và giải quyết tại cấp phúc thẩm là không có căn cứ pháp luật nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Về kháng cáo đề nghị các bị cáo khác liên đới bồi thường; đề nghị UBCKNN, Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán Việt Nam (VSDC) là người có QLNVLQ trong vụ án; Yêu cầu UBCKNN thông qua VSDC và các công ty Chứng khoán thành viên (nơi các nhà đầu tư đăng ký giao dịch) để chốt danh sách thực hiện yêu cầu bồi thường cho tất cả các nhà đầu tư hiện còn đang giữ ROS như thông lệ chốt danh sách thực hiện các quyền khác hiện nay; Buộc các bị cáo (kể cả các bị cáo là cán bộ Sở giao dịch chứng khoán) liên đới bồi thường thiệt hại cho tất cả nhà đầu tư, yêu cầu các bên liên quan đã giúp sức trong vụ niêm phong cổ phiếu liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Ngoại trừ Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, các bị cáo đồng phạm và các bị cáo khác trong vụ án thuộc UBCKNN, Trung tâm lưu ký chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán không được hưởng lợi. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo về nội dung này.

Đối với yêu cầu điều chỉnh mức bồi thường của nhóm phụ lục 3.1 cho phù hợp với mức bồi thường của nhóm phụ lục 1 (7.215 đồng/cổ phiếu) và yêu cầu bồi thường phải trả bằng giá thời điểm nhà đầu tư mua cổ phiếu để đảm bảo công bằng cho các nhà đầu tư.

Xét thấy: các bị cáo phải bồi thường cho nhà đầu tư giá trị bị nâng không trên mỗi cổ phiếu, tương ứng với khối lượng cổ phiếu đang sở hữu. Phần giá trị khác ảnh hưởng đến giả cổ phiếu nhà đầu tư đã mua, nằm ngoài phần giá trị bị nâng không là do thị trường và các yếu tố chủ quan, khách quan khác nên không buộc các bị cáo phải bồi thường. Do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo về nội dung này.

Về yêu cầu có biện pháp để được đảm bảo việc thi hành án. Do không thuộc phạm vi xét xử của cấp phúc thẩm nên không xem xét, bị hại và người liên quan trong giai đoạn thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Do đó, không có sơ sở chấp nhận kháng cáo về nội dung này.

Từ những phân tích như trên, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; chấp nhận kháng cáo của những bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trịnh Văn Q1 và bị cáo Trịnh Thị Minh H2. Không chấp nhận các nội dung khảng cáo khác của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Người bào chữa cho bị cáo Trịnh Văn Q1 trình bày:

Các Luật sư Nguyễn Trọng N94, Nguyễn Danh H92, Phạm Đức G93, Nguyễn Tiến Q96: Đề nghị đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" tuyên xử phạt bị cáo với mức hình phạt tù có thời hạn đúng bằng với khoảng thời gian bị cáo đã bị tạm giam và đối với tội “Thao túng thị trường chứng khoán" xem xét quyết định cho bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 vì lý do có sự thay đổi chính sách pháp luật và bị cáo bị mắc bệnh hiểm nghèo. Trong trường hợp vẫn quyết định áp dụng biện pháp xử lý hình sự đối với bị cáo thì quyết định tuyên xử phạt tiền với mức phạt tiền theo quy định tại Điều 211 Bộ luật Hình sự năm 2015. Trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa. Gỡ bỏ phong tỏa, kê biên các tài khoản, các tài sản. Đề nghị áp dụng hình phạt tiền cho các bị cáo khác phạm tội "Thao túng thị trường chứng khoán" theo nguyện vọng của bị cáo Quyết.

Người bào chữa cho bị cáo Trịnh Thị Minh H2 trình bày:

Luật sư Giang Hồng T97: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng hình phạt tiền là hình phạt đối với tội "Thao túng thị trường chứng khoản", áp dụng Nghị quyết 03/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, xử phạt bị cáo mức hình phạt bằng thời hạn tạm giam đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Dỡ bỏ các lệnh kê biên đối với 04 tải sản của vợ chồng bị cáo.

Người bảo chữa cho các bị cáo Trịnh Văn Đ78, Trịnh Thị Thúy N7, Nguyễn Văn M8, Nguyễn Thị Hạ D228 và Hoàng Thị Thu H179 trình bày:

Luật sư Nguyễn Thị T104: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét có thể miền TNHS đối với các bị cáo phạm tội “Thao túng thị trường chứng khoán". Trong trường hợp vẫn quyết định áp dụng biện pháp xử lý hình sự đối với các bị cáo thì quyết định tuyên xử phạt tiền. Bị cáo Nga không được hưởng lợi bất chính, không giúp sức tích cực cho bị cân Quyết, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại vị trí, vai trò của bị cáo Nga trong vụ án. Đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" đề nghị Hội đồng xét xửgiảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo hơn nữa so với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, tuyên phạt các bị cáo Trịnh Thị Thúy N7, Nguyễn Thị Hạ D228 bằng thời hạn tạm giam, tuyên phạt các bị cáo Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Hoàng Thị Thu H179 dưới 36 tháng tù và cho các bị cáo được hưởng án treo. Dỡ bỏ các biện pháp kê biên.

Người bào chữa cho các bị cáo Trịnh Thị Thúy N7, Nguyễn Văn M8 trình bày:

Luật sư Trần Hồng P113 bào chữa cho bị cáo Trịnh Thị Thúy N7: Bị cáo đã rút kháng cáo về TNDS, Bị cáo xin được áp dụng hình phạt tiền thay cho hình phạt từ đối với tội "Thao túng thị trường chứng khoán", xin được đổi trừ với số tiên bị cáo đã nộp tiền khắc phục thìa, đủ điều kiện thi hành án phạt tiền và cho bị cáo hưởng mức hình phạt bằng thời hạn tạm giam đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", dỡ bỏ phong tỏa tài sản, tải khoản. Bị cáo vai trò thứ yếu, không được hưởng lợi gì, hậu quả của vụ án đã được khắc phục. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Luật sư Ngô Thị Thu H114 bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn M8: Nhất tríquan điểm của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt 02 tỷ đồng đối với tội "Thao túng thị trường chứng khoán". Tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", đề nghị Hội đồng xét xửcho bị cáo được hưởng án treo, dỡ bỏ các lệnh kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản.

Người bào chữa cho bị cáo Đàm Mai H100 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo, bị cáo đã tạm giam 16 tháng 19 ngày, đề nghị xử phạt bị cáo bằng thời hạn tạm giam.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T101 trình bày:

Luật sư Công Văn T103: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo bằng thời hạn tạm giam.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Bình P45 trình bày: Bị cáo sở hữu 30.000 cổ phần Công ty F trị giá 300 triệu đồng, án sơ thẩm tính toán nhầm là 03 tỷ đồng, gây bất lợi cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo hơn nữa so với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và cho bị cáo được hưởng án treo.

Người bào chữa cho bị cáo Chu Tiến V107 trình bày: Đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo. Để nghị Hội đồng xét xử xử phạt tiền đối với bị cáo Chu Tiến V107.

Người bào chữa cho các bị cáo Trần Đắc S51 và Trầm Tuấn V108 trình bày:

Luật sư Nguyễn Thị Y109 bào chữa cho bị cáo Trầm Tuấn V108: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Trầm Tuấn V108 bằng thời hạn tạm giam theo thời gian dự kiển tuyên án của vụ án là ngày 21/6/2025.

Luật sư Lê Thị T110 bảo chữa cho bị cáo Trần Đắc S51: Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng thêm các tỉnh tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ hình phạt hơn nữa cho bị cáo so với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Người bảo chữa cho các bị cáo Hương Trần Kiều D9 và Nguyễn Thanh B24 trình bày:

Luật sư Chu Thị Trang V138: Thời điểm bị cáo D9 thực hiện hành vi, bị cáo có vai trò hạn chế, không có vai trò, vị trí cao như thời điểm bị cáo bị bắt. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo tự nguyện khắc phục 300 triệu đồng. Đề nghị áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm 1 khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, kết luận điều tra đã ghi nhận tỉnh tiết này cho bị cáo nhưng chưa được Tòa sơ thẩm áp dụng. Gia đình bị cáo cũng đã có xuất trình tài liệu chứng minh khả năng thi hành hình phạt tiền. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Dung bằng thời hạn tạm giam đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Bị cáo Bình chưa được Tòa sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo tự nguyện khắc phục 700 triệu đồng. Bị cáo B24 có số tiền tự nguyện khắc phục hậu quả cao nhất so với các bị cáo không bị tuyên phạt về trách nhiệm dân sự. Bố bị cáo bị tai biến, nhập viện, tiên lượng xấu. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Bình Người bào chữa cho bị cáo Trần Thị H111 trình bày: Bị cáo có vai trò thứ yếu, không được hưởng lợi gì. Bị cáo có Báo cáo kiểm toán nêu bật về khả năng tài chính của Công ty F. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo 20-30 tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn T120 trình bày:

Luật sư Trần Văn N122: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án bằng thời hạn tạm giam.

Người bào chữa cho bị cáo Trần Thế A117 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo. Bị cáo đã nộp 1,3 tỷ đồng tại cấp phúc thẩm để khắc phục hậu quả của vụ án, nếu đã khắc phục đủ thì bị cáo mong muốn được sung công quỹ Nhà nước. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo bằng thời gian tạm giam, trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.

Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Quỳnh A12, Nguyễn Thị Thị T169, Nguyễn Thị Thanh P124, Bùi Ngọc T125, Quách Thị Xuân T134, Trần Thị L140 trình bày:

Luật sư Hoàng Trọng G126 bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Quỳnh A12, Nguyễn Thị Thị T169, Nguyễn Thị Thanh P124, Bùi Ngọc T125: Tôi đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt tiền đối với các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự, đề nghị phạt tiền các bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 211 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Quỳnh A12 có hoàn cảnh đặc biệt, 1 mình bị cáo nuôi 2 con nhỏ, bố mẹ giả. Đề nghị Hội đồng xét xử gồ bỏ phong tỏa các tài khoản chứng khoán, tài khoản ngân hàng cho bị cáo Quỳnh Anh.

Luật sư Hải: Bị cáo Bùi Ngọc T125 xuất trình các giấy khen từ cấp 1 đến cấp 3, đề nghị áp dụng điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

Luật sư Võ Xuân Đ135 bào chữa cho bị cáo Quách Thị Xuân T134: Đề nghị áp dụng cho bị cáo các tỉnh tiết giảm nhẹ mới như đại diện Viện kiểm sát đã công bố và áp dụng thêm cho bị cáo tỉnh tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Không áp dụng tỉnh tiết tăng nặng phạm tội 2 lần trở lên đối với bị cáo. Áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Luật sư Nguyễn Thị T142 bảo chữa cho bị cáo Trần Thị L140: Đề nghị cho bị cáo được hưởng hình phạt tiền thay cho hình phạt tù.

Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Quang L128 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đưới mức thấp nhất của khung hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo.

Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Như T131 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo dưới mức đại diện Viện kiểm sát đề xuất, cho bị cáo được hưởng án treo.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Thành V27 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo bằng thời hạn tạm giam.

Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Ngọc T145, Nguyễn Thiện P74, Trịnh T86, Nguyễn Tiến D30, Lê Tân S33, Đặng Thị H36, Lê Văn S39, Trương Văn T42, Nguyễn Minh Đ48, Trịnh Thị Út X59, Phạm Thanh H62 và Phạm Thị H193 N65 trình bày: Các bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo bằng thời hạn tạm giam. Các bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên hình phạt đối với các bị cáo.

Người bảo chữa cho bị cáo Lê Hải T53 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xửxử phạt bị cáo bằng thời hạn tạm giam.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các Luật sư và của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

Về các quyết định tố tụng và hành vi tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an và các Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyên, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Kháng cáo của 25 bị cáo, các bị hại và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Ngoài ra, sau khi hết thời hạn kháng cáo cũng như đã thực hiện xong các thủ tục xét kháng cáo quá hạn thì trong quá trình xét xử phúc thẩm vụ án, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội vẫn nhận được nhiều đơn của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nội dung tương tự như nội dung kháng cáo của những người đã kháng cáo hợp lệ trong vụ án. Các đơn này không phải là đơn kháng cáo hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên không xem xét trong vụ ăn này.

[2]. Về nội dung:

[1]. Về tội danh đổi với các bị cáo:

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, về cơ bản phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; sao kê dữ liệu điện tử, tài liệu do các cơ quan hữu quan cung cấp, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

[1.1]. Hành vi phạm tội "Lửa đảo chiếm đoạt tài sản” và các hành vi phạm tội khác xảy ra tại Công ty FR và các đơn vị liên quan:

Với mục đích chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư để sử dụng vào mục đích kinh doanh theo ý riêng của mình; Trịnh Văn Q1 đã sử dụng Công ty F làm công cụ, chỉ đạo Doãn Văn P166 và Trịnh Thị Minh H2 thực hiện hành vi gian đối tăng khống vốn góp chủ sở hữu tại Công ty F từ 1,5 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng sau đó hoàn thiện các thủ tục để niêm yết cổ phiếu tương ứng với giá trị vốn góp khống của Công ty F trên sân chứng khoản, sử dụng sàn HOSE làm công cụ, phương tiện bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Để chiếm đoạt được tiền, Trịnh Văn Q1 giao Đoản Văn Phương và Trịnh Thị Minh H2 trực tiếp chỉ đạo và điều hành toàn bộ hoạt động để hợp thức hồ sơ nâng vốn khống; trực tiếp nhờ một số cả nhân đứng tên là cổ đông nhận chuyển nhượng cổ phần của Công ty F, gồm: Trần Thế A117, Lê Thành V192, Hương Trần Kiều D9, Nguyễn Thiện P146, Đặng Thị H36, Nguyễn Văn T101. Các bị cáo thuộc Công ty F, Công ty kiểm toán, người thân quen của Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2... đã thực hiện chỉ đạo của Doãn Văn P166 và Trịnh Thị Minh H2 ký hợp thức các thủ tục nâng khống vốn góp và hợp thức sử dụng vốn góp khống, ghi nhận thông tin gian dối này vào Báo cáo tài chính kiểm toán, Bản cảo bạch để hoàn thiện hồ sơ niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn chứng khoán. Các bị cáo thuộc Vụ Giám sát công ty đại chúng UBCKNN, VSD và sàn HOSE đã sử dụng những thông tin gian đổi trên Báo cáo tài chính kiểm toán và hồ sơ tài liệu của Công ty F cung cấp để chấp thuận công ty đại chúng, đăng ký chứng khoán và niêm yết 430 triệu cổ phiếu ROS trên sàn HOSE. Với động cơ, mục đích, thủ đoạn nêu trên, Trịnh Văn Q1 đã sử dụng sàn HOSE làm phương tiện để bán 391.155.480 cổ phiếu hình thành từ vốn góp năng khống cho 25.853 nhà đầu tư trên sàn chứng khoán, chiếm đoạt 3.621.082.083.518 đồng. Để xảy ra hậu quả trên, có sự tham gia giúp sức của các bị cáo khác trong vụ án vào quá trình nâng khống vốn góp, uỷ thác đầu tư, nhận uỷ thác đầu tư, hợp thức dòng tiền từ vốn góp khống, xác định vốn góp khống; chấp thuận niêm yết cổ phiếu để tạo điều kiện giúp Trịnh Văn Q1 và đồng phạm bản cổ phiếu được hình thành từ vốn góp chủ sở hữu khống, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Cụ thể:

- Các bị cáo gồm: Trịnh Thị Thúy N7, Hương Trần Kiều D9, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228, Đỗ Như T131, Đỗ Quang L128, Nguyễn Văn T101, Đàm Mai H100, Nguyễn Bình P45, Hoàng Thị Thu H179, Nguyễn Tiến D30, Lê Thành V192, Nguyễn Thanh B24, Lê Tân S33, Trần Thế A117, Đặng Thị H36, Lê Vân S731, Trương Văn Tải, Nguyễn Minh Đ48, Trịnh Thị Út X59, Phạm Thanh H62, Phạm Thị H193 N65, Nguyễn Thiện P74 đã giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 kỷ thủ tục hợp thức hồ sơ năng khống vốn góp của Công ty FR thuộc HĐQT, Ban Tổng Giám đốc, Kế Toán, nhân viên Công ty FR; Các bị cáo là những người thân, quen, nhân viên thuộc T, công ty con, công ty liên kết của T biết rõ các cổ đông Công ty F không góp vốn như cam kết, nhưng vẫn ký các thủ tục (nghị quyết tăng vốn, ủy thác đầu tư, chứng từ chuyển tiền; hợp đồng chuyển nhượng/nhận chuyển nhượng cổ phần; hợp đồng ủy thác đầu tư...) giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 và các bị cáo khác hợp thức việc góp vốn, sử dụng vốn góp, tạo dòng tiền để ghi nhận tăng vốn góp chủ sở hữu từ 1,5 tỷ đồng lên thành 4.300 tỷ đồng trong số sách kế toán và Báo cáo tài chính của Công ty FR trái pháp luật, giúp Trịnh Văn Q1 và đồng phạm hoàn thiện thủ tục niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn chứng khoán, bán cổ phiếu cho 25.853 nhà đầu tư chiếm đoạt 3.621.082.083.518 đồng.

- Các bị cáo Nguyễn Ngọc T145, Lê Văn T120 (thuộc Công ty TNHH Kế toán và Kiểm toán Hà Nội) và bị cáo Trần Thị H111 (thuộc Công ty TNHH Kiểm toán ASC) biết rõ thủ tục kiểm toán và các bằng chứng kiểm toán chưa đầy đủ để làm cơ sở đưa ra ý kiến chấp thuận toàn phần đối với các Báo cáo tài chính của Công ty CP F nhưng vẫn chấp thuận toàn phần Báo cáo tài chính kiểm toán trái pháp luật, giúp Trịnh Văn Q1 hoàn thiện thủ tục niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn chứng khoản, hành vi của các bị cáo này đã giúp sức, tạo điều kiện để Trịnh Văn Q1 và đồng phạm bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư chiếm đoạt 3.621.082.083.518 đồng.

- Bị cáo Lê Công Đ174 (thuộc Vụ Giám sát công ty đại chúng - UBCKNN) và các bị cáo Dương Văn T68, Phạm Trung M71 (thuộc Trung tâm lưu ký chứng khoản Việt Nam) là những người có chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn trong việc công nhận công ty đại chúng, đăng ký chứng khoản cho Công ty F. Các bị cáo này biết rõ hồ sơ đề nghị chấp thuận công ty đại chúng và đăng ký chứng khoán của Công ty F chưa đủ cơ sở xác định số vốn thực góp là 4.300 tỷ đồng nhưng vẫn đồng ý chấp thuận Công ty F là công ty đại chúng có số vốn góp là 4.300 tỷ đồng và 114 cổ đông; đăng ký cổ phiếu ROS với số lượng 430 triệu cổ phiếu, có tổng giá trị là 4.300 tỷ đồng trái pháp luật và đăng thông tin sai lệch này trên thị trường chứng khoản, sau đó số cổ phiếu đã được bán cho các nhà đầu tư trên sàn HOSE, để Trịnh Văn Q1 và đồng phạm chiếm đoạt, góp phần gây thiệt hại cho các nhà đầu tư số tiền 3,621.082.083.518 đồng.

- Các bị cáo gồm Trần Đắc S51, Lê Hải T53, Trầm Tuấn V108 và Lê Thị Tuyết H204 (thuộc Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh) là những người có chức vụ, quyền hạn trong việc chấp thuận niêm yết cổ phiếu trên sàn HOSE, biết rõ chưa đủ cơ sở xác định số vốn thực góp của Công ty F là 4.300 tỷ đồng theo các Báo cáo tài chính kiểm toán và Công văn số 4298 ngày 01/7/2016 của UBCKNN nhưng vì Trần Đắc S51 có quan hệ cá nhân với Trịnh Văn Q1 đã nhận lời làm nhanh hồ sơ niêm yết của Công ty F nên đã tác động đến các bị cáo khác là Lê Hải T53, Trầm Vũ, Lê Thị Tuyết H56 để các bị cáo này đồng ý niêm yết 430 triệu cổ phiếu ROS trên sàn HOSE trái pháp luật, góp phần gây thiệt hại cho các nhà đầu tư 3.621.082.083.518 đồng.

[1.2]. Đối với hành vi phạm tội "Thao túng thị trường chứng khoán":

Với mục đích thu lợi bất chính trên thị trường chứng khoán thông qua các cổ phiếu đã niêm yết của các Công ty trong T, Trịnh Văn Q1 chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân của 45 cá nhân là người thân, nhân viên thuộc T, gồm các bị cáo: Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh Văn N77, Nguyễn Quang T80, Trịnh Thị Thanh H83, Nguyễn Thị N15, Hoàng Thị H18, Đỗ Thị Huyền T21, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228 và các cá nhân khác để thành lập, đứng tên 20 doanh nghiệp và mở 500 tài khoản chứng khoán đứng tên các cá nhân, pháp nhân (trong đó Trịnh Văn Q1 đứng tên 23 tài khoản chứng khoản) tại 41 công ty chứng khoán và chỉ đạo Trịnh Thị Minh H2 để H2 chỉ đạo Trịnh Thị Thúy N7 cấp khống tiền cho các tài khoản do H2 quản lý, sử dụng để Trịnh Thị Minh H2 thực hiện các hành vi Thao túng thị trường chứng khoán đối với 05 mã cổ phiếu AMD, HAI, GAB, F, ART như: (1) liên tục mua bán cùng loại chứng khoán; (2) mua bán khớp nội nhóm (không dẫn đến chuyên nhượng thực sự quyền sở hữu); (3) mua bán với khối lượng lớn, chỉ phối thị trường vào thời điểm mở cửa, đóng cửa; (4) đặt lệnh mua bán sau đó hủy lệnh... nhằm tạo ra cung cầu giả tạo, Thao túng thị trường chứng khoán đối với 05 mã cổ phiếu nói trên, thu lợi bất chỉnh số tiền 723.322.534.069 đồng. Cụ thể: cổ phiếu AMD trong giai đoạn từ ngày 26/5/2017 đến ngày 13/7/2017, thu lợi bất chính 39.075.817.133 đồng, cổ phiếu HAI trong giai đoạn từ ngày 26/6/2017 đến ngày 09/02/2018, thu lợi bất chính 238.885.676.049 đồng, cổ phiếu GAB trong giai đoạn từ ngày 19/12/2019 đến ngày 27/11/2020, thu lợi bất chính 3.437.787.029 đồng, cổ phiếu F trong giai đoạn từ ngày 23/9/2020 đến ngày 10/01/2022, thu lợi bất chính 397.338.681.335 đồng, cô phiếu ART trong giai đoạn từ ngày 02/01/2021 đến ngày 11/6/2021, thu lợi bất chính 44.584.572.523 đồng. Trong đó, riêng mã chứng khoán AMD thực hiện hành vi thao túng trong giai đoạn từ ngày 26/5/2017 đến ngày 13/7/2017 thu lợi bất chính 39.075.817.133 đồng, trước thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã đề nghị Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UBCKNN) xử lý theo quy định tại Điều 29 Nghị định 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoản và thị trường chứng khoán, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2 nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm. Do đó, Trịnh Văn Q1 và đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự số tiền thu lợi bất chính của 04 mã chứng khoán HAI, GAB, ART và F là 684.246.716.936 đồng.

Để Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thúy N7 Thao túng thị trường chứng khoán, thu lợi bất chính hơn 684 tỷ đồng có sự tham gia giúp sức của các bị cáo trong T trong việc ký nghị quyết, chỉ đạo cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng mua chứng khoán không có tài sản đảm bảo (cấp khống tiền) trái pháp luật; các bị cáo cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân để thành lập công ty, mở các tải khoản chứng khoản để Thao túng thị trường chứng khoán, giúp Trịnh Văn Q1 thu lợi bất chính trên sản chứng khoán, cụ thể:

- Các bị cáo Hương Trần Kiều D9, Chu Tiến V107 (thuộc HĐQT) và Nguyễn Quỳnh A12 (Tổng Giám đốc Công ty B) biết rõ việc Trịnh Thị Thúy N7 cấp không sức mua cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý sử dụng là trái pháp luật, đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng không chấm dứt mà vẫn tham mưu, đề xuất, chấp thuận cho Trịnh Thị Thúy N7 được cấp khống tiền cho các tài khoản H2 sử dụng Thao từng thị trường chứng khoán trái pháp luật, từ đó giúp Trịnh Văn Q1 thu lợi bất chính với số tiền đặc biệt lớn.

- Các bị cáo, gồm: Nguyễn Thị Thanh P124, Nguyễn Thị Thị T169 và Bùi Ngọc T232 (thuộc Phòng Dịch vụ chứng khoán) và 02 bị cáo, gồm: Quách Thị Xuân T134 và Trần Thị L140 (thuộc Phòng kế toán Công ty B) biết rõ Trịnh Thị Thúy N7 cấp không tiên cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý sử dụng là trái pháp luật nhưng vẫn cấp khống tiền cho các tài khoản do Trịnh Thị Thúy N7 chỉ định để Trịnh Thị Minh H2 Thao túng thị trường chứng khoán và thanh toán bù trừ cho những tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 mua chứng khoản thiếu tiền trái pháp luật, giúp Trịnh Văn Q1 thu lợi bất chính với số tiền đặc biệt lớn.

- Các bị cáo, gồm: Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh Văn N77, Nguyễn Quang T80, Nguyễn Thị Hạ D228, Trịnh Thị Thanh H83, Trịnh T86, Nguyễn Thị N15, Hoàng Thị H18 và Đỗ Thị Huyền T21 là người thân, quen, nhân viên của Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thủy N202 đã cho Trịnh Thị Minh H2 mượn giấy tờ cá nhân để thành lập công ty, mở các tài khoản chúng khoản, ký chứng từ chuyển tiền, rút tiền từ những tài khoản chứng khoán do H2 sử dụng Thao túng thị trường chứng khoán, giúp Trịnh Văn Q1 thu lợi bất chính với số tiền đặc biệt lớn.

* Hành vi phạm tội của từng bị cáo cụ thể như sau:

(1). Trịnh Văn Q1 với vai trò là người đứng đầu, quyết định, chỉ đạo thực hiện mua Công ty F; quyết định, chỉ đạo góp vốn không, sử dụng vốn góp không để hợp thức việc nâng khống, sử dụng vốn góp khống của Công ty F từ 1,5 tỷ đồng lên thành 4.300 tỷ đồng, đăng ký công ty đại chúng, đăng ký chứng khoản và niêm yết cổ phiếu trên sàn HOSE, bán 391.155.480 cổ phiếu ROS hình thành từ vốn góp nâng không cho 25.853 nhà đầu tư, chiếm đoạt 3.621.082.083.518 đồng. Chỉ đạo thực hiện mở, quản lý, sử dụng các tài khoản chứng khoán, quyết định, chỉ đạo việc cấp khống tiền cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý sử dụng để thao túng 05 mã chứng khoản thu lợi bất chính 723.322.534.069 đồng, trong đó phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 04 mã chứng khoán, gồm: HAI, GAB, ART và F với số tiền thu lợi bất chính là 684.246.716.936 đồng.

(2). Trịnh Thị Minh H2: Là người thực hành, giúp sức cho Trịnh Văn Q1 thực hiện hành vi phạm tội. Cụ thể: Trực tiếp tiếp nhận chỉ đạo của Trịnh Văn Q1 để thực hiện hoặc chỉ đạo lại các bị cáo khác thực hiện việc nâng không vốn góp của Công ty F từ 1,5 tỷ đồng lên thành 4.300 tỷ đồng, giúp Trịnh Văn Q1 niềm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bản cổ phiếu chiếm đoạt 3.621.082.083.518 đồng của 25.853 nhà đầu tư trên sàn chứng khoán; Trực tiếp tiếp nhận chỉ đạo của Trịnh Văn Q1 để thực hiện mua bán cổ phiếu; hoặc chỉ đạo lại các bị cáo khác mở tài khoản, kỹ các thủ tục chuyển tiền để thực hiện Thao túng thị trường chứng khoán, giúp Trịnh Văn Q1 thu lợi bất chỉnh 04 mã cổ phiếu HAI, GAB, ART và F số tiền 684.256.716.936 đồng.

(3). Trịnh Thị Thúy N7: Giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 kỷ hợp đồng nhận ủy thác đầu tư để hợp thức việc nâng khống vốn góp của Công ty F, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán; Tham gia chỉ đạo việc cấp không tiền cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng để Thao túng thị trường chứng khoán tại Công B, giúp Trịnh Văn Q1 thu lợi bất chính 04 mã cổ phiếu HAI, GAB, ART và F số tiến 684.246.716.936 đồng.

(4). Hương Trần Kiều D9: Giúp Trịnh Văn Q1 đứng tên là cổ đông góp vốn, nhận ủy thác đầu tư với số tiền đặc biệt lớn để hợp thức việc nâng không vẫn góp của Công ty F, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sân chứng khoán; Tham gia ký nghị quyết cho phép Trịnh Thị Thúy N7 cấp khống tiền cho các tài khoản do Trịnh Thị Mình H203 quản lý, sử dụng để Thao từng thị trường chứng khoán, giúp Trịnh Vẫn Quyết thu lợi bất chính 3 mã cổ phiếu GAB, ART và F số tiền 445.361.040.887 đồng.

(5). Trịnh Văn Đ78: Tham gia giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 ký các thủ tục năng khống vốn góp, đứng tên cổ đông, nhận ủy thác đầu tư với số tiền đặc biệt lớn để hợp thức việc nâng không vốn góp tại Công ty FR, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, bán cổ phiều chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán; Giúp Trịnh Thị Minh H2 đứng tên thành lập các công ty để mở tài khoản chứng khoán; giao tài khoản cho H2 quản lý, sử dụng để Thao túng thị trường chứng khoán, giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng.

(6). Nguyễn Văn M8: Tham gia giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 đứng tên là cổ đông góp vốn, nhận ủy thác đầu tư với số tiền đặc biệt lớn để hợp thức năng vốn góp khống tại Công ty FR từ 1,5 tỷ đồng lên thành 4.300 tỷ đồng, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán; Giúp Trịnh Thị Minh H2 đứng tên thành lập các công ty để mở tài khoản chứng khoán, giao tài khoản cho H2 quản lý, sử dụng để Thao túng thị trường chứng khoán, giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 thao từng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng.

(7). Trịnh T86: Tham gia giúp Trịnh Thị Minh H2 đứng tên là cổ đông góp vốn, nhận ủy thác đầu tư, hợp thức năng khống vốn góp tại Công ty F, giúp Trịnh Văn Q1 Trịnh Thị Minh H2 niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, bản cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán. Tham gia tích cực, giúp Trịnh Thị Minh H2 đứng tên thành lập các công ty để mở tài khoản chứng khoán; giao tài khoản cho H2 quản lý, sử dụng để Thao túng thị trường chứng khoán, giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chỉnh 684.246.716.936 đồng.

(8). Nguyễn Thị Hạ D228: Giúp Trịnh Thị Minh H2 nhận ủy thác đầu tư để hợp thức nâng vốn không tại Công ty FR, giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Mình H203 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bản cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán; Giúp Trịnh Thị Minh H2 mở các tài khoản chúng khoán; giao tài khoản chứng khoán cho H2 giao tài khoản cho H2 quản lý, sử dụng để Thao túng thị trường chứng khoán, giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng.

Bị cáo Trịnh Văn Q1 vai trò là người đứng đầu, tổ chức, các bị cáo Trịnh Thị Minh H2 là người thực hành tích cực; các bị cáo Trịnh Thị Thuý N167, Hương Trần Kiều D9, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228 là những người đồng phạm thực hành, giúp sức tích cực cho Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 thực hiện tội phạm.

Các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thuỷ N236, Hương Trần Kiều D9, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228 có hành vi vi phạm vào khoản 4 Điều 174; khoản 2 Điều 211 Bộ luật Hình sự năm 2015. Trong đó bị cáo Trịnh Văn Q1 là chủ mưu, tổ chức, các bị cáo Trịnh Thị Minh H2 là người thực hành tích cực; các bị cáo Trịnh Thị Thuý N167, Hương Trân Kiều Dung, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228 là những người đồng phạm thực hành, giúp sức cho Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 thực hiện tội phạm (9). Đỗ Như T131: Tham gia giúp Trịnh Văn Q1 ký các chứng từ ủy thác đầu tư với số tiền đặc biệt lớn để hợp thức hợp thức nâng khống vốn góp tại Công ty F giúp Quyết đứng tên là cổ đông góp vốn giúp Trịnh Văn Q1 Trịnh Thị Minh H2 niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(10). Nguyễn Văn T101: Giúp Trịnh Văn Q1 đứng tên là cổ đông góp vốn để hợp thức nâng khống vốn góp; ký bản cáo bạch để hợp thức hồ sơ niêm yết cổ phiếu ROS, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(11). Đàm Mai H100: Ký các Báo cáo tài chính, Bảng cân đối kế toán, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh bảo tài chính, Báo cáo tài chính hợp nhất; ký Bản cáo bạch giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bản cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(12). Nguyễn Thiện P74: Giúp Trịnh Văn Q1 đứng tên là cổ đông góp vốn; kỷ các hợp đồng ủy thác đầu tư, hợp đồng hợp tác kinh doanh, chứng từ chuyển tiền để hợp thức năng khống vốn góp tại Công ty F, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sân HOSE, bản cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán.

(13). Lê Thành V192: Giúp Trịnh Văn Q1 đứng tên là cổ đông góp vốn để hợp thức năng khống vốn góp; ký các thủ tục để che giấu sau khi tăng vốn góp không, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(14). Đỗ Quang L128: Giúp Trịnh Văn Q1 ký nghị quyết tăng vốn, ký hợp đồng ủy thác đầu tư, đứng tên cô đồng góp vốn, hợp thức nâng không vốn góp tại Công ty F, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sân chứng khoán, (15). Nguyễn Tiến D30: Giúp Trịnh Văn Q1 ký hợp đồng ủy thác đầu tư, đứng tên cổ đông hợp thức năng không vốn góp tại Công ty F, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sân chứng khoán.

(16). Nguyễn Bình P45: Giúp Trịnh Văn Q1 đứng tên là cổ đông góp vốn, ký hợp đồng hợp tác đầu tư hợp thức việc tăng vốn góp không, nhận ủy thác đầu tư hợp thức năng khống vốn góp tại Công ty F, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán.

(17). Nguyễn Thanh B24: Giúp Trịnh Văn Q1 đứng tên cổ đông; ký biên bản, Nghị quyết thông qua chủ trương chuyển nhượng 80.000.000 cổ phần của các cổ đông Công ty RTS hợp thức năng không vốn góp tại Công ty F, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(18). Hoàng Thị Thu H179: Giúp Trịnh Văn Q1/ Trịnh Thị Minh H2 giữ chức vụ là Thành viên HĐQT Công ty F ký thủ tục tăng vốn, đứng tên cổ đông, nhận ủy thác đầu tư hợp thức nâng khống vốn góp tại Công ty F, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(19). Trần Thế A117: Giúp Trịnh Văn Q1 đứng tên là cổ đồng góp vốn để hợp thức hồ sơ niêm yết cổ phiếu trên sản chứng khoán, sau khi tăng vốn không tiếp tục ký Hợp đồng giấy chuyển tiền để che giấu số vốn góp khống, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(20). Lê Tân S33: Giúp Trịnh Văn Q1 đứng tên là cổ đông góp vốn, nhận ủy thác đầu tư để năng khống vốn góp, sau khi Công ty F nâng vốn khống, Sơn tiếp tục ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền năng vốn khổng, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán.

(21). Đặng Thị H36: Giúp Trịnh Văn Q1 đứng tên là cổ đông góp vốn, nhận ủy thác đầu tư để hợp thức việc tăng vốn góp không, sau khi tăng vốn khống tiếp tục ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền nâng vốn khống, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán.

(22), Lê Văn S39: Giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 đứng tên là cổ đồng góp vốn để hợp thức việc tăng vốn góp khống; sau khi tăng vốn không tiếp tục ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền năng vốn khống, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(23). Trương Văn T42: Giúp Trịnh Văn Q1 đứng tên là cổ đông góp vốn để hợp thức việc tăng vốn góp khống, để Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(24). Nguyễn Minh Đ48: Giúp Trịnh Văn Q1 Trịnh Thị Thúy N7 nhận ủy thác đầu tư để hợp thức việc nâng khống vốn góp, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán.

(25). Phạm Thanh H62: Thông qua Nguyễn Thanh B24 là lãnh đạo Công ty F, Hương đã giúp Trịnh Văn Q1 đứng tên cổ đồng góp vốn để hợp thức việc tăng vốn góp không, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(26). Phạm Thị H193 N65: Giúp Trịnh Văn Q1 Trịnh Thị Minh H2 đứng tên là cổ đông góp vốn, ký hợp đồng nhận ủy thác đầu tư để hợp thức việc tăng vốn góp khống, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bản cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sản chứng khoán.

(27). Trịnh Thị Út X59: Giúp Trịnh Văn Q1 Trịnh Thị Minh H2 đứng tên là cổ đông góp vốn, ký hợp đồng hợp tác đầu tưhợp thức việc tăng vốn góp không; ký chứng tử quay vòng dòng tiền nâng khống vốn góp, sau khi tăng vốn không tiếp tục ký hợp đồng nhận uỷ thác đầu tư để che giấu dòng tiền năng vốn khống, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(28). Nguyễn Ngọc T173 và (29) Lê Văn T120: đã ký Báo cáo tài chính kiểm toán số 122 ngày 31/65/2016; Báo cáo tài chính kiểm toán số 123 ngày 31/5/2016 và Báo cáo tài chính kiểm toán số 120 ngày 30/5/2016 của Công ty F trái pháp luật, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sản HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

(30). Trần Thị H111: Ký Báo cáo tài chính kiểm toán riêng số 345 và Báo cáo tài chính kiểm toán hợp nhất số 346 ngày 18/8/2016; Báo cáo tài chính số 283 ngày 23/7/2016 của Công ty F trái pháp luật, giúp Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư trên sân chứng khoán.

Các bị cáo: Đỗ Như T131, Nguyễn Văn T101, Đàm Mai H100, Nguyễn Thiện P74, Lê Thành V192, Đỗ Quang L128, Nguyễn Tiến D30, Nguyễn Bình P45, Nguyễn Thanh B24, Hoàng Thị Thu H179, Trần Thế A117, Lê Tân S33, Đặng Thị H36, Lê Văn S39, Trương Văn T42, Nguyễn Minh Đ48, Phạm Thanh H62, Phạm Thị H193 N65, Trịnh Thị Út X59, Nguyễn Ngọc T145, Lê Văn T120, Trần Thị H111 có hành vi vi phạm khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2.

(31). Chu Tiến V107: Đồng ý để cho Trịnh Thị Thủy N202 cho các tài khoản do. Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng mua chứng khoán không có tài sản đảm báo trái pháp luật, giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Thúy N7 thao túng 03 mã cô phiếu F, GAB, ART, thu lợi bất chính 445.361.040.887đồng.

(32). Nguyễn Quỳnh A12: Đã đề xuất để HĐQT ủy quyền cho Trịnh Thị Thủy N202 cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng mua chứng khoán không có tài sản đảm bảo trái pháp luật; ký các chứng từ kế toán, báo cáo tài chính, hạch toán các khoản tiền do H2 mua chứng khoản thiếu, giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Thúy N7 thao túng 03 mã cổ phiếu F, GAB, ART, thu lợi bất chính 445.361.040.887đồng.

(33). Nguyễn Thị Thanh P124: Giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Thúy N7 cấp khống tiền cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng để thao tăng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART, thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng.

(34). Nguyễn Thị Thị T169: Giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Thúy N7 cấp khống tiền cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng để thao túng 03 mã cổ phiếu F, GAB, ART, thu lợi bất chính 445.361.040.887 đồng.

(35). Bùi Ngọc T125: Giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Thúy N7 cấp khống tiến cho các tài khoản do Trịnh Thị Minh H2 quản lý, sử dụng để thao túng 02 mà cổ phiếu F, GAB thu lợi bất chính 400.776.468.364 đồng.

(36). Trần Thị L140: Giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Thủy N202 thanh toán bù trừ khoản tiền Trịnh Thị Minh H2 mua chứng khoán thiếu trái pháp luật, giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Thúy N7 thao túng 03 mã cổ phiếu F, GAB, ART thu lợi bất chính 445.361.040.887 đồng.

118 (37). Quách Thị Xuân T134: Giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Thúy N7 thanh toán bù trừ khoản tiền Trịnh Thị Minh H2 mua chứng khoán thiếu trái pháp luật, giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Thúy N7 thao túng 01 mã cổ phiếu GAB thu lợi bất chính 3.437.787.029đồng.

(38). Hoàng Thị H18, (39). Đỗ Thị Huyền T21, (40). Nguyễn Quang T80, (41). Trịnh Thị Thanh H83: Giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 đứng tên công ty mở tài khoản chứng khoán để Trịnh Thị Minh H2 sử dụng thao túng 04 mã cổ phiếu HAI, F, GAB, ART thu lợi bất chính 684.246.716.936 đồng.

(42). Nguyễn Thị N15 và (43) Trịnh Văn N77: Giúp Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 đứng tên công ty mở tài khoản chứng khoán để Trịnh Thị Minh H2 sử dụng thao túng 03 mã cổ phiếu F, GAB, ART thu lợi bất chính 445.361.040.887đồng.

* Các bị cáo: Chu Tiến V107, Nguyễn Quỳnh A12, Nguyễn Thị Thanh P124, Bùi Ngọc T125, Nguyễn Thị Thị T169, Quách Thị Xuân T134, Trần Thị L140, Trịnh Văn N77, Trịnh Thị Thanh H83, Nguyễn Thị N15, Hoàng Thị H18, Đỗ Thị Huyền T21, Nguyễn Quang T80, có hành vi vi phạm điểm b khoản 2 Điều 211 Bộ luật Hình sự năm 2015 với vai trò đồng phạm giúp sức cho Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thuý N167.

(44). Trần Đắc S51 là người có chức vụ, quyền hạn vì động cơ cá nhân, Trần Đắc S176 đã đồng ý và chỉ đạo các bị cáo Lê Hải T53, Trầm Tuấn V108, Lê Thị Tuyết H56 chấp thuận niêm yết 430 triệu cổ phiếu ROS trên sàn HOSE trái pháp luật, để Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền, gây thiệt hại 3.621.082.083.518 đồng cho 25.853 nhà đầu tư trên sân chứng khoán.

(45). Lê Hải T53, (46). Trầm Tuấn V108 và (47). Lê Thị Tuyết H56 là những người có chức vụ, quyền hạn, theo chỉ đạo của Trần Đắc S51 các bị cáo đã đồng ý chấp thuận niêm yết 430 triệu cổ phiếu ROS trên sàn HOSE trái pháp luật, để Trịnh Văn Q1 bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền, đã gây thiệt hại cho các nhà đầu tư trên sân chứng khoán.

* Hành vi của bị cáo Trần Đắc S51, đã phạm vào khoản 3 Điều 356 Bộ luật Hình sự năm 2015; Các bị cáo Lê Hài T211, Trầm Tuấn V108 và Lê Thị Tuyết H56 là những người đồng phạm, thực hành, giúp sức cho bị cáo Trần Đắc S51 thực hiện tội phạm.

(48). Lê Công Đ174 là người có chức vụ, quyền hạn biết các Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính năm 2014, năm 2015, Báo cáo vốn góp chủ sở hữu 03 tháng đầu năm 2016 của Công ty F chưa phù hợp, có ý kiến ngoại trừ và phạm vi ngoại trừ quả lớn, không phù hợp với chuẩn mực kiểm toán, chưa bảo đảm vốn thực góp của chủ sở hữu Công ty là 4.300 tỷ đồng nhưng đã ký Công văn số 4298 ngày 01/7/2016 chấp thuận Công ty F là công ty đại chúng có vốn góp chủ sở hữu là 4.300 tỷ đồng, với 114 cổ đông trái pháp luật, đăng thông tin sai lệch này lên cổng thông tin điện tử của UBCKNN để toàn thị trường chứng khoán biết, từ đó Trịnh Văn Q1 đã làm thủ tục niêm yết, bản cổ phiếu, chiếm đoạt tiền, đã gây thiệt hại 3.621.082.083.518 đồng cho 25.853 nhà đầu tư trên sản chứng khoán.

119 (49). Dương Văn T68 và (50) Phạm Trung M175 là người có chức vụ, quyền hạn đã ký Giấy chứng nhận đăng ký chứng khoán số 86 ngày 24/8/2016, đăng ký 430 triệu cổ phiếu ROS, có tổng giá trị 4.300 tỷ đồng, nhập mã cổ phiếu ROS vào khu vực giao dịch thuộc sàn HOSE, đăng thông tin sai lệch này lên Website của VSD để Công ty F tiếp tục làm thủ tục niêm yết cổ phiếu trên sàn HOSE, từ đó Trịnh Văn Q1 niêm yết, bán cổ phiếu, chiếm đoạt tiền, đã gây thiệt hại 3.621.082.083.518 đồng cho các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán.

Các bị cáo Lê Công Đ174, Dương Văn T68 và Phạm Trung M71 đã có hành vi vi phạm vào khoản 2 Điều 209 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[2]. Đánh giá hành vi phạm tội của các bị cáo.

[2.1]. Đối với nhóm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" - Với các hành vi nêu tại mục [1.1] và [1.2] thủ các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thúy N7, Hương Trần Kiều D9, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228, Đỗ Như T131, Đỗ Quang L128, Nguyễn Văn T101, Đàm Mai H100, Nguyễn Bình P45, Hoàng Thị Thu H179, Nguyễn Tiến D30, Lê Thành V27, Nguyễn Thanh B24, Lê Tân S33, Trần Thể A229, Đặng Thị H36, Lê Văn S39, Trương Văn T42, Nguyễn Minh Đ48, Trịnh Thị Út X59, Phạm Thanh H62, Phạm Thị H193 N65, Nguyễn Thiện P146 là đặc biệt nghiêm trọng, vi phạm luật hình sự, vi phạm các khoản 4, 5 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 2015 và khoản 1 Điều 9 Luật Chứng khoán năm 2006; xâm phạm quyền sở hữu tài sản của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, các bị cáo biết rõ Công ty F không có đủ vốn điều lệ thực góp như đã ghi trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thực chất các cổ đông Công ty F không góp vốn, các cá nhân không nhận tiền vay của Công ty F nhưng đã cùng nhau thực hiện các hành vi gian dối để nâng khống vốn điều lệ Công ty F từ 1.197.511.082.182 đồng lên 4.300 tỷ đồng vốn góp chủ sở hữu, sau đó phát hành 430 triệu cổ phiếu tương đương 4.300 tỷ đồng, đăng ký niêm yết số cổ phiều này trên sàn HOSE lừa dối các nhà đầu tư trên sân chứng khoán, để các nhà đầu tư lầm tưởng là cổ phiếu có giá trị thật như đã công bố, để Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 đã bản 391.155.480 cổ phiếu hình thành từ vốn góp nâng khống cho 25.853 nhà đầu tư trên sản chứng khoán, chiếm đoạt 3.621.082.083.518 đồng của các nhà đầu tư.

- Hành vị nêu tại mục [1.1] và [1.2] của các bị cáo Nguyễn Ngọc T173, Lê Văn T120, Trần Thị H111 là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm luật hình sự, vi phạm khoản 11 Điều 59 Luật Kiểm toán độc lập 2011 (các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm toán độc lập); vi phạm khoản 3 Điều 3. Thông tư số 202/2015/TT-BTC ngày 18/12/2015 của Bộ Tài chính, vì phạm các Chuẩn mực kiểm toán ban hành theo Thông tư 214/2012/TT-BTC ngày 06/12/2012 của Bộ Tài chính. Các bị cáo là những người có trách nhiệm kiểm toán theo đúng quy định của pháp luật trong lĩnh vực kiểm toán, nhưng đã cố ý thực hiện không đúng chức trách, nhiệm vụ của mình, giúp sức để Trịnh Văn Q1 và các đồng phạm hợp thức các chứng từ kế toán gian đỗi được ghi nhận trong các Báo cáo tài chính của Công ty F, tạo điều kiện để Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu trên sản chứng khoán chiếm đoạt 3,621.082,083,518 đồng của các bị hại. Các bị cáo Nguyễn Ngọc T769, Lê Văn T120, Trần Thị H111 đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự, với vai trò đồng phạm, giúp sức cho Trịnh Văn Q1 và các bị cáo khác trong nhóm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự, là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2.2]. Đối với nhóm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" - Với các hành vi nêu tại mục [1.1] và [1.2] thì bị cáo Trần Đắc S51, Lê Hải T53, Trầm Tuấn V108, Lê Thị Tuyết H204 là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm luật hình sự, vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật Chứng khoán năm 2006; Điều 3 Thông tư số 202/2015/TT-BTC ngày 18/12/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về niêm yết chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán; Điều 5 Quyết định số 10/QĐ-SGDHCM ngày 13/01/2014 của Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh quy định về việc ban hành quy chế niêm yết chứng khoán tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh. Các bị cáo là những người có chức trách, nhiệm vụ trong việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, nhưng đã không thực hiện đúng, đầy đủ chức trách, trách nhiệm vụ của mình trong việc thẩm định, niêm yết cổ phiếu, tạo điều kiện cho Trịnh Văn Q1 niêm yết 430 triệu cổ phiếu trên sản HOSE, bản cổ phiếu chiếm đoạt tiền, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư trên sân chứng khoán số tiền 3.621.082.083.518 đồng.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Trần Đắc S51, Lê Hải T53, Trầm Tuấn V108, Lê Thị Tuyết H56 về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ", thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 356 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2.3]. Đối với nhóm tội “Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoản" Với các hành vi nêu tại mục [1.1] và [1.2] thì bị cáo Lê Công Đ174, Dương Văn T68 và Phạm Trung M175 là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm luật hình sự, vì phạm khoản 1 Điều 9 Luật Chứng khoán năm 2006; các bị cáo đã thực hiện không đúng, không đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc kiểm tra, xác định vốn góp của Công ty F, chấp thuận công ty đại chúng, cấp mã cổ phiếu, cho hưu ký chứng khoán, tạo điều kiện để Trịnh Văn Q1 và đồng phạm công bố thông tin sai lệch về vốn góp của Công ty F là 4.300 tỷ đồng trên thị trường chứng khoán, làm chọ các nhà đầu tư lầm tưởng là Công ty F có vốn chủ hữu thật, từ đó, đã mua cổ phiếu ROS đã bị Trịnh Văn Q1 nâng khống giá trị, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán số tiền 3.621.082.083.518 đồng.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Lê Công Đ174, Dương Văn T68 và Phạm Trung M71 về tội “Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán" theo điểm c khoản 2 Điều 209 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đùng quy định của pháp luật.

[2.4]. Đối với nhóm tội “Thao túng thị trường chứng khoán" - Với các hành vi nêu tại mục [1.1] và [1.2] thì các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thúy N7, Hương Trần Kiều D9, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228, Nguyễn Quỳnh A12, Chu Tiến V107, Nguyễn Thị Thanh P124, Bùi Ngọc T125, Nguyễn Thị Thị T169, Quách Thị Xuân T134, Trần Thị L140, Trịnh Văn N77, Trịnh Thị Thanh H83, Nguyễn Thị N15, Hoàng Thị H18, Đỗ Thị Huyền T21, Nguyễn Quang T80 là rất nghiêm trọng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoản và thị trường chứng khoán, vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm khoản 4 Điều 9 Luật Chứng khoán năm 2006, khoản 3 Điều 12 Luật Chứng khoán năm 2019; vi phạm khoản 2 Điều 70 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 12/7/2022; vi phạm khoản 2 Điều 7 Thông tư 203/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015, quy định về giao dịch và thanh toán giao dịch chứng khoán; Khoản 6 Điều 16 Thông tư 121/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 của Bộ Tài chính; khoản 1 Điều 43 Thông tư 210/TT-BTC ngày 31/11/2012 của Bộ Tài chính, hướng dẫn về thành lập và hoạt động của công ty chứng khoản, tạo điều kiện để Trịnh Văn Q1 thu lợi bất chính số tiền đặc biệt lớn.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo trên về tội "Thao túng thị trường chứng khoán" thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 211 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo về hình phạt đối với các bị cáo.

[3.1]. Xét kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo:

Bị hại và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan kháng cáo được liệt kê tại các điểm 1.1; 1.2, 2.1-2.3, 8 mục III phần [B] của nội dung kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo, hội đồng xét xử thấy rằng:

Đổi với các bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản":

Bị cáo Trịnh Văn Q1 là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ đạo các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo khác là những người đồng phạm, giúp sức, trong đó: Trịnh Thị Minh H2 là người thực hành tích cực hơn các bị cáo khác; Các bị cáo Trịnh Thị Thuý N167, Hương Trần Kiều D9, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228 là những người giúp sức. Thông qua thị trường chứng khoán, các bị cáo thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ảnh hưởng xấu đến niềm tin của các nhà đầu tư và thị trường chứng khoản, gây bức xúc trong xã hội. Trách nhiệm của mỗi bị cáo được xem xét trên cơ sở vị trí, vai trò, trách nhiệm, số tiền chiếm hưởng của mỗi bị cáo khi thực hiện tội phạm.

Các bị cáo khác gồm Đỗ Như T131, Đỗ Quang L128, Nguyễn Thiện P146, Nguyễn Văn T101, Đàm Mai H100, Nguyễn Bình P45, Hoàng Thị Thu H179, Nguyễn Tiến D30, Lê Thành V27, Nguyễn Thanh B24, Lê Tân S33, Trần Thế A117, mỗi người tham gia một hoặc một vài khẩu, từng giai đoạn, có vai trò thấp hơn, nhưng đều tạo điều kiện để Trịnh Văn Q1 chiếm đoạt số tiền đặc biệt lớn của các bị hại, các bị cáo lập các hồ sơ, tài liệu để hợp thức, nâng không vốn góp để hợp thức hoá dòng tiền.

Các bị cáo Đặng Thị H36, Lê Văn S39, Trương Văn T42, Nguyễn Minh Đ48, Trịnh Thị Út X59, Phạm Thanh H62, Phạm Thị H193 N65, là những người đồng phạm giữ vai trò thấp trong nhóm các bị cáo bị truy tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, các bị cáo này chủ yếu là người thân, người quen, nhân viên các công ty trong T được H2 nhờ ký các giấy tờ để hợp thức hoá dòng tiền hoặc đứng tên các pháp nhân theo chỉ đạo của H2. Hành vi của các bị cáo đã giúp sức, tạo điều kiện cho bị cáo Trịnh Văn Q1 chiếm đoạt số tiền đặc biệt lớn của các nhà đầu tư. Trách nhiệm của mỗi bị cáo tương xứng với số tiền các bị cáo ký góp vốn không, nhận uỷ thác đầu tư khống, điều kiện, bối cảnh thực hiện các hành vi phạm tội.

Đối với các bị cáo phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" gồm các bị cáo Trần Đắc S51, Lê Hải T53, Trầm Tuấn V108 và Lê Thị Tuyết H56.

Trong đó bị cáo Trần Đắc S176 (nguyên Chủ tịch HĐQT HOSE) là người giữ vai trò cao nhất, do có quan hệ và chịu sự tác động của Trịnh Văn Q1, bị cáo Sinh đã gây ảnh hưởng với các bị cáo khác dưới quyền của mình gồm Lê Hải T53, Trầm Tuấn V108, Lê Thị Tuyết H56 để các bị cáo này đề xuất, tạo điều kiện đưa mã cổ phiếu ROS niêm yết nhanh trên sàn chứng khoán khi chưa đủ điều kiện, tạo điều kiện để Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu Công ty F trên sàn chứng khoán, bán cô phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Do đó, bị cáo Sinh phải chịu trách nhiệm cao hơn các bị cáo khác.

Các bị cáo Lê Hải T53, Trầm Tuấn V108 (nguyên Phó Tổng giám đốc HOSE) và Lê Thị Tuyết H56 (nguyên Giám đốc Phòng Quản lý và Thẩm định niêm yết HOSE) đều là thành viên Hội đồng niêm yết, biết rõ các Báo cáo kiểm toán Báo cáo tài chính của Công ty F chưa được kiểm toán chặt chẽ, còn nhiều nội dung lưu ý quá lớn, chưa đủ điều kiện để chấp thuận niêm yết trên sản chứng khoản, nhưng thực hiện theo sự chỉ đạo, tác động từ bị cáo Sĩnh chấp thuận cho niêm yết cổ phiếu mã chứng khoán ROS khi chưa đủ điều kiện, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, bị cáo Hằng là nhân viên cấp dưới, có trách nhiệm thấp hơn hai bị cáo Trả và Vũ, nên được hưởng mức hình phạt thấp hơn.

Đối với các bị cáo phạm tội “Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán" gồm các bị cáo Lê Công Đ174, Dương Văn T68, Phạm Trung M71 Các bị cáo là người chịu trách nhiệm trong việc chấp thuận công ty đại chúng, cấp mã chứng khoán, biết các báo cáo tài chính của Công ty F chưa được kiểm toán chặt chẽ, còn nhiều nội dung lưu ý quá lớn, chưa đủ điều kiện để chấp thuận là công ty đại chúng, cấp mã chứng khoán, nhưng vẫn bỏ qua, tạo điều kiện để Trịnh Văn Q1 niêm yết cổ phiếu Công ty F trên sàn chứng khoán, bán cổ phiếu chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư.

Đối với các bị cáo khác phạm tội "Thao túng thị trường chứng khoản: Là tội nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tính minh bạch trên thị trường chứng khoán, tại ra sự cung cầu giả tạo trên thị trường, gây lo lắng cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện để Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thuỷ N236 hưởng lợi bất chính số tiền đặc biệt lớn.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo: Căn cứ Điều 65, khoản 4 Điều 331 BLTTHS: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chỉ được kháng cáo đối với phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Do đó, kháng cáo về nội dung này của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu là không có căn cứ để chấp nhận.

Một số bị hại kháng cáo đề nghị tàng hình phạt đối với các bị cáo:

Như phân tích ở trên, mặc dù các bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, song do các bị cáo có nhiều tỉnh tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm; quá trình điều tra truy tố xét xử đã thành khẩn khai bảo ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, ngoại trừ bị cáo Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2 thì đa phần các bị cáo còn lại đều không được hưởng lợi; các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội do nể nang vì mối quan hệ thân quen, họ hàng, có bị cáo chịu áp lực bởi mối quan hệ cấp trên cấp dưới. Hơn nữa, trách nhiệm dân sự trong vụ án này đã được các bị cáo thực hiện xong. Những người bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo nhưng không xuất trình căn cứ mới để làm thay đổi tinh chất, nội dung của vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận khảng cáo của bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo.

[3.2] Xét kháng cáo của 25 bị cáo và kháng cáo của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo.

Các bị cáo khảng cáo được liệt kê tại phần [A]; những người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được liệt kê tại các điểm 1-3 mục 1 phần [B] của nội dung kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo, hội đồng xét xử thấy rằng:

[3.2.1]. Xét kháng cáo của 25 bị cáo:

(1). Bị cáo Trịnh Văn Q1 kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đối với tội "Thao túng thị trường chứng khoán" và giám hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", không kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự.

Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo xuất trình các tài liệu mới như sau: Bị cáo Trịnh Văn Q1 đã nộp tiền tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội để khắc phục hậu quả của vụ án, cụ thể: nộp 203 tỷ đồng tại Biên lai số 0067366 ngày 13/12/2024; nộp 150 tỷ đồng tại Biên lai số 0067461 ngày 19/12/2024, nộp 25 tỷ đồng tại Biên lai số 0068560 ngày 19/3/2025, nộp 100 tỷ đồng tại Biên lai số 0068798 ngày 11/4/2025; nộp 1.400.050.000.000 đồng tại Biên lai số 0069151 ngày 05/6/2025; Bồi thường cho các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (trực tiếp + qua Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội): 8.615.730.090 đồng. Tổng cộng bị cáo đã khắc phục hậu quả được 1.886.665.730.090 đồng để bồi thường cho các bị hại. Bị cáo được các bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo sức khỏe yếu, bị lao phổi, hen phế quản, suy thận, dị ứng thuốc lạo, viêm gan, viêm dạ dày, ruột, rối loạn tiêu hóa, rối loạn chuyển hóa lipid. Các cán bộ, công nhân viên của T, các đối tác, khách hàng, Câu lạc bộ doanh nhân Sao Đỏ, chính quyền các tỉnh Bình Định, tỉnh Thanh Hóa; xã Hồng Thủy, huyện Lệ Thủy. tỉnh Quảng Bình; xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, phường Hà Trung, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Hội doanh nhân trẻ Việt Nam; Hội nữ Doanh nhân tỉnh Thái Nguyên; Hiệp hội các tổ chức dịch vụ phát triển kinh doanh Việt Nam (VABSO) có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo (hơn 5.000 đơn).

Hội đồng xét xử thấy, bị cáo Quyết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cái, được nhiều cá nhân, tập thể đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bản thân lần đầu phạm tội, chưa có tiền án, tiền sự, Bị cáo có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác, học tập, lao động; tham gia nhiều hoạt động thiện nguyện; Gia đình có công với cách mạng; bị cáo có nhiều tỉnh tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong đó đặc biệt bị cáo đã tự nguyện khắc phục toàn bộ hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Theo quyết định của bản án sơ thẩm thì cá nhân bị cáo Trịnh Văn Q1 đã khắc phục thửa hơn 17 tỷ đồng so với phần trách nhiệm của bị cáo. Việc bị cáo tích cực khắc phục hậu quả thể hiện rõ ý thức trách nhiệm, thái độ ăn năn, góp phần giảm thiệt hại cho bị hại và mong muốn sửa chữa lỗi lầm của bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, 5 khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đối với các nhóm tội về xâm phạm quyền sở hữu, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thì việc khắc phục hậu quá đóng vai trò mấu chốt, đặc biệt để xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo. Hiện nay, hậu quả thiệt hại của vụ án này đã được khắc phục toàn bộ, các bị cáo đã hoàn thành trách nhiệm dân sự của mình và hoàn thành khoản nộp thu lợi bất chính sung công quỹ Nhà nước. Bị cáo Quyết được hơn 100 người bị hại có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt cho các bị cáo; và hơn 5.000 đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt được gửi từ những đối tác, cán bộ công nhân viên của tập đoàn F. Sức khỏc của bị cáo hiện nay rất yếu, kết quả khám bệnh của bị cáo thể hiện bị cáo có nhiều bệnh lý hô hấp, tim mạch nặng kết hợp, nguy cơ từ vong rất cao, cần theo dõi sát sao và điều trị lâu dài, bị cáo hiện đang điều trị tại Bệnh viện 19-8 Bộ Công an. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã nộp thêm 24,5 tỷ đồng để chứng minh khả năng thi hành hình phạt tiền cho tất cả các bị cáo bị xét xử về tôi Thao túng thị trường chứng khoán nêu được Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo xin được chuyển từ hình phạt tù sang hình phạt tiền.

Từ những tỉnh tiết mới như trên, HĐXX thấy có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo về tội “La đảo chiếm đoạt tài sản", phạt tiền tội "Thao túng thị trường chứng khoán" cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục riêng đối với bị cảo, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật đối với những người phạm tội.

Về biện pháp tư pháp: Do gia đình bị cáo đã nộp đầy đủ các khoản phải thi hành ăn, án phí, trách nhiệm dân sự nên cần chấp nhận kháng cáo hủy bỏ các lệnh kê biên, phong tỏa và trả lại tài sản cho bị cáo.

(2). Bị cáo Trịnh Thị Minh H2 kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đổi với tội "Thao túng thị trường chứng khoán" và giảm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", không kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo Trịnh Thị Minh H2 xuất trình tài liệu đã khắc phục hậu quả, nộp tiền tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, cụ thể: nộp 01 tỷ đồng tại Biên lai số 0067477 ngày 20/12/2024; nộp 03 tỷ đồng tại Biên lai số 0067525 ngày 25/12/2024, nộp 88 tỷ đồng tại Biên lai số 0068313 ngày 28/02/2025, nộp 40 tỷ đồng tại Biên lai số 0068427 ngày 10/3/2025, nộp 100 tỷ đồng tại Biên lai số 0068485 ngày 17/3/2025; nộp 22 tỷ đồng tại Biên lai số 0068557 ngày 125 19/3/2025. Tổng bị cáo đã khắc phục hậu quả 254 tỷ đồng. Bị cáo khắc phục thừa gần 02 tỷ đồng so với phần trách nhiệm của bị cáo. Các bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo đã nộp toàn bộ án phí sơ thâm. Đây là những tình tiết mới quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS và bị cáo có đủ điều kiện thi hành hình phạt tiền, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo giảm một phần hình phạt cho bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phạt tiền tội Thao túng thị trường chứng khoán.

(3). Bị cáo Trịnh Thị Thúy N7 kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đổi với tội "Thao túng thị trường chứng khoán" và giảm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", không kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự.

Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo Trịnh Thị Thúy N7 xuất trình tài liệu đã khắc phục hậu quả của vụ án, nộp 3,9 tỷ đồng tại Biên lai số 0067514 ngày 24/12/2024, nộp 30 tỷ đồng tại Biên lai số 0068130 ngày 19/02/2025, nộp 05 tỷ đồng tại Biên lai số 0068139 và 07 tỷ đồng tại Biên lai số 0068145 cùng ngày 20/02/2025, nộp 13 tỷ đồng tại Biên lai số 0068165 ngày 21/02/2025, nộp 05 tỷ đồng tại Biên lai số 0068187 ngày 25/02/2025, nộp 22 tỷ đồng tại Biên lai số 0068314 ngày 28/02/2025. Tổng bị cáo đã khắc phục thêm 85,9 tỷ đồng. Bị cáo Nga cũng khắc phục thừa hơn 02 tỷ đồng so với phần trách nhiệm của bị cáo. Bị cáo sức khỏe yếu, bị viêm trào ngược thực quản độ A - viêm dạ dày, mắt phải u bờ tự do mi trên (đã phẫu thuật ngày 10/10/2024). Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: Chùa An Sơn, xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc tặng Bảng vàng công đức do bị cáo đã phát tâm công đức vào việc xây dựng tam bảo, Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin thị trấn Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc có thư cảm ơn bị cáo đã giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam/dioxin gặp khó khăn. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được chính quyền địa phương xác nhận. Dây là những tỉnh tiết mới, quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin phạt tiền tội Thao túng thị trường chứng khoán và giảm hình phạt tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo, (4). Bị cáo Hương Trần Kiểu Dung kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đối với tội “Thao túng thị trường chứng khoán" và giảm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp tài liệu thể hiện bản án sơ thẩm không buộc bị cáo phải chịu TNDS hoặc bị áp dụng biện pháp tư pháp nhưng bị cáo vẫn tự nguyện nộp khắc phục hậu quả 300.000.000 đồng tại Biên lai số 0068332 ngày 06/3/2025. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Mẹ chồng bị cáo là bà Nguyễn Thị Cầm được tặng thưởng Huân chương kháng chiến Hạng Ba, Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng, bố chồng bị cáo là ông Nguyễn Văn Lùng được tặng thưởng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Chồng, con trai và anh trai ruột của bị cáo có thành tích xuất sắc trong học tập, công tác: Chông bị cáo được Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Xây dựng tặng thưởng nhiều Bằng khen; con bị cảo được Ban chấp hành Công đoàn Văn phòng Chính phủ tặng Giấy chứng nhận khen thưởng, anh ruột bị cáo được Quỹ hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, BCH Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chỉ Mình thành phố Hà Nội tặng Bằng khen. Công ty Cổ phần F Quy Nhơn Golf & Resort, Công ty cổ phần Hàng không TV, Công ty TNHH quản lý khách sạn và khu nghỉ dưỡng F, Công ty TNHH Samon Golf & Resort, Công ty TNHH và đầu tư F Hạ Long có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại kết luận điều tra xác định bị cáo Dung tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án nhưng chưa được cấp sơ thẩm áp dụng nên Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo. Do có đủ điều kiện áp dụng hình phạt tiền đối với tội Thao túng thị trường chứng khoán và có những tình tiết giảm nhẹ mới nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, phạt tiền về tội Thao túng thị trường chứng khoán và giảm hình phạt tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

(5). Bị cáo Nguyễn Quỳnh A12 kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền và gỡ bỏ phong tỏa các tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán của bị cáo. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo xuất trình các tỉnh tiết mới. Bị cáo có thành tích trong quá trình công tác: Công ty cổ phần chứng khoán kiến thiết Việt Nam tặng thưởng danh hiệu Quản lý xuất sắc năm 2017. Các cán bộ, nhân viên Công ty cổ phần chứng khoán kiến thiết Việt Nam, Công ty cổ phần chứng khoán CSI, Công ty TNHH MTV Quản lý quỹ Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam và một số cả nhân có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo đã nộp án phí hình sự sơ thẩm. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Trịnh Văn Q1 đã nộp khắc phục hậu quả thửa hơn 17 tỷ đồng và nộp thêm 24,5 tỷ đồng để chứng minh khả năng chấp hành hình phạt tiền cho các bị cáo trong vụ án. Đây là tỉnh tiết mới, và có đủ điều kiện áp dụng hình phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Về biện pháp tư pháp: Do vụ án đã được khắc phục toàn bộ trách nhiệm dân sự nên cần chấp nhận khảng cáo hủy bỏ các lệnh phong tỏa các tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán của bị cáo.

(6). (7), (8), (9). (10), (11). Bị cáo Nguyễn Thị Thanh P124, Nguyễn Thị Thị T169, Bùi Ngọc T125, Trần Thị L140, Quách Thị Xuân T134, Chu Tiên V733 kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền.

- Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị Thanh P124 xuất trình tài liệu: Bản án sơ thẩm không buộc bị cáo phải chịu TNDS hoặc bị áp dụng biện pháp tư pháp nhưng bị cáo vẫn tự nguyện nộp khắc phục hậu quả của vụ án với số tiền 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067471 ngày 20/12/2024, nộp 200.000 đồng án phíhình sự sơ thẩm tại Biên lại số 0066065 ngày 20/8/2024. Bị cáo có thành tích trong quá trình công tác: T tặng thưởng Giấy khen Quản lý tiêu biểu năm 2020, Giấy khen danh hiệu Quân lý xuất sắc năm 2021. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Bố chồng bị cảo - ông Đào Tiến D734 là thương binh hạng 2/4, được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì, Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, Huy hiệu 45 năm tuổi Đảng. Ông nội của bị cáo là ông Nguyễn Hưu L735 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì. Bác ruột của bị cáo là bà Nguyễn Thị L738 được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhi. Bác rẻ của bị cáo là ông Đỗ Văn H739, thương bình hạng 2/4, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, chú rể của bị cáo là ông Đình Công H740 - thương binh hạng %, chủ ruột của chồng bị cáo là ông Đào Văn H741 - thương binh hạng 4/4. Mẹ đẻ, chồng và bố chồng bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác, được tặng thưởng nhiều Giấy khen. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: Chủ tịch UBND phường Xuân Tảo, quận B, thành phố Hà Nội tặng thường Giấy khen do có nhiều đóng góp xây dựng phường. Chủ tịch UBND xã Sa Lý, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang tặng thưởng Giấy khen do có thành tích xuất sắc trong hoạt động thiện nguyện. Ban chấp hành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn tặng Giấy khen do có thành tích xuất sắc trong công tác an sinh xã hội trên địa bản. UBND xã Tân Phượng, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái xác nhận bị cáo có đóng góp xây dựng Cầu Ông Tiên, Cầu Khuổi Nọi, Cầu Vàng Bến. Ủng hộ bão là 2024. Bị cáo đã 03 lần hiến máu tình nguyện.

- Bị cáo Nguyễn Thị Thị T169 xuất trình tải liệu khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067472 ngày 20/12/2024. Bị cáo có thành tích trong quá trình công tác: Công ty Chứng khoán phố Wall tặng Giấy khen do đã có thành tích tiêu biểu trong hoạt động vận hành và đảm bảo an toàn hệ thống CNTT. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: Chủ tịch UBND xã Sa Lý, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang và Ban Chấp hành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn tặng Giấy khen. Ủng hộ phòng chống dịch Covid cho trường Tiểu học Lê Lợi - tỉnh Bắc Giang, trường mần non An Bình - tỉnh Bắc Ninh, bị cáo đã 5 lần tham gia hiến máu tình nguyện. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Bố bị cáo là ông Nguyễn Hải Cảng được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất, Ủy ban kế hoạch Nhà nước tặng Bằng khen do đã có thành tích xây dựng ngành Kê hoạch, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp tặng Huy chương vị sự nghiệp phát triển công nghiệp Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng tặng Huy chương vì sự nghiệp Địa chất Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Tài nguyên và Môi trường. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ bị cáo tuổi cao, mẹ bị cáo là bà Trịnh Thị Ngà bị suy thận mãn tỉnh, đái tháo đường.

- Bị cáo Bùi Ngọc T125 xuất trình tài liệu thể hiện bị cáo có thành tích trong quả trình học tập và công tác: Được T tặng thưởng Giấy khen danh hiệu nhân viên tiêu biểu năm 2019.

- Bị cáo Trần Thị L140 xuất trình tài liệu khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067469 ngày 20/12/2024. Bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0066067 ngày 20/8/2024. Bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác: Viện trưởng Viện nghiên cứu, đào tạo kinh tế -tài chính tặng Giấy khen do có nhiều thành tích góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2006, Công ty Cổ phần chứng khoán quốc tế Việt Nam tặng Giấy khen cán bộ nhân viên tiêu biểu năm 2018, Công ty cổ phần chứng khoán Âu Việt khen tặng danh hiệu “Nhân viên có nhiều cống hiến" giai đoạn 2007-2010; Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Ông nội bị cáo là ông Trần Văn D205 được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, hạng Nhì, bang Ba, Bằng khen do có thành tích trong công tác và chiến đấu; Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng; quả trình công tác được tặng thưởng nhiều Bằng khen, Giấy khen. Ông ngoại của bị cáo là ông Trần Đắc Đ742 được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Huy chương chiến thắng hạng Hai, Huân chương chiến công hạng Nhất, Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba, Bằng khen, Giấy khen. Bố đẻ của bị cáo là ông Trần Minh Q743 được tăng hưởng Huy chương quân kỹ quyết thắng, Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, hạng Ba, Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, chồng bị cáo bị gan xơ hóa và xơ gan, bố mẹ giả, 02 con nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình, được UBND phường Phú La, quận HĐ, thành phố Hà Nội xác nhận. Bị cáo tham gia các hoạt động thiện nguyện: Hiến máu tình nguyện; UBND xã Tân Phượng, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái xác nhận bị cáo đóng góp xây dựng Cầu Ông Tiên, Cầu Khuổi Nọi, Cầu Vàng Bến; ủng hộ khắc phục hậu quả của cơn bão số 3 Yagi.

- Bị cáo Quách Thị Xuân T134 xuất trình tài liệu khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067468 ngày 20/12/2024. Bị cáo có thành tích trong công tác: Tổng công ty Cơ khí Xây dựng tặng Giấy khen năm 2003, Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Ông nội chồng bị cáo là ông Cao Xuân H744 là cán bộ hoạt động cách mạng trước năm 1945. Bố chồng bị cáo là ông Cao Quốc S745 được Thủ tướng Chính phủ, BCH Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng thưởng Bằng khen. Được tặng thưởng Huy chương Bảo vệ tổ quốc, Huy chương vì sự phát triển của Công nghiệp Việt Nam, Huy chương vì sự nghiệp xây dựng tổ chức công đoàn, Kỷ niệm chương của Bộ Quốc phòng. Công ty cổ phần Chứng khoán An Bình (ABS) có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo: Bị cáo có nhiều sự đồng góp cho sự phát triển của Công ty. 61 cá nhân có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: UBND xã Tân Phượng, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái xác nhận bị cáo đóng góp xây dựng Cầu Ông Tiên, Cầu Khuổi Nọ, Cầu Vàng Bến. Bị cáo đóng góp ủng hộ đồng bào bão lụt. Hoàn cảnh gia đình khó khăn: Bị cáo bị polyp cổ tử cung, viêm gân cơ trên gai cánh tay, mẹ chồng bị cáo bị rối loạn chức năng tiền đình, sa sút trí tuệ, tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng men gan, bệnh tỉm thiếu máu cục bộ mạn, cơn đau thắt ngực, thoái hóa cột sống, bố chông bị cáo bị ung thư phế quản trái giai đoạn 4, đái tháo đường và 02 con đang đi học.

- Bị cáo Chu Tiến V107 xuất trình tài liệu khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067399 ngày 18/12/2024. Sức khỏe của bị cáo yêu: Bị cáo bị y dưới da vùng đỉnh bên trái, đau cột sống thắt lưng, đau cổ chân. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Bố mẹ đẻ bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Hai, hạng Ba; bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ của bị cáo được tặng thưởng Huy hiệu 40 năm, 55 năm tuổi Đảng; mẹ bị cáo có nhiều thành tích trong quả trình công tác, được Bộ Lao động tăng Bằng khen, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Trung ương Hội chữ thập đỏ Việt Nam tặng Bằng khen, Giấy khen, Kỷ niệm chương... Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính, bố mẹ già, 02 con nhỏ hiện đang đi học, được UBND phường Trung Văn, quận N, thành phố Hà Nội xác nhận. Bị cáo tham gia nhiều hoạt động thiện nguyện: Ủng hộ đồng bào do cơn bão số 3 gây ra số tiền 30 triệu đồng, hiến máu nhân đạo.

Cả 06 bị cáo đều xuất trình tình tiết mới tại giai đoạn phúc thẩm, và bị cáo Trịnh Văn Q1 đã nộp khắc phục hậu quả thửa hơn 17 tỷ đồng và nộp thêm 24,5 tỷ đồng để chứng minh khả năng chấp hành hình phạt tiền cho các bị cáo trong vụ án. Đây là tình tiết mới, và có đủ điều kiện áp dụng hình phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin chuyển hình phạt tiền của các bị cáo.

(12) (13) (14) Bị cáo Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Nguyễn Thị Hạ D228 kháng cáo xin được chuyển hình phạt tiền đối với tội "Thao túng thị trường chứng khoán" và giảm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Bị cáo Mạnh đề nghị dỡ bỏ kê biên phong tỏa đối với mọi tài sản, tài khoản ngân hàng của bị cáo trong vụ án - Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Trịnh Văn Đ78 xuất trình tài liệu khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 200.000.000 đồng tại Biên lai số 0067481 ngày 20/12/2024. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: Hội chữ thập đó phường Q, quận C, thành phố Hà Nội ghi nhận tấm lòng vàng các năm 2022, 2023, 2024. Bị cáo đã nộp án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo Nguyễn Văn M8 xuất trình một số tài liệu thể hiện: Bị cáo khác phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 150.000.000 đồng tại Biên lai số 0067480 ngày 20/12/2024. Bị cáo lập công chuộc tội: Bị cáo tố giác đối tượng bị truy nã - Nguyên Thị L746, được Công an quận TX, thành phố Hà Nội xác nhận. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Bố vợ của bị cáo là ông Trịnh Hồng Q5 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba (tham gia chống Mỹ cứu nước). Bác ruột của vợ bị cáo là ông Trịnh Hồng P747 là thương binh hạng 4/4, được tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang, Huân chương kháng chiến hạng Nhì, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tặng Bằng khen, Giấy khen. Chú ruột của bị cáo là ông Nguyễn Đức T748 được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang. Bố bị cáo là ông Nguyễn Văn H749 tham gia quân ngũ từ năm 1968 - 1989, mất sức lao động 81%, là hội viên Hội cựu chiến binh thị trấn Yên Lạc. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: Bị cáo ủng hộ quỹ “Đền ơn đáp nghĩa" của thị trấn Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, Trường THCS Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang ghi nhận tấm lòng vàng năm 2024. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được chính quyền địa phương xác nhận. Gia đình bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác: Bố vợ bị cáo là ông Trịnh Hồng Q5 được Chủ tịch nước tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba (đã có thời gian 20 năm phục vụ liên tục trong lực lượng Công an nhân dân), Ban chấp hành TW Hội làm vườn Việt Nam tặng Bằng khen, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc tặng Bằng khen... Huy hiệu 45 năm tuổi Đảng. Mẹ vợ bị cáo là bà Đỗ Thị G4 được Ban chấp hành TW Hội chữ thập đỏ Việt Nam tặng Bằng khen do có thành tích xuất sắc trong công tác Hội và phong trào Chữ thập đỏ nhiệm kỳ 2011-2016, các năm 2015, 2018, 2020; Kỳ niệm chương vì sự nghiệp nhân đạo. Ban chấp hành Hội Chữ thập đỏ tỉnh Vĩnh Phúc, UBND xã Vĩnh Thịnh, tỉnh Vĩnh Phúc, Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Vĩnh Tường, Hội chữ thập đỏ huyện Vĩnh Tường, Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ huyện Vĩnh Tường, Ban chấp hành TW Hội chữ thập đỏ tỉnh Vĩnh Phúc, Chủ tịch Hội Bảo trợ người tân tật và trẻ em mồ côi huyện Vĩnh Tường tặng thưởng Giấy khen nhiều năm liền. Chú ruột của bị cáo là ông Nguyễn Văn Mỹ được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen. Bị cáo bị thoát vị nhân nhấy đĩa đệm, thoái hóa đa tầng đĩa đệm và thân các đốt sống cổ.

Bị cáo Nguyễn Thị Hạ D228 khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 50.000.000 đồng theo Biên lai số 0067479 ngày 20/12/2024.

Các bị cáo xuất trình những tình tiết mới, quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Trong vụ án này, bị cáo Dung có vai trò thấp. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin phạt tiền tội "Thao túng thị trường chứng khoán" và giảm hình phạt tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” cho các bị cáo.

Về biện pháp tư pháp đối với bị cáo Mạnh: Vụ án đã khắc phục toàn bộ trách nhiệm dân sự nên cần chấp nhận kháng cáo hủy bỏ các lệnh kê biên, phong tỏa và trả lại tài sản cho bị cáo.

(15) Bị cáo Đỗ Như T131 thay đổi kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt được hưởng án treo. Bị cáo xuất trình đơn của 171 Cán bộ, nhân viên Công ty CP Xây dựng F và Công ty CP T xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Chủ tịch UBND phường Lê Đại Hành, quận H tặng Giấy khen do có thành tích xuất sắc trong công tác bảo vệ an ninh trật tự năm 2011. Bị cáo ủng hộ phòng chống dịch Covid. Đây là những tỉnh tiết mới cần ghi nhận bổ sung cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

(16) (17) (18) (19) (20) (21) Các bị cáo Đàm Mai H100, Nguyễn Văn T101, Hoàng Thị Thu H179, Trần Thế A117, Đỗ Quang L128, Trần Thị H111 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

- Bị cáo Đàm Mai H100 xuất trình tài liệu thể hiện bị cáo có thành tích trong quá trình công tác: Tổng công ty cơ khí xây dựng thuộc Tập đoàn CNXD Việt Nam thuộc Tập đoàn CNXD Việt Nam tặng thưởng Danh hiệu chiến sỹ thi đua cơ sở năm 2011, Giấy khen các năm 2010, 2011, 2012, 2014. Sức khỏe bị cáo yếu: Bị cáo bị bướu keo thùy trái tuyến giáp, u sơ tuyến giáp, u sơ cổ tử cung. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Mẹ chồng bị cáo là bà Trần Thị T750 được tặng thường Bảng Vàng danh dự, Huân chương kháng chiến hạng Ba, Huy hiệu 60 năm tuổi Đáng. Bô chồng bị cảo là ông Trần Văn K751 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, Bằng khen của tỉnh Thanh Hỏa do đã có nhiều thành tích xuất sắc về sản xuất, chiến đấu, phong trào thi đua 4 năm chống Mỹ cứu nước 1965-1968, năm 1972. Bác ruột của chồng bị cáo là ông Vũ Mạnh C752 là Liệt sĩ, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, ông ngoại chồng bị cáo là ông Vũ Xuân H753 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: Làng trẻ SOS xác nhận công tác từ thiện của bị cáo.

- Bị cáo Nguyễn Văn T101 xuất trình tài liệu khắc phục hậu quả đã nộp 25.000.000 đồng tại Biên lai số 0067490 ngày 23/12/2024. Bị cáo có thành tích xuất sắc trong quá trình công tác: Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng thưởng Bằng khen năm học 2004-2005; Trường Đại học Thương mại tặng thưởng danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp trưởng, danh hiệu giảng viên giỏi, danh hiệu lao động giỏi. Bị cáo có thời gian tham gia quân ngũ, đã theo học khóa 4 Sĩ quan dự bị Trường đại học Kinh tế kế hoạch. Bị cáo được tặng thưởng Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng. Đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo của Hiệu trưởng, các giảng viên và học viên của Trường Đại học Thương mại, đại diện Công ty Cổ phần F Quy Nhơn Golf&Resort. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Bố vợ bị cáo là ông Nguyễn Công Viên là thương bình, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất. Bác ruột và chủ ruột của bị cáo là ông Nguyễn Công R754 và ông Nguyễn Công V755 đều là Liệt sĩ. Bà nội bị cáo là bà Nguyễn Thị B756 (Phúc) là bà mẹ Việt Nam anh hùng, được tặng thưởng Huân chương độc lập hạng Ba. Mẹ bị cáo là bà Lê Thị C757 được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất. Bố đẻ của bị cáo ông Nguyễn Văn Thiệu được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất. Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn: Bố mẹ giả, vợ bị cáo sức khỏe yếu, đã cất hoàn toàn tuyến giáp.

- Bị cáo Hoàng Thị Thu H179 xuất trình tài liệu khắc phục hậu quả, nộp 100.000.000 đồng tại Biên lai số 0067478 ngày 20/12/2024. Bị cáo nhặt được 520.000.000 đồng, đã trả lại người đánh rơi, được Công an phường B, quận C, thành phố Hà Nội xác nhận. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Ông nội của chồng bị cáo - ông Lê Bá T758 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì. Bố chồng bị cáo - ông Lê Bá Minh là hội viên Hội Cựu chiến binh Việt Nam, UBND phường Phương Canh, quận N, thành phố Hà Nội cô đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Quá trình sinh sống tại địa phương, bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật, đóng góp ủng hộ phòng chống dịch Covid 19, ủng hộ nhân dân bị ảnh hưởng bởi bão Yagi. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: Được Chủ tịch UBND quận Cầu giấy tặng danh hiệu Người tốt - Việc tốt, bị cáo ủng hộ Quỹ Nhân đạo; bị cáo 03 lần tham gia hiến máu nhân đạo. Bản thân bị cáo bị polyp túi mặt, nang buồng trứng, nang 2 thủy trái tuyển giáp, nhân và 2 bên. Bô chồng bị cáo là ông Lê Bá Minh bị ung thư phổi giai đoạn IV. Con bị cáo là Lê Khánh N759 có nhiều thành tích trong học tập. - Bị cáo Trần Thế A117 xuất trình tài liệu thể hiện: Bị cáo nộp 300.000.000 đồng tại Biên lai số 0068562 ngày 20/3/2025 và 1.000.000.000 đồng tại Biên lai số 0068609 ngày 24/3/2025 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội để khắc phục hậu quả chung của vụ án. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Ông ngoại bị cáo là ông Hà Văn H760 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Bác ruột bị cáo là ông Trần Tiến T761 là Liệt sĩ. Bố vợ bị cáo là ông Trần Đình Ý được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, Kỷ niệm chương chiến sỹ cách mạng bị địch bắt, từ đây, Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng và nhiều Bằng khen, Giấy khen. Mẹ đẻ bị cáo là bà Hà Thị T762 được tặng thưởng Huy chương Vì sức khỏe nhân dân. Vợ bị cáo là Trần Thị D763 được tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, danh hiệu chiến sĩ thi đua toàn quân, Bằng khen của Bộ Quốc phòng về thành tích công tác xuất sắc 2017-2018, 05 đơn vị của Công ty Cổ phần T có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo luôn chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đăng và pháp luật của Nhà mước, có nơi cư trú rõ ràng, được Công an phường CN 1, quận B, thành phố Hà Nội xác nhận.

- Bị cáo Đỗ Quang L128 xuất trình tài liệu thể hiện bị cáo đã khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 200.000.000 đồng tại Biên lai số 0068622 ngày 24/3/2025. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Bố vợ bị cáo là ông Bùi Xuân N764 được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì, Giấy chứng nhận tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, Kỳ niệm chương chiến sĩ Trường Sơn; mẹ đẻ bị cáo là bị cáo là bà Bùi Thị V765 được tặng thưởng Kỷ niệm chương Cựu chiến binh Việt Nam. Vợ bị cảo là Bùi Thanh M766 có nhiều thành tích trong quá trình công tác: được tặng thưởng Danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở các năm 2014, 2023; Ban chấp hành Công đoàn viên chức thành phố Hà Nội tặng Giấy khen; Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội tặng Bằng khen; Ban Dân vận tặng Kỷ niệm chương vị sự nghiệp dân vận. Bị cáo tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện: Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin thành phố Hà Nội tặng Bằng tri ân tấm lòng vàng vì nạn nhân chất độc da cam năm 2024; Hội Chữ thập đỏ thành phố Hà Nội chứng nhận gia đình bị cáo có nhiều đóng góp trong các hoạt động Nhân đạo do Hội Chữ thập đỏ thành phố tổ chức năm 2023, 2024; BCH Đoàn huyện Bát Xát, xã Y Tý, tỉnh Lào Cai xác nhận bị cáo tham gia ủng hộ vật chất cho các điểm trường có học sinh cách ly do bị Covid trên địa bàn huyện Bát Xát; BCH Đoàn xã Đồng Xuân, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội xác nhận bị cáo thăm tặng quà 5 gia đình có hoàn cảnh khó khăn trong đợt Covid, tổ chức trung thu và tặng quà cho 100 cháu thiếu nhi, ủng hộ 300kg gạo đến bà con thôn Sáy Phìn, xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, UBND xã Sơn Phú, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên xác nhận bị cáo ủng hộ vật chất xây nhà tình nghĩa cho hộ gia đình nghèo đặc biệt khó khăn, trao bỏ cho hộ nghèo. Cán bộ công nhân viên Công ty cổ phần Phát triển nhà Kiên Giang có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo Trần Thị H111 xuất trình tài liệu thể hiện bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0065972 ngày 15/8/2024. Công ty TNHH Kiểm toán TTP có đơn trình bày gia đình bị cáo có công với cách mạng, chồng và con bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác, học tập; hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo có 4 con nhỏ, bố mẹ giả và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Chủ tịch UBND phường Xuân La, quận T, thành phố Hà Nội tặng Giấy khen do bị cáo đã có thành tích trong việc nhặt được tài sản và giao nộp cơ quan Công an phường Xuân La để trả lại cho chủ tài sản. Bị cáo có thành tích trong quá trình công tác: Bộ Tài chính tặng Bằng khen năm 2001. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Bổ bị cáo là ông Trần Đình T767 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Mẹ bị cáo là bà Lê Thị H768 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì. Bị cáo đạt Giải Nhất cuộc thi học sinh giỏi toán toàn tỉnh năm 1993, 1994, 1995; có nhiều đóng góp trong quá trình xây dựng nông thôn mới, có nhiều thành tích thiện nguyện, được UBND xã Ngọc Lâm, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên xác nhận. Bị cáo ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do cơn Bão số 3 gây ra, được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; trường THCS&THPT huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai; trường Mầm non Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai; Ủy ban MTTQ Việt Nam phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội; Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng gửi Thư cảm ơn. Ủng hộ học sinh có hoàn cảnh khó khăn của trường THCS&THPT Quan Lạn.

Những tình tiết mới nêu trên cần được ghi nhận bổ sung cho các bị cáo theo điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo, giảm cho các bị cáo một phần hình phạt.

(22) Bị cáo Nguyễn Ngọc T769 kháng cáo xin giảm hình phạt bằng thời gian tạm giam. Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo xuất trình các tỉnh tiết thể hiện bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác. Được Bộ trưởng Bộ Tài chính tặng Bằng khen năm 2016, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam tặng thưởng Bằng khen; Hội nhà báo Việt Nam vinh danh Doanh nhân - Doanh nghiệp vì cộng đồng 2013, Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Bố mẹ đẻ bị cáo được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất, bố mẹ vợ bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì; vợ bị cáo được tặng thưởng Huy chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Ba; Anh ruột của bị cáo là Liệt sĩ, được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba, Giấy chứng nhận Tổ quốc ghi công, hiện gia đình bị cáo đang thờ cùng liệt sĩ. Bị cáo bị ung thư Amydal giai đoạn 2, sức khỏe yếu. Bị cáo có hoạt động thiện nguyện, cứu trợ các hộ dân sau cơn bão số 10 năm 2013. Bị cáo đã nộp án phí hình sự sơ thẩm. Đây là những tình tiết mới cần ghi nhận bổ sung cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, có căn cứ chấp nhận khảng cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

(23) Bị cáo Lê Văn T120 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt được hưởng ân treo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Tuy bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới song trên cơ sở đánh giá tổng thể vụ án. Ở cấp phúc thẩm xuất trình nhiều tình tiết mới, hậu quả của vụ án đối với các bị hại và đối với Nhà nước đã được khắc phục toàn bộ. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm về tinh thần trong giai đoạn chấp hành án, động viên các bị cáo tích cực cải tạo sửa chữa lỗi lầm để trở thành người có ích cho xã hội.

(24) Bị cáo Trầm Tuấn V108 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bi cảo cung cấp các tỉnh tiết làm căn cứ kháng cáo: Bị cáo đã khắc phục hậu quả của vụ án, nộp 150.000.000 đồng tại Biên lai số 0067508 ngày 24/12/2024. Bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác: Bộ trưởng Bộ Tài chính, Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Công đoàn viên chức Việt Nam, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh tặng Bằng khen. Công đoàn Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt, Công ty Cổ phần Chứng khoán KAFI, Công ty Cổ phần Chứng khoán VNDIRECT.... có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Ông ngoại vợ bị cáo - ông Nguyễn Văn Cúc là người có công, cán bộ tiền khởi nghĩa. Các thành viên trong gia đình bị cáo có thành tích xuất sắc trong quá trình công tác: Ông Nguyễn Quốc C770 - cậu ruột vợ bị cáo được Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 tặng Bằng khen, Huân chương quân kỳ chiến thắng, Huân chương Bảo vệ tổ quốc, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, Bố vợ bị cáo là ông Lê Văn T771 được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tặng Bằng khen. Mẹ vợ bị cáo là bà Nguyễn Thị Bịch Y772 được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng Bằng Khen. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: Ủng hộ trang thiết bị y tế trong thời gian chống dịch Covid-19 được Bệnh viện Nguyễn Tri P773 gửi Thư cảm ơn. Trung tâm Bảo trợ người tâm thần, Hội Khuyến học UBND xã Bình Tây, huyện Ba Thị, tỉnh Bến Tre gửi Thư cảm ơn. Đóng góp cho Chùa Bát Nhã, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Chùa Trúc Lâm, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Tại phiên tòa bị cáo không đủ sức khỏe để tiếp tục tranh tụng. Cán bộ trại tạm giam đã đưa bị cáo đi kiểm tra sức khỏe vào ngày 18/6/2025, đến ngày 19/6/2025 có kết quả khám bệnh bị cảo Vũ mắc bệnh ung thư gan đã di căn, đến ngày 20/6/2025 kết quả bị cáo ung thư đại tràng di căn gan, phổi, giai đoạn 4.

(25). Bị cáo Lê Công Đ174 kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo xuất trình các tỉnh tiết: Bị cáo có thành tích xuất sắc trong quá trình công tác: Thủ tướng Chính phủ tặng Băng khen, Bộ trưởng Bộ Tài chính tặng Danh hiệu chiến sĩ thi đua ngành Tài chính các năm 2009, 2012, 2014; Bộ trưởng Bộ Tài chính tặng Bằng khen các năm 2011, 2014, 2018, 2019... Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Bố đẻ là ông Lê Công H774 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba; mẹ vợ là bà Lê Thị S775 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba; bố vợ là ông Bùi Ngọc Q776 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Tổng cục trưởng Tổng cục đường sắt tăng Bằng ghi công. Ủy ban chứng khoán Nhà nước có Công văn xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo. Tập thể cán bộ, công chức Ủy ban chứng khoán Nhà nước có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Chủ tịch UBND xã Mường Lống, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An tặng Giấy khen do bị cáo đã có đóng góp trong hoạt động từ thiện. Thư cảm ơn của giáo viên, học sinh điểm trường mầm non, tiểu học Má Xi, xã Má Lẻ, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang và Đảng ủy xã Tả Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Bị cáo nộp Giấy xác nhận số dư tài khoản thanh toán mở tại Ngân hàng TPBank với số tiền 2.000.166.028 đồng để chứng minh khả năng thi hành hình phạt tiền. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cài, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng lần đầu phạm tội với vai trò giúp sức; bị cáo cung cấp nhiều tỉnh tiết mới tại giai đoạn xét xử phúc thẩm do đó Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[3.22] Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2 của 117 bị hại.

Như đã phân tích nêu trên tại mục [3.2.1], do bị cáo Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2, đã nộp thêm số tiền bồi thường khắc phục và cung cấp nhiều tài liệu mới ở giai đoạn phúc thẩm; trách nhiệm dân sự trong vụ án đã được các bị cáo thực hiện xong nên có căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt cho hai bị cáo. Do vậy, kháng cáo của 117 người bị hại về nội dung này là có cơ sở chấp nhận.

[4]. Xét kháng cáo của bị hại đối với 25 bị cáo không có kháng cáo, Trong 25 bị cáo không có kháng cáo thi có 09 bị cáo không có kháng cáo nhưng tiếp tục bổ sung các tải liệu thể hiện thái độ ăn năn hối cãi về hành vi phạm tội, cụ thể:

(1) Bị cáo Nguyễn Thanh B24 có đơn xin giảm hình phạt, bị cáo nộp thêm các tỉnh tiết khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 500.000.000 đồng tại Biên lai 36 0068334 ngày 06/3/2025, nộp 200.000.000 đồng tại Biên lai số 0028493 ngày 30/5/2025 và nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0065997 ngày 16/8/2024. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Ông ngoại của bị cáo - ông Nguyễn Văn P777 là Liệt sĩ, được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất, bố đẻ bị cáo là ông Nguyễn Văn M25 được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì; chủ ruột bị cáo là ông Nguyễn Quảng Oai được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ Giải phóng hạng Nhất, Huân chương chiến công hạng Ba; chú ruột bị cáo là ông Nguyễn Văn T778 được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen vì đã góp phần vào sự nghiệp Bảo vệ Tổ quốc và Xây dựng Chủ nghĩa xã hội; bố vợ bị cảo là ông Lê Quang T779 được tặng thưởng Huy chương Kháng chiến hạng Nhất. Các thành viên trong gia đình bị cáo có thành tích trong quá trình học tập, công tắc: Mẹ đẻ bị cáo là bà Nguyễn Thị B26 được Bộ trưởng Y tế trao tặng Huy chương vì sức khỏe nhân dân; mẹ vợ bị cáo là bà Nguyễn Thị Kim N780 được tặng thưởng Huy chương vì sự nghiệp giáo dục, con gái của bị cáo được Ban Chấp hành Đoàn TNCS Hồ Chi Minh thành phố Hà Nội tặng thưởng Bằng khen, đạt danh hiệu Học sinh 3 tốt cấp Thành phố năm học 2022-2023. Hoàn cảnh gia đình khó khăn: Bị cáo là con trai duy nhất, bố mẹ 2 bên đều đã già yếu, bố đẻ bị cáo bị tai biến gần 20 năm, mẹ đẻ của bị cáo bị chấn thương 02 đầu gối. 04 con bị cáo đều đang đi học. Bị cáo ủng hộ Quỹ Vì người nghèo.

(2). Bị cáo Lê Thành V192 có đơn xin giảm hình phạt, khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 300.000.000 đồng tại Biên lai số 0068333 ngày 06/3/2025 và nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0065984 ngày 15/8/2024. Bị cáo được Đại học Monash, Úc trao văn bằng Tiến sĩ Triết học. Bị cáo đã hoàn thành Chương trình phát triển Lãnh đạo do Giám đốc Nhóm Học bổng Australia xác nhận. Công ty Luật T&P do bị cáo làm Giám đốc kiêm Luật sư điều hành được xếp hạng Công ty Luật đáng chú ý trong màng tư vấn về Doanh nghiệp và mua bán – sáp nhật tại Việt Nam trong phiên bản AsiaLaw profiles 2023/2024. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bố mẹ già, mắc nhiều bệnh hiểm nghèo, suy tim, tiểu đường nặng; 03 con nhỏ đều đang đi học. Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, được UBND phường P, quận T, thành phố Hà Nội xác nhận. Bị cáo được UBND xã Đại Đồng, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xác nhận việc bị cáo ủng hộ 50 triệu đồng để xây dựng nông thôn mới. Các đối tác của Công ty Luật T&P do bị cáo làm Giám đốc kiêm Luật sư điều hành có đơn kiến nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo: Công ty cổ phần TCT Toàn Mỹ, Công ty cổ phần Phúc Lộc Ninh, Công ty cổ phần đầu tư và phát triển Toàn Thịnh Land, Tổng công ty cổ phần Sông Hồng....

(3). Bị cáo Nguyễn Tiến D30 có đơn xin giảm hình phạt, cung cấp các tỉnh tiết thể hiện bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: UBND xã TB, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp xác nhận bị cáo đã đóng góp 151.000.000 đồng ủng hộ xây dựng Cầu Phúc Đức (Cầu Tuệ Tâm 308). UBND phường Mỹ Hòa, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xác nhận bị cáo đóng góp 72.500.000 đông ủng hộ xây cầu Hòa Ân. Bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0066051 ngày 19/8/2024. Mẹ đã bị cáo là bà Lê Thị M32 bị tai nạn lao động từ năm 1979, không lao động được và phải có người chăm sóc, phục vụ.

(4). Bị cáo Nguyễn Bình P45 có đơn xin giảm hình phạt, khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067467 ngày 20/12/2024. Bị cáo đã nộp án phí hình sự sơ thẩm. Gia đình bị cáo có công với cách mạng. Bác ruột của bị cáo là ông Trần Duy H781 là Liệt sĩ. Bố đẻ của bị cáo là ông Nguyễn Hoàng M46 được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Ông nội của chồng bị cáo - ông Đặng T782 là Liệt sĩ, được tặng thưởng Bằng Tổ quốc ghi công. Ông ngoại của chồng bị cân - ông Đoàn Đông N783 được tặng thưởng Huân chương chiến thắng hạng Ba, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng. Bố chồng bị cáo là ông Đặng Xuân S785 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Nhi, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng. Mẹ chồng bị cáo là bà Đoàn Thị Hoàng N786 được tặng thưởng Huy chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Các CBNV ở 11 công ty thành viên của T -1.263 người có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Thành viên gia đình bị cáo có thành tích trong quá trình học tập, công tác: Chồng bị cáo được Bộ trưởng Bộ Y tế tặng Bằng khen các năm 2010, 2016, 2020; Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS tặng Giấy khen giai đoạn 2005-2015, năm 2021. Con bị cáo đạt danh hiệu học sinh giỏi và học sinh xuất sắc nhiều năm liền. Hoàn cảnh gia đình khó khăn: Mẹ chồng bị cáo là bà Đoàn Thị Hoàng Ngân phải phẫu thuật thay khớp gối phải toàn phần.

(5). Bị cáo Lê Hải T53 có đơn xin giảm hình phạt, khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 100.000.000 đồng theo Biên lai số 0068417 ngày 10/3/2025. Nộp 200.000 đồng án phi hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0066261 ngày 16/9/2024. Gia đỉnh bị cáo có công với cách mạng: Ông nội bị cáo là ông Lê K787 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, ông ngoại bị cáo là lão thành cách mạng tiên khởi nghĩa, cậu ruột bị cáo - ông Lê C788 là thương binh. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: Ủng hộ Hội người mù Việt Nam, Quỹ vì người nghèo Trung ương. Nhân viên Sở giao dịch Chứng khoản Thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Vinaeco, Công ty cổ phần chứng khoán Rồng Việt, Công ty Cổ phần thương mại dầu khí... và hàng trăm cá nhân có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Các thành viên trong gia đình bị cáo có thành tích xuất sắc trong quá trình học tập, công tác: Cậu ruột của bị cáo - ông Lê C789 là Giáo sư, Tiến sĩ, thực hiện 18 đề tài/dự án nghiên cứu cấp Trường, cấp Bộ, cấp Nhà nước, có nhiều thành tựu, đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý và giảng dạy pháp luật; vợ bị cáo cùng nhóm chuyên gia có công trình nghiên cứu sáng chế về Quy trình điều chế hệ vì nhũ nano gluthathion trong ứng dụng cho làn da, đạt Huy chương vàng, bạc nhiều hạng mục thì trong thể thao do CLB Cung văn hóa lao động thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 2017, năm 2019; con gái bị cáo là Thủ khoa giải Lê Quý Đôn.

(6). Bị cáo Phạm Thị H193 N65 có đơn xin giảm hình phạt, cung cấp các tỉnh tiết thể hiện bị cáo tham gia tài trợ nuôi cơm 05 em nhỏ vào các năm học 2022-2023; 2023-2024 với tổng số tiền 14.500.000 đồng. Mẹ đẻ bị cáo là bà Vũ Thị Hồng T67 được Đảng, Nhà nước tặng 44 Bằng khen, Giấy khen các loại trong quá trình lao động.

(7). Bị cáo Trịnh T86 xuất trình tài liệu thể hiện khắc phục hậu quả của vụ án: Bị cáo nộp 50.000.000 đồng tại Biên lai số 0068447 ngày 12/3/2025.

(8). Bị cáo Lê Tân S33 xuất trình tài liệu thể hiện bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0067545 ngày 26/12/2024. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Ông nội bị cáo - ông Lê Văn Chương được tặng thưởng Huân chương độc lập hạng Ba. Bác ruột bị cáo - ông Lê Thái Dũng là Liệt sĩ. Bồ bị cáo được tặng thưởng Huy chương vị an ninh tổ quốc; Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất các năm 2006, 2011, hạng Nhì, hạng Ba; Huy hiệu 30 năm tuổi đàng. Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn: Bị cáo là lao động duy nhất trong gia đình, bố mẹ già, thường xuyên đau ốm, 02 con nhỏ sinh năm 2015, được UBND phường V xác nhận. Nhiều cá nhân cô đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: Trường tiểu học Thái Thịnh, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội có Thư cảm ơn bị cáo các năm 2021, 2022 do đã có đóng góp trong các chương trình thiện nguyện. Bị cáo tham gia Chương trình thiện nguyện Sười âm vùng cao của Công ty TNHH Golf Artexport Tam Nông.

137 (9). Bị cáo Trần Đắc S51 xuất trình tài liệu thể Công đoàn Sở giao dịch Chứng khoản Thành phố Hồ Chí Minh có công văn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Cán bộ, công nhân viên của Sở giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hoàn cảnh gia đình khó khăn: Bị cáo bị rối loạn chuyển hóa lipoprotein, tăng lipid máu, đái tháo đường, gan nhiễm mỡ, nang thận trái. Con trai bị cáo bị lao màng não, lao phối AFB, viêm màng não, hen phế quản, di chứng nhồi máu não. Bị cáo có nhiều hoạt động thiện nguyện: Xây 25 nhà tình thương trị giá 500 triệu đồng, trao 700 phần quà cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trị giá 350 triệu đồng trên địa bàn phường Hương Vân, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên H2; xây phòng học bản trù cho trường THCS Hương Vân 380 triệu đồng, hỗ trợ tiền ăn cho học sinh, hỗ trợ quỹ khuyến học phường Hương Vân 50 triệu đồng.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong 09 bị cáo bị tạm giam: Nguyễn Thiện P146, Trịnh T86, Nguyễn Thanh B24, Lê Thành V27, Nguyễn Tiến D30, Lê Tân S33, Nguyễn Bình P45, Trần Đắc S51, Lê Hải T53 thì:

Các bị cáo Bình, Vinh, Dũng, Phương, Trà, Tuân, Sơn, Sinh không có kháng cáo nhưng vẫn xuất trình tỉnh tiết mới; các bị cáo không bị Tòa án cấp sơ thẩm quyết định buộc phải bồi thường trách nhiệm dân sự nhưng các bị cáo vẫn chủ động bối thường để khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật của các bị cáo gây ra, điều đó thể hiện một ý thức tích cực và sự nhận thức về trách nhiệm, mặc dù các bị cáo không có nghĩa vụ pháp lý phải làm như vậy. Đây là một tỉnh tiết thể hiện sự ăn năn, hối hận của các bị cáo đối với hành vi của mình, nhằm giảm bớt thiệt hại cho các bị hại và đồng thời thể hiện sự tôn trọng pháp luật. Trong vụ án này, việc các bị cáo trên tự nguyện bồi thường cho bị hại dù không bắt buộc là một yếu tố để Tòa án xem xét về hình phạt của các bị cáo trong quá trình xét xử, đặc biệt là khi xem xét các tỉnh tiết giảm nhẹ. Điều này thể hiện thiện chỉ tích cực của bị cáo trong việc khắc phục hậu quả và có căn cứ để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, (10). Đối với bị cáo Nguyễn Thiện P146 bị xử phạt 05 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo là đúng. Tuy nhiên, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, vụ án xuất hiện thêm nhiều tỉnh tiết mới, hậu quả của vụ án đã được khắc phục toàn bộ, tỉnh nguy hiểm bởi hành vi phạm tội của các bị cáo đã được giảm nhẹ. Hội đồng xét xử thấy nếu giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Do đó, Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt đối với bị cáo.

Từ những phân tích như trên, Hội đồng xét xử thấy rằng không có cơ sở chấp nhân kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo không có kháng cáo bị Tòa ân cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù giam. Đồng thời, như đã phân tích nêu trên, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, thiệt hại của vụ án do các bị cáo gây ra được các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm quy kết là hơn 2.500 tỷ đồng (bao gồm cả khoản tiền hơn 684 tỷ đồng các bị cáo phải truy thu sung quỹ Nhà nước) đã được các bị cáo khắc phục toàn bộ, đánh giá đây là tình tiết giảm nhẹ đặc biệt thể hiện sự ăn năn hối cài và ý thức chấp hành pháp luật của các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy mặc dù các bị cáo có hành vi phạm tội bị quy kết là có căn cứ nhưng đến thời điểm xét xử phúc thẩm thì thiệt hại của vụ án đã được khắc phục toàn bộ với số tiền đặc biệt lớn là hơn 2.500 tỷ đồng, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải, đa số gia đình các bị cáo đều có người thân là những người có công với Cách mạng. Do đó, để thể hiện sự nhân văn, tính khoan hồng của pháp luật thì việc xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 và Trịnh Thị Thùy Nga như đã nêu là có căn cứ và trên cơ sở xem xét về tỉnh tổng thể, đánh giá chung về yếu tố khắc phục toàn bộ hậu quả của vụ án mà các bị cáo khác cùng được hưởng thì việc xem xét giảm hình phạt cho các bị cáo khác kể cả các bị cáo không kháng cáo trong vụ án là có căn cứ, cần được xem xét cho phù hợp.

Đối với các bị cáo (16 bị cáo) đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tử cho hưởng án treo thì bị cáo Phạm Thị H193 N65, không có kháng cáo, có bổ sung tỉnh tiết mới tại giai đoạn phúc thẩm. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là phù hợp và đã cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét đối với bị cáo.

15 bị cáo còn lại đã được hưởng án treo: Trịnh Văn N77, Nguyễn Quang T80, Trịnh Thị Thanh H83, Nguyễn Thị N15, Hoàng Thị H18, Đỗ Thị Huyền T21, Trương Văn T42, Phạm Thanh H62, Đặng Thị H36, Lê Văn S39, Lê Thị Tuyết H56, Trịnh Thị Út X59, Nguyễn Minh Đ48, Dương Văn T68, Phạm Trung M175, Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

[5]. Về hình phạt bổ sung:

Đối với các bị cáo trong nhóm Lửa đảo chiếm đoạt tài sản: Bị cáo Trịnh Văn Q1 phải bồi thường số tiền lớn cho các bị hại, các bị cáo khác không có điều kiện thì hành hình phạt bổ sung, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Tuy nhiên, các bị cáo Nguyễn Ngọc T173, Lê Văn T120, Trần Thị H111 phạm tội do vi phạm quy tắc nghề nghiệp kiểm toán nên cần cấm hành nghề trong lĩnh vực trên trong một thời gian nhất định.

- Đối với các bị cáo trong nhóin "Thao túng thị trường chứng khoản" và "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán": Các bị cáo phạm tội trong lĩnh vực chứng khoán nên cần cấm các bị cáo làm việc trong lĩnh vực chứng khoản một thời gian kể từ sau khi chấp hành xong hình phạt chính.

[6]. Xét nội dung khảng cáo về phần trách nhiệm dân sự:

(6.1). Danh sách những người khảng cáo phần trách nhiệm dân sự, buộc tất cả các bị cáo phải liên đới bồi thường được liệt kê tại phần B của nội dung kháng cáo.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong vụ án này, bị cáo Trịnh Văn Q1 là người chỉ đạo nâng khống vốn điều lệ thực góp, niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoản rồi bán kiếm lời, chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư. Bị cáo Q1 là người chịu trách nhiệm chính về hành vi phạm tội, đồng thời là người hưởng lợi phần lớn số tiền chiếm đoạt được từ các nhà đầu tư. Bị cáo Trịnh Thị Minh H2 là người đồng phạm tích cực, thực hiện theo sự chỉ đạo của bị các Q1. Mặc dù, tại phiên toà bị cáo Quyết đề nghị nhận toàn bộ trách nhiệm bồi thường, nhưng để đảm bảo quyền lợi của các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cần buộc bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường cho các nhà đầu tư bị thiệt hại tử hành vì Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các bị cáo gây ra. Đối 139 với các bị cáo khác là những người giữ vai trò thấp hơn, phần lớn không hưởng lợi gi, thực hiện theo chỉ đạo của Q1, H2 và đã nộp lại số tiền, cổ phiếu được chia hoặc số cổ phiếu đó đã bị phong toả để đảm bảo thi hành án, nên Tòa án cấp sơ thẩm không buộc trách nhiệm bồi thường là phù hợp. Hơn nữa, tại giai đoạn phúc thẩm, các bị cáo bị buộc trách nhiệm bồi thường đã hoàn thành xong nghĩa vụ. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng không có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo buộc tất cả các bị cáo phải liên đới bồi thường cho bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[6.2]. Các bị cáo Trịnh Văn Q1 và Trịnh Thị Minh H2 kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm dân sự. Tại giai đoạn phúc thẩm, các bị cáo đã thực hiện xong trách nhiệm dân sự và thay đổi kháng cáo. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Xét kháng cáo đề nghị gỡ bỏ phong tỏa tài khoản của bị cáo Nguyễn Quỳnh A12 và Nguyễn Văn M8, Hội đồng xét xử thấy:

Đối với tải khoản chứng khoán của các bị cáo thấy rằng: một số bị cáo có hành vị Lừa đảo chiếm đoạt tài sản hiện còn đang nắm giữ cổ phiếu ROS, xét thấy các bị cáo có lỗi trong việc để xảy ra hậu quả của vụ án. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm kê biên đối với số cổ phiếu trên của các bị cáo để bảo đảm việc bồi thường cho các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và truy nộp sung công quỹ nhà nước là đúng. Tại giai đoạn phúc thẩm, các bị cáo đầu vụ đã thực hiện xong trách nhiệm dân sự, nộp tiền thu lợi bất chính, nên không cần thiết phải phong tỏa tài sản để đảm bảo thi hành án. Hội đồng xét xử chấp nhân không cáo của bị cáo Quỳnh Anh và bị cáo Mạnh.

[8]. Xét kháng cáo đề nghị được xác định lại tư cách tham gia tố tụng (ông Phạm Quốc T712) và được nhận bồi thường.

Danh sách những người kháng cáo đề nghị được bổ sung vào phục lục 3.1 và được nhận bồi thường, được liệt kê tại phần [B] của nội dung kháng cáo.

Hội đồng xét xử thấy rằng:

Kết quả điều tra và xét xử sơ thẩm đã xác định, có 25.853 nhà đầu tư đứng tên 30.403 tài khoản chứng khoản đã mua cổ phiếu ROS đợt bán ra ban đầu từ Trịnh Văn Q1 và các đồng phạm. Họ là những người đã bỏ tiền ra mua cổ phiếu ROS mà không biết giá trị cổ phiếu bị nâng khống, là những người chịu tác động trực tiếp bởi hành vi gian dối nhầm chiếm đoạt tài sản của bị cáo Quyết và các đồng phạm. Theo Điều 62 BLTTHS: "Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tình thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra" nên bản án cấp sơ thẩm xác định những người trên là bị hại là có căn cứ.

Những người đã được bản án sơ thẩm xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại phụ lục 3.1, 3.2 không phải nhà đầu tư mua cổ phiếu ban đầu mà mua lại của các nhà đầu tư khác, không chịu tác động trực tiếp bởi hành vi phạm tội của Quyết và đồng phạm mà bị gián tiếp thiệt hại. Theo Điều 65 BLTTHS: "Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cả nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự” nên cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm xác định những người này là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là có căn cứ. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo về nội dung này.

[9]. Xét kháng cáo yêu cầu các bên liên quan đã giúp sức trong việc niêm yết cổ phiếu liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại; Bổ sung biện pháp hỗ trợ đặc biệt, Yêu cầu bồi thường thiệt hại và đảm bảo việc thi hành án; Điều chỉnh mức bồi thường cho 133 tài khoản trong phụ lục 1 những người mua cổ phiếu ROS ban đầu còn đang sở hữu cổ phiếu; Đề nghị xác định rõ tiến độ thi hành án được thực hiện nhiều đợt. Xét kháng cáo yêu cầu xác định Ủy ban Chứng khoán nhà nước và Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán Việt Nam (VSDC) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án; buộc các bị cáo (kể cả các bị cáo là cán bộ Sở giao dịch chứng khoán) bồi thường.

Hội đồng xét xử thấy rằng:

Từ những phân tích tại các mục [1] đến mục [8] của phần nhận định, Hội đồng xét xử thấy: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng đã làm rõ nội dung vụ án, xác định trách nhiệm của từng bị cáo, trách nhiệm của các công ty, xác định mức bồi thường là đúng theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở tỉnh chất, mức độ hành vi phạm tội, lỗi của các bị cáo, ngoại trừ Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, các bị cáo đồng phạm và các bị cáo khác trong vụ án thuộc UBCKNN, Trung tâm lưu ký chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán không được hưởng lợi, bản án sở thẩm tuyên buộc trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Quyết, H2 và Nga là có căn cứ. Mặt khác, trách nhiệm dân sự của vụ án này đã được các bị cáo khắc phục đối với những người có yêu cầu cụ thể nên đề nghị tuyên các bị cáo khác liên đới bối thường; yêu cầu bổ sung UBCKNN và VSD tham gia vào vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để thực hiện việc liên đới bồi thường là không cần thiết. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo về nội dung này.

Đối với tiến độ thì hành trách nhiệm dân sự, sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, trách nhiệm giải quyết thi hành bản án thuộc về cơ quan thi hành án dân sự. Các đương sự có quyền làm đơn đề nghị lên cơ quan thi hành án. Do đó, Hội đồng xét xửkhông xem xét.

[10]. Đối với yêu cầu của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại phụ lục 3.2 yêu cầu được chuyển sang danh sách tại phụ lục 3.1 của bản án sơ thâm; Những người này và một số bị hại tại phụ lục 02 của bản án sơ thẩm yêu cầu được bồi thường thiệt hại trong vụ án này tại cấp phúc thẩm.

Xét thấy:

Về nội dung này, BAST nhận định: "Đối với các nhà đầu tư khác đang sở hữu cổ phiếu ROS là bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hiện chưa có yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường trong vụ án khác theo thủ tục tổ tụng dân sự khi có yêu cầu. Như vậy, BAST chưa có quyết định giải quyết bồi thường đối với bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chưa có yêu cầu bồi thường này. Theo Điều 345 Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vì xét xử phúc thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm xem xét những nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Do đó, yêu cầu đưa vào danh sách được bồi thường và giải quyết tại cấp phúc thẩm là không có căn cứ pháp luật nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[11]. Đối với yêu cầu điều chỉnh mức bồi thường của nhóm phụ lục 3.1 cho phủ hợp với mức bồi thường của nhóm phụ lục 1 (7.215 đồng/cổ phiếu) và yêu cầu bồi thường phải trả bằng giá thời điểm nhà đầu tư mua cổ phiếu để đảm bảo công bằng cho các nhà đầu tư.

Xét thấy:

- Hành vi năng khống vốn chủ sở hữu thực góp của bị cáo Trịnh Văn Q1 và các đồng phạm khác đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cổ phiếu ROS, kéo theo cổ phiếu ROS đã bị sản HOSE hủy niêm yết bắt buộc từ ngày 05/9/2022 (do vi phạm điều cấm của Luật doanh nghiệp về khai khống vốn điều lệ, về công bố thông tin...) làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, ảnh hưởng đến tỉnh thanh khoản của cổ phiếu ROS, do đó các bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

- Tuy nhiên, việc mua bán cổ phiếu được xác lập trên cơ sở khớp lệnh của hàng triệu tài khoản chứng khoản trên thị trường, khi nhà đầu tư phát sinh nhiều giao dịch mua - bán cùng một mã cổ phiếu thì không xác định được cổ phiếu mà họ bán ra là được mua của ai, tại thời điểm nào, ngoài giá trị thực của cổ phiếu thì giá cổ phiếu giao dịch trên sàn chứng khoản còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như thị trưởng, tâm lý nhà đầu tư... Mặt khác, hiện nay Công ty F vẫn đang hoạt động, cổ phiếu ROS vẫn còn giá trị lưu hành trên thị trường tự do (chỉ không đủ điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán). Vì vậy, không thể buộc các bị cáo phải bồi thường toàn bộ số tiền các nhà đầu tư đã bỏ ra mua cổ phiếu, mà chỉ có thể buộc các bị cáo bối thường phần giá trị bị nâng khống trên mỗi cổ phiếu.

-Kết quả điều tra đã xác định: Sau khi 430 triệu cổ phiếu ROS được niêm yết và giao dịch tại HOSE từ ngày 01/9/2016, Công ty F tiếp tục tăng vốn 02 lần (lần 6 từ 4.300 tỷ lên 4.729.999.990.000 đồng và lần 7 từ 4.729.999.990.000 đồng lên 5.675.981.210.000 đồng). Cả hai lần tăng vốn này đều dưới hình thức phát hành thêm cổ phiếu, tăng vốn điều lệ để trả cổ tức cho các cổ đông hiện hữu và là hệ quả tiếp theo của việc nâng khống vốn điều lệ 5 lần trước đó (4300 tỷ) và niêm yết cổ phiếu ROS trên HOSE. Vì vậy, cần buộc các bị cáo phái chịu trách nhiệm về yêu cầu bởi thường thiệt hại của các nhà đầu tư hiện còn đang nắm giữ tổng số 567.598.121 cổ phiếu. Tuy nhiên, số tiền tăng vốn lần 6 và lần 7, không bị xác định là tăng vốn khống. Nên xác định sau 7 lần tăng vốn thì số vốn thật của Công ty F là 2.573.492.292.182 đồng, số vốn không là 3.102.488.917.818 đồng. Vốn điều lệ sau khi tăng vốn lần 7 là 5.675.981.210.000 đồng. Tỷ lệ vốn khống trên vốn điều lệ giảm xuống còn 54,66% (3.102.488.917.818 đồng/5.675.981.210.000 đồng). Như vậy, đổi với mỗi cổ phiếu mệnh giá 10.000 đồng thi có 5.466 đồng (54,66%) là vẫn không. Vì vậy, cần buộc các bị các phải bồi thường cho nhà đầu tư giá trị bị nâng không trên mỗi cổ phiếu, tương ứng với khối lượng cổ phiếu đang sở hữu. Phần giá trị khác ảnh hưởng đến giá cổ phiếu nhà đầu tư đã mua, nằm ngoài phần giá trị bị nâng không là do thị trường và các yếu tố chủ quan, khách quan khác nên không buộc các bị cáo phải bồi thường. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo về nội dung này.

[12]. Đối với tài sản bị kê biên, phong toà, yêu cần ngăn chặn giao dịch:

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã kê biên các bất động sản của các bị cáo, phong toả các tài khoản ngân hàng, đề nghị Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các Tổ chức tín dụng ngăn chặn giao địch khoả chiều ghi nợ của các tài khoản ngân hàng, đề nghị Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước phong toả các tài khoản chứng khoán có liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo và đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh/thành phố ngăn chặn giao dịch liên quan đến các tài sản khác của các bị cáo. Tuy nhiên, tại giai đoạn phúc thẩm các bị cáo trong cùng vụ án đã tự nguyện nộp lại toàn bộ các khoản tiền cũng như khắc phục toàn bộ hậu quả của vụ án, đến thời điểm xét xử vụ ân thì các bị cáo không còn phái thực hiện bất cứ nghĩa vụ dân sự hoặc trách nhiệm bồi thường nào trong vụ án, nên cần hủy các lệnh kê biên, phong toả, yêu cần ngăn chặn giao dịch như quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao phát biểu tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[13]. Về trách nhiệm dân sự:

Xác nhận các bị cáo đã nộp khắc phục hậu quả của vụ án tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, cụ thể như sau:

- Bị cáo Trịnh Văn Q1: nộp 203 tỷ đồng tại Biên lai số 0067366 ngày 13/12/2024; nộp 150 tỷ đồng tại Biên lai số 0067461 ngày 19/12/2024; nộp 25 tỷ đồng tại Biên lai số 0068560 ngày 19/3/2025, nộp 100 tỷ đồng tại Biên lai số 0068798 ngày 11/4/2025; nộp 1.400.050.000.000 đồng tại Biên lai số 0069151 ngày 05/6/2025; bồi thường cho các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (trực tiếp qua Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội): 8.615.730.090 đồng.

- Bị cáo Trịnh Thị Minh H2: nộp 01 tỷ đồng tại Biên lai số 0067477 ngày 20/12/2024; nộp 03 tỷ đồng tại Biên lai số 0067525 ngày 25/12/2024; nộp 88 tỷ đồng tại Biên lai số 0068313 ngày 28/02/2025; nộp 40 tỷ đồng tại Biên lai số 0068427 ngày 10/3/2025; nộp 100 tỷ đồng tại Biên lai số 0068485 ngày 17/3/2025; nộp 22 tỷ đồng tại Biên lai số 0068557 ngày 19/3/2025.

Bị cáo Trịnh Thị Thúy N7: nộp 3,9 tỷ đồng tại Biên lai số 0067514 ngày 24/12/2024, nộp 30 tỷ đồng tại Biên lai sở 0068130 ngày 19/02/2025, nộp 05 tỷ đồng tại Biên lai số 0068139 và 07 tỷ đồng tại Biên lai số 0068145 cùng ngày 20/02/2025, nộp 13 tỷ đồng tại Biên lai số 0068165 ngày 21/02/2025, nộp 05 tỷ đồng tại Biên lai số 0068187 ngày 25/02/2025, nộp 22 tỷ đồng tại Biên lai số 0068314 ngày 28/02/2025.

- Bị cáo Hương Trần Kiều D9 nộp 300.000.000 đồng tại Biên lai số 0068332 ngày 06/3/2025.

Bị cáo Nguyễn Thị Thanh P124 nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067471 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Nguyễn Thị Thị T169 nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067472 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Trần Thị L140 nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067469 ngày 20/12/2024.

143 - Bị cáo Quách Thị Xuân T134 nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067468 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Trịnh Văn Đ78 nộp 200.000.000 đồng tại Biên lai số 0067481 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Nguyễn Văn M8 nộp 150.000.000 đồng tại Biên lai số 0067480 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Nguyễn Thị Hạ D228 nộp 50.000.000 đồng theo Biên lai số 0067479 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Nguyễn Văn T101 nộp 25.000.000 đồng tại Biên lai số 0067490 ngày 23/12/2024.

- Bị cáo Hoàng Thị Thu H179 nộp 100.000.000 đồng tại Biên lai số 0067478 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Trần Thế A117 nộp 300.000.000 đồng tại Biên lai số 0068562 ngày 20/3/2025 và 1.000.000.000 đồng tại Biên lai số 0068609 ngày 24/3/2025.

- Bị cáo Đỗ Quang L128 nộp 200.000.000 đồng tại Biên lai số 0068622 ngày 24/3/2025.

- Bị cáo Trầm Tuấn V108 nộp 150.000.000 đồng tại Biên lai số 0067508 ngày 24/12/2024.

- Bị cáo Chu Tiến V107 nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067399 ngày 18/12/2024.

- Bị cáo Trịnh T86 nộp 50.000.000 đồng tại Biên lai số 0068447 ngày 12/3/2025.

- Bị cáo Nguyễn Thanh B24 nộp 500.000.000 đồng tại Biên lai số 0068334 ngày 06/3/2025, Bị cáo nộp 200.000.000 đồng tại Biên lai số 0028493 ngày 30/5/2025.

- Bị cáo Lê Thành V192 nộp 300.000.000 đồng tại Biên lai số 0068333 ngày 06/3/2025.

- Bị cáo Nguyễn Bình P45 nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067467 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Lê Hải T53 nộp 100.000.000 đồng theo Biên lai số 0068417 ngày 10/3/2025.

Đối với các khoản tiền do các bị cáo khác không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả nhưng đã tự nguyện nộp để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả chung trong vụ án, thấy các bị cáo đã thực hiện việc nộp tiền là nhằm mục đích được áp dụng tình tiết giảm nhẹ với mong muốn được giảm nhẹ hình phạt và thực tế các bị cáo cũng đã được áp dụng tỉnh tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét việc các bị cáo nộp là hoàn toàn tự nguyện, cơ quan thi hành án cũng đã thu và cấp biên lại xác nhận cho các bị cáo nên các khoản tiền này được sử dụng khắc phục hậu quả chung trong vụ ăn là có căn cứ, đúng pháp luật.

[14]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu ản phí hình sự phúc thẩm.

Kháng cáo của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về trách nhiệm dân sự không được chấp nhận nên mỗi người phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.

[15]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phủ hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[16]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, căn cứ Điều 355, Điều 356, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, Luật phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sửdụng án phí và lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo.

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan về phần trách nhiệm dân sự.

3. Không chấp nhận kháng cáo của bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan về bổ sung, xác định tư cách tham gia tố tụng.

4. Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan về xác định lại tiền thu lợi bất chính.

5. Không chấp nhận kháng cáo người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đề nghị thay đổi phụ lục của bản án sơ thẩm 6. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo đề nghị gỡ bỏ phong tỏa tài khoản.

7. Chấp nhận kháng cáo về hình phạt của 25 bị cáo có kháng cáo. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 426/2024/HSST ngày 05/8/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, cụ thể:

(1). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; các điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 35, 38, 41, 54, 55, 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS); Xử phạt bị cáo Trịnh Văn Q1 07 (bảy) năm tù về tội Lừa đào chiếm đoạt tài sản và phạt 04 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán. Thời hạn từ tỉnh từ ngày 29/3/2022.

(2). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, 3 khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 35, 38, 41, 54, 55, 58 BLHS. Xử phạt bị cáo Trịnh Thị Minh H2 04 (bốn) năm 6 (sáu) tháng từ về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phạt 3,5 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoản; Thời hạn từ tỉnh từ ngày 04/4/2022.

(3). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 35, 38, 41, 54, 55, 58 BLHS. Xử phạt bị cáo Trịnh Thị Thuý N167 hình phạt tù bằng thời hạn bị tạm giam từ ngày 05/4/2022 đến ngày 26/6/2025 (38 tháng 21 ngày tủ) về tội Lừa đào chiếm đoạt tài sản (Xác nhận bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tử) và phạt 03 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán.

Trả tự do ngay cho bị cáo nếu bị cáo không bị giam, giữ về hành vi phạm tội khác.

(4). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, v, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 35, 38, 41, 54, 55, 58 BLHS. Xử phạt bị cáo Hương Trần Kiều D9 03 năm 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phạt 03 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoản. Thời hạn từ tính từ ngày 08/4/2022.

(5). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35, 41, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Quỳnh A12 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán (6). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, 1 khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35, 41, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh P124 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán.

(7). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, 1 khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 35, 41, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thị T169 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán.

(8). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35, 41, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc T125 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán.

(9). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, 1 khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 35, 41, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Trần Thị L140 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán.

(10). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, 1 khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Quách Thị Xuân T134 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán.

(11). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 35, 38, 41, 54, 55, 58 BLHS. Xử phạt bị cáo Trịnh Văn Đ78 04 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phạt 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán. Thời hạn tù tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(12). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 35, 38, 41, 54, 55, 58 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M8 02 năm 06 tháng tù về tội Lửa đảo chiếm đoạt tài sản và phạt 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán. Thời hạn tử tỉnh từ ngày bị cảo bắt đầu thi hành án.

(13). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, 3 khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, các Điều 35, 38, 41, 54, 55, 58 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hạ D228 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phạt 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán. Thời hạn từ tính từ ngày 30/01/2024.

(14). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Đỗ Như T131 03 năm 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn từ tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(15). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, 5 khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Đàm Mai H100 17 tháng tù về tội Lửa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2024.

(16). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T101 03 năm 06 tháng từ về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2024.

(17). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Thu H179 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn từ tính từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành án.

(18). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Trần Thế A117 17 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn từ tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(19). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Đỗ Quang L128 02 năm 06 tháng tù về tội Lửa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn từ tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(20). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T145 03 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2024, (21). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, 5 khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 41, 54, 58 BLHS, Xử phạt bị cáo Lê Văn T120 03 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn từ tính từ ngày 30/01/2024.

(22). Áp dụng khoản 3, khoản 4 Điều 356; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Trầm Tuấn V108 24 tháng tù về tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khí thi hành công vụ. Thời hạn từ tính từ ngày 31/01/2024.

(23). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35, 41, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Chu Tiến V107 02 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán.

(24). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Trần Thị H111 36 (ba mươi sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thời gian thử thách là 60 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(25). Áp dụng điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 209; điểm 3, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65, 41 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Công Đ174 36 (ba mươi sáu) tháng từ nhưng cho hưởng án treo về tội Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán, thời gian thử thách là 60 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường Việt Hùng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, giảm sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(26). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiện P74 03 năm tù về tội Lửa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn tù tỉnh từ ngày 12/9/2022.

(27). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 35, 38, 41, 54, 55, 58 BLHS. Xử phạt bị cáo Trịnh T86 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phạt 2,5 tỷ đồng về tội Thao túng thị trường chứng khoán. Thời hạn từ tính từ ngày 30/01/2024.

(28). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B24 03 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn tủ tính tử ngày 30/01/2024.

(29). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Thành V192 17 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn tử tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(30). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến D30 03 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn từ tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(31). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Lô Tân Sơn 24 tháng tù về tội Lửa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn từ tỉnh từ ngày 30/01/2024.

(32). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Bình P45 30 thăng tù về tội Lửa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2024.

(33). Áp dụng khoản 3, khoản 4 Điều 356; điểm b, s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 41, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Trần Đắc S51 04 năm 06 (sáu) tháng tù về tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Thời hạn từ tỉnh từ ngày 31/01/2024.

(34). Áp dụng khoản 3, khoản 4 Điều 356; điểm b, s, t, v, x khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 54, 58 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Hải T53 04 năm tù về tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Thời hạn tử tỉnh từ ngày 31/01/2024.

- Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với 16 bị cáo sau:

(35). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, 8 khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Đặng Thị H36 30 (ba mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường L, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thửthách.

(36). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm c, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Văn S39 30 (ba mươi) tháng tủ, nhưng cho hưởng án treo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường C, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(37). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, a khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Trương Văn T42 30 (ba mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường K, quận BĐ, thành phố Hà Nội, giảm sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(38). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Đ48 24 (hai mươi bốn) thẳng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Lửa đảo chiếm đoạt tài sản, thời gian thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường TM, quận N, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(39). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Phạm Thị H193 N65 30 (ba mươi) tháng tủ, nhưng cho hưởng án treo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường LK, quận HĐ, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thứ thách.

(40). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Trịnh Thị Út X59 30 (ba mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên ân. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường C, quận N, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thửthách.

(41). Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Phạm Thanh H62 30 (ba mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường TM, quận N, thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(42). Áp dụng khoản 3, khoản 4 Điều 356; điểm b, s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Lê Thị Tuyết H56 03 (ba) năm tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ", thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách, (43). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 41, 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Đỗ 149 Thị Huyền Trang 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Thao túng thị trường chứng khoán, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường MĐ, quận N, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(44). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 41, 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N15 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Thao túng thị trường chứng khoán, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cảo cho Uỷ ban nhân dân phường MĐ, quận N, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(45). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 41, 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Hoàng Thị H18 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Thao túng thị trường chứng khoán, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường MĐ, quận N, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(46). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm 5 khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoán 1 Điều 52: Điều 41, 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T80 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Thao túng thị trường chứng khoán, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường BH, quận C, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(47). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 41, 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Trịnh Văn N77 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Thao túng thị trường chứng khoán, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường B, quận C, Thành phố Hả Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(48). Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 211; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 41, 54, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Trịnh Thị Thanh H83 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Thao túng thị trường chứng khoán, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường CN 2, quận B, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(49). Áp dụng điểm c khoản 2, 3 Điều 209, điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 41, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Dương Văn T68 24 (hai mươi bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán, thời gian thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên ân. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường Yên Hoà, quận C, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(50). Áp dụng điểm c khoản 2, 3 Điều 209; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 41, 58, 65 BLHS; Xử phạt bị cáo Phạm Trung M71 18 (mười tám) tháng tủ, nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán", thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cảo cho Uỷ ban nhân dân Giảng Võ, quận BĐ, Thành phố Hà Nội, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

* Đối với các bị cáo được hưởng án treo: Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Luật Thi hành án hình sự.

- Tạm giữ số tiền 24.500.143.523 đồng (Hai mươi tư tỷ năm trăm triệu một trăm bốn mươi ba nghìn năm trăm hai mươi ba đồng) trong tài khoản ngân hàng số 19024xxxx4xxxx của bà Phạm Tủ A790 gửi tại Ngân hàng kỹ thương Việt Nam để chuyển Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội nhằm đảm bảo cho việc thì hành bản án đối với 15 bị cáo bị phạt tiền về tội Thao túng thị trường chứng khoán gồm: Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Thúy N7, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Nguyễn Thị Hạ D228, Trịnh T86, Hương Trần Kiều D9, Chu Tiến V107, Nguyễn Quỳnh A12, Nguyễn Thị Thanh P124, Nguyễn Thị Thị T169, Bùi Ngọc T125, Trần Thị L140, Quách Thị Xuân T134 (15 bị cáo bị phạt tổng số tiên là 36 tỷ đồng).

Số tiền thi hành án về hình phạt tiền còn thiếu của 15 bị cáo nêu trên là 11.499.856.477 đồng sẽ được tiếp tục đối trừ với số tiền của bị cáo Trịnh Văn Q1 đã nộp khắc phục hậu quả đang còn thừa tại cơ quan Thi hành án.

* Về hình phạt bổ sung Cẩm các bị cáo phạm tội "Thao túng thị trường chứng khoán", “Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán", "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ" gồm: Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thuỷ N236, Hương Trần Kiều D9, Trịnh Văn Đ78, Nguyễn Văn M8, Trịnh T86, Nguyễn Thị Hạ D228, Nguyễn Quỳnh A12, Chu Tiến V107, Nguyễn Thị Thanh P124, Bùi Ngọc T125, Nguyễn Thị Thị T169, Quách Thị Xuân T134, Trần Thị L140, Trịnh Văn N77, Trịnh Thị Thanh H83, Nguyễn Thị N15, Hoàng Thị H18, Đỗ Thị Huyền T21, Nguyễn Quang T80, Lê Công Đ174, Dương Văn T68, Phạm Trung M175; Trần Đắc S51, Lê Hải T53, Trầm Tuấn V108, Lê Thị Tuyết H56 làm việc trong lĩnh vực chứng khoán trong thời hạn 01 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính.

- Cấm các bị cáo Nguyễn Ngọc Tĩnh, Lê Văn T120, Trần Thị H111 làm việc trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán trong thời hạn 01 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính.

III. Về trách nhiệm dân sự và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sự, Các Điều 357, 468, 584, 585, 587, 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

1. Đối với tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản":

* Xác nhận tại cấp phúc thẩm các bị cáo đã nộp khắc phục hậu quả của vụ án tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, cụ thể như sau:

- Bị cáo Trịnh Văn Q1: nộp 203 tỷ đồng tại Biên lai số 0067366 ngày 13/12/2024; nộp 150 tỷ đồng tại Biên lai số 0067461 ngày 19/12/2024; nộp 25 tỷ đồng tại Biên lai số 0068560 ngày 19/3/2025, nộp 100 tỷ đồng tại Biên lai số 0068798 ngày 11/4/2025; nộp 1,400.050.000.000 đồng tại Biên lai số 0069151 ngày 05/6/2025.

- Bị cáo Trịnh Thị Minh H2: nộp 01 tỷ đồng tại Biên lai số 0067477 ngày 20/12/2024; nộp 03 tỷ đồng tại Biên lai số 0067525 ngày 25/12/2024; nộp 88 tỷ đồng tại Biên lai số 0068313 ngày 28/02/2025, nộp 40 tỷ đồng tại Biên lai số 0068427 ngày 10/3/2025; nộp 100 tỷ đồng tại Biên lai số 0068485 ngày 17/3/2025; nộp 22 tỷ đồng tại Biên lai số 0068557 ngày 19/3/2025.

- Bị cáo Trịnh Thị Thúy N7: nộp 3,9 tỷ đồng tại Biên lai số 0067514 ngày 24/12/2024, nộp 30 tỷ đồng tại Biên lai số 0068130 ngày 19/02/2025, nộp 05 tỷ đồng tại Biên lai số 0068139 và 07 tỷ đồng tại Biên lai số 0068145 cùng ngày 20/02/2025, nộp 13 tỷ đồng tại Biên lai số 0068165 ngày 21/02/2025, nộp 05 tỷ đồng tại Biên lai số 0068187 ngày 25/02/2025, nộp 22 tỷ đồng tại Biên lai số 0068314 ngày 28/02/2025.

* Xác nhận các bị hại đã được bồi thường toàn bộ theo quyết định của bản ản sơ thẩm, gồm các ông bà: Trần Nhị Khánh D222, Kiều Như N223, Trần Xuân M224, Lương Phủ S225, Lê Võ Hương G240, Nguyễn Quốc Laương, Trần Thụy Vân L243, Phạm Kim K244, Trịnh Công B327, Trương Thanh T328, Huỳnh Tổ L329, Lê Thanh H246, Vũ Chí H467, Nguyễn Công H249, Đặng Thị My M250, Phạm Minh C66, Vũ Văn H253, Hoàng Ngọc P254, Huỳnh Thị Kim A332, Nguyễn Phương Đ256, Nguyễn Danh N333, Nguyễn Hữu L260, Nguyễn Thị Y109, Phạm Trường H334, Đỗ Nguyễn Việt H335, Ngô Viết M264, Nguyễn Minh H265, Nguyễn Anh Tuần, Viên Quốc Đ272, Lê Xuân Q274, Vũ Thị X278, Trần Quốc H279, Nguyễn Văn D281, Nguyễn Tiến H282, Nghiêm Xuân H337, Đặng Đỗ M283, Nguyễn Văn K338, Dương Đức T291, Đinh Thị L92, Phùng Văn T293, Nguyễn Văn C294, Nguyễn Huyền T95, Trịnh Thị H340, Nguyễn Xuân T297, Mai Thành Đ298, Nguyễn Thị Hải H299, Nguyễn Quang T300, Nguyễn Thế A302, Lê Văn T304, Nguyễn Thị Thu T341, Vũ Thị T342, Bùi Văn S305, Trần Minh H343, Vũ Tuấn A344, Nguyễn Quang Thùy, Lê Thị Thu T309, Nguyễn Thị Thanh H310, Ngô Thị N346, Nguyễn Như H347, Nguyễn Văn D312, Trần Thị T313, Vương Ngọc V314, Trần Thị L315, Lê Bá Đ316, Nguyễn Văn T317, Nguyễn Thị M635 H318, Trương Đăng N319, Phạm Thị Thủy L320, Nguyễn Minh C322, Nguyễn Văn K331, Tạ Minh P323, Lê Tư Thế, Trần Đức H325, Chấu Chân K326.

Xác nhận bị hại Nguyễn Văn S350 đã được bồi thường với số tiền 145.000.000 (Một trăm bốn mươi lăm triệu) đồng.

* Xác nhận bị cáo Trịnh Văn Q1 đã nộp tiền bồi thường cho các bị hại ở Phụ lục 1 theo các Biên lai thu tiền của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội như sau:

STT

Họ tên bị hại

Số tiền (VND)

Số/ngày biên lai

1

Nguyễn Quang P219

216.450

0068584 ngày 21/3/2025

2

Lê Thị N220

6.493.500

0068583 ngày 21/3/2025

3

Trương Minh C221

360.750

0068582 ngày 21/3/2025

4

Lee Tae H792

7.125.000

0068585 ngày 21/3/2025

5

Võ Thị Hồng G793

1.443.000

0068586 ngày 21/3/2025

6

Chu Hòa T794

793.650

0068587 ngày 21/3/2025

7

Đào Thị Thu H795

432.900.000

0068588 ngày 21/3/2025

8

Vũ Thị N796

288.600

0068589 ngày 21/3/2025

9

Lê Hùng T797

216.450

0068590 ngày 21/3/2025

10

Hồ Hữu Minh T798

1.010.100

0068591 ngày 21/3/2025

11

Trương Hoàng H799

72.150

0068592 ngày 21/3/2025

12

Nguyễn Minh N800

1.803.750

0068593 ngày 21/3/2025

13

Kim Guy L801

1.082.250.000

0068594 ngày 21/3/2025

14

Huang Ji A802

144.300.000

0068595 ngày 21/3/2025

15

Nguyễn Việt H351

360.750

0068626 ngày 24/3/2025

16

Phạm Quang T803

72.150

0068619 ngày 24/3/2025

* Xác nhận các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 đã liên đới bồi thường xong cho các bị hại số tiền đã chiếm đoạt là 2.559.593.400 đồng và bồi thường cho những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan số tiền là 1.783.280.002.038 đồng, Tổng cộng tại cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2 đã bồi thường cho các bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liền quan số tiền là: 1.785.839.595.438 đồng (số tiền bồi thường cụ thể cho mỗi người được nêu tại Phụ lục 1, Phụ lục 3.1 kèm theo Bản án hình sự sơ thẩm số 426/2024/HSST ngày 05/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội).

Đối với các nhà đầu tư khác là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hiện chưa có yêu cầu bồi thường, có quyền khởi kiện trong vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.

* Đối với các nhà đầu tư đã bán cổ phiếu mã chứng khoán ROS cho nhà đầu tư khác có quyền tự thoả thuận với bên mua về việc hoàn trả giá trị bị năng khống, nếu có tranh chấp các bên có quyền giải quyết trong vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật,

2. Đối với tội danh "Thao túng thị trường chứng khoán":

* Xác nhận các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thuỷ N236 đã nộp xong khoản tiền liên đới truy nộp sung công quỹ nhà nước: Số tiền hướng lợi bất chính từ hành vi Thao túng thị trường chứng khoán là: 684.246.716.936 đồng (bao gồm cả số tiền 570.000.000 đồng các bị cáo khác đã nộp để khắc phục hậu quả và đã trừ đi số tiền hưởng lợi tử hành vì thao túng mã chứng khoản AMD).

- Xác nhận Công ty Cổ phần Chứng khoán B đã nộp 42.471.521.663 đồng để sung công quỹ nhà nước tại Biên lai số 0069167 ngày 06/6/2025 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.

- Đối với khoản tiền 3:745.000.000 đồng do các bị cáo khác trong vụ án đã tự nguyện nộp để khắc phục hậu quả chung cho vụ án tại cấp phúc thẩm, được cơ quan 153 thi hành án thực hiện việc khắc phục hậu quả trả cho những người được bồi thường chung trong vụ án theo bản án sơ thầm đã tuyên, cụ thể như sau:

- Bị cáo Hương Trần Kiều D9: nộp 300.000.000 đồng tại Biên lai số 0068332 ngày 06/3/2025, - Bị cáo Nguyễn Thị Thanh P124: nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067471 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Nguyễn Thị Thị T169: nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067472 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Trần Thị L140: nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067469 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Quách Thị Xuân T134: nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067468 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Trịnh Văn Đ78: nộp 200.000.000 đồng tại Biên lai số 0067481 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Nguyễn Văn M8: nộp 150.000.000 đồng tại Biên lai số 0067480 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Nguyễn Thị Hạ D228: nộp 50.000.000 đồng theo Biên lai số 0067479 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Nguyễn Văn T101: nộp 25.000.000 đồng tại Biên lai số 0067490 ngày 23/12/2024.

- Bị cáo Hoàng Thị Thu H179: nộp 100.000.000 đồng tại Biên lai số 0067478 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Trần Thế A117: nộp 300.000.000 đồng tại Biên lai số 0068562 ngày 20/3/2025 và 1.000.000.000 đồng tại Biên lai số 0068609 ngày 24/3/2025.

- Bị cáo Đỗ Quang L128: nộp 200.000.000 đồng tại Biên lai số 0068622 ngày 24/3/2025.

- Bị cáo Trầm Tuấn V108: nộp 150.000.000 đồng tại Biên lai số 0067508 ngày 24/12/2024.

- Bị cáo Chu Tiến V107: nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067399 ngày 18/12/2024.

- Bị cáo Trịnh Tuấn: nộp 50.000.000 đồng tại Biên lai số 0068447 ngày 12/3/2025.

- Bị cáo Nguyễn Thanh B24: nộp 500.000.000 đồng tại Biên lai số 0068334 ngày 06/3/2025 và 200.000.000 đồng tại Biên lai số 0028493 ngày 30/5/2025.

- Bị cáo Lê Thành V192: nộp 300.000.000 đồng tại Biên lai số 0068333 ngày 06/3/2025.

- Bị cáo Nguyễn Bình P45: nộp 20.000.000 đồng tại Biên lai số 0067467 ngày 20/12/2024.

- Bị cáo Lê Hải T53: nộp 100.000.000 đồng theo Biên lai số 0068417 ngày 10/3/2025.

* Số tiền 21.077.925.071,5 đồng do bị cáo Trịnh Văn Q1 nộp thừa tại cơ quan thi hành án tiếp tục được đối trừ với số tiền nộp cho hình phạt tiền còn thiếu của 15 bị cáo là 11.499.856.477 đồng (21.077.925.071,5 đồng - 11.499.856.477 đồng = 9.578.068.594,5 đồng). Chấp nhận sự tự nguyện của bị cáo Trịnh Văn Q1 về việc sung công quỹ Nhà nước số tiền 9.578.068.594,5 đồng.

* Trả lại cho bị cáo Trịnh Thị Minh H2 1.851.910.553,5 đồng là số tiền còn lại sau khi bị cáo đã thi hành xong phần trách nhiệm dân sự của bị cáo và án phí dân sự, hình sự sơ thẩm.

* Trả lại cho bị cáo Trịnh Thị Thúy N7 2.223.083.064 đồng là số tiền còn lại sau khi bị cáo đã thi hành xong phần trách nhiệm dân sự của bị cáo và 200.000 đồng ản phí hình sự sơ thẩm.

3. Các biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm thi hành án:

Áp dụng: Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 128, 129 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Hủy bỏ toàn bộ các lệnh kê biên, phong tỏa cũng như mọi hạn chế giao dịch tài sẵn, tài khoản đối với tất cả các bị cáo trong vụ án nếu như các bị cáo không bị kẻ biên, phong tỏa hoặc hạn chế giao dịch tài sản, tài khoản bởi một sự việc, vụ án khác; cụ thể như sau:

3.1. Hủy các Lệnh kê biên tài sản, phong toả tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoản, các yêu cầu ngăn chặn giao dịch do Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, Ngân hàng nhà nước, Uỷ ban Chứng khoán nhà nước đã áp dụng, cụ thể như sau:

* Hủy bỏ Kê biên tài sản:

(1). Đối với Trịnh Thị Minh H2: 04 thửa đất và tài sản gắn liền với đất, gồm:

(1) Tải sản là “Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: AI 853370 do UBND quận C, thành phố Hà Nội cấp ngày 26/06/2020, được cập nhật đăng ký thay đổi quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đứng tên bà Trịnh Thị Minh H2, tại địa chỉ NV-A38, KĐT Trung Hòa - Nhân Chính, phường Trung Hòa, quận C, thành phố Hà Nội" gồm 158,3m² nhà, đất tại: NV-A38, KĐT Trung Hòa - Nhân Chính, phường Trung Hòa, quận C, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 72/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an, hiện đang bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Minh H2 tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Thành theo Hợp đồng cho vay số 20092005/2020-HDCV/NHCT188-HUE ngày 18/02/2020 và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 00997.2020/HĐTC quyền số 01 TP/HĐGD ký ngày 17/02/2020, Văn phòng Công chứng Đông Đô, Hà Nội.

(2) Tài sản là "Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CO 899004 và CÓ 899005 đứng tên ông Vũ Anh T6 và bà Trịnh Thị Minh H2, tại địa chỉ Ô số 4, dây A, lô BT6, khu đô thị Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, thành phố Hà Nội" diện tích 200,0m² nhà, đất tại: ô số 4 dãy A, Lô BT6, khu đô thị mới Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội; theo Lệnh kê biên tài sản số: 73/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an; hiện đang bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của ông Vũ Anh T6 và bà Trịnh Thị Minh H2 theo Hợp đồng tín dụng số 01/2018/121353/HĐTD ký ngày 20/11/2018 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh TX và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 5149.2018/HĐGD, quyền số 04/TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 20/11/2018, Văn phòng Công chứng TX, Hà Nội.

(3) Tài sản là "Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CO 869794 đứng tên bà Trịnh Thị Minh H2, tại địa chỉ Ô số 20, dây A, lô BT6, khu đô thị Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, thành phố Hà Nội" diện tích 200,0m² nhà, đất tại: Ô số 20 lô BT6 dãy A, khu đô thị mới Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 74/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an, hiện đang bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Minh H2 theo Hợp đồng tín dụng số 01/2018/1739542/HĐTD ký ngày 01/10/2018 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thành Xuân và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 4238.2018/HĐGD, quyền số 03/TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 28/09/2018 tại Văn phòng Công chứng TX, Hà Nội (4) Tài sản là "Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: DA 870968 do sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội cấp ngày 20/04/2021 đứng tên ông Vân Anh Tuân và bả Trịnh Thị Minh H2, tại địa chỉ Ô 20, khu B đấu giá quyền sử dụng đất nhà vườn BT4, phường Mỹ Đình U, quận N, thành phố Hà Nội" có diện tích 125,3m² nhà, đất tại: B20 khu nhà vườn BT4 Mỹ Đình, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 75/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an; hiện đang bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Minh H2 tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thành An theo Hợp đồng cho vay số 08/2021-HDCV/NHCT320-HUETUAN ngày 10/8/2021 và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 1160 quyển số 02/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 20/07/2021 tại Văn phòng Công chứng Phùng Quân, Hà Nội.

(2). Đối với Trịnh Văn Q1: 03 thửa đất và tài sản gắn liền với đất, gồm:

(5) Tài sản là “Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 732873, số vào số cấp GCN: CS-NTL: 06485 do sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội cấp ngày 27/04/2017 đứng tên ông Trịnh Văn Q1 và bà Lê Thị Ngọc D, tại địa chỉ Lô B30-BT6-B32-BT6+B12-BT6+B10-BT6 khu ĐTM Mỹ Đình II, quận N, thành phố Hà Nội" có diện tích 799,6m² nhà đất, tại: Lô B30-BT6+B32 BT6+ B12 - BT6 khu ĐTM Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 76/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an; (hiện đang đảm bảo nghĩa vụ cho các công ty sau tại Ngân hàng TMCP Phương Đông - Chi nhánh Hà Nội (Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất sổ công chứng 1089/2017/HĐTC; Quyến số 01/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 10/05/2017 và Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nghĩa vụ 2) số công chứng 2221/2020/HĐTC; Quyền số 01/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/10/2020);

(6) 199,9m² nhà đất tại: B34 - BT6, khu ĐTM Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 77/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an; hiện đang bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Thuý N167 và ông Nguyễn Văn M8 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chỉ nhánh TX theo các Hợp đồng tín dụng số 01/2019/2464340/HĐTD kỳ ngày 31/7/2019, Hợp đồng tín dụng số 54 01/2020/2464340/HĐTD ký ngày 30/11/2020 và Hợp đồng tín dụng số 01/2021/2464340/HĐTD ký ngày 18/5/2021 và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 3581.2019/HĐGD, quyền số 03/TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 29/7/2019, Văn phòng Công chứng TX, Hà Nội.

(7) 199,9m² nhà, đất tại: Ô 36, dãy B, Lô BT6, khu ĐTM Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 78/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an, hiện đang báo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Thuý N167 và ông Nguyễn Văn M8 tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh TX theo các Hợp đồng tín dụng số 01/2019/2464340/HĐTD ký ngày 31/7/2019, Hợp đồng tín dụng số 01/2020/2464340/HĐTD ký ngày 30/11/2020 và Hợp đồng tín dụng số 01/2021/2464340/HĐTD ký ngày 18/5/2021 và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 4982.2019/HĐGD, quyền số 04/TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 30/1172020, Văn phòng Công chứng TX, Hà Nội.

(3) Đổi với Trịnh Thị Thúy N7: 02 thửa đất và tài sản gắn liền với đất, gồm:

(8) Tài sản là "Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đứng tên ông Nguyễn Văn M8 và bà Trịnh Thị Thúy N7, tại địa chỉ Ô số 2, dãy A, lô BT6, khu đô thị Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, thành phố Hà Nội" có diện tích 193,1m² nhà, đất tại: Ô số 2, dây A, lô BT6, khu đô thị mới Mỹ Đình II, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 79/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an, hiện đang đàm bảo nghĩa vụ vay tại Ngân hàng TNHH MTV Public Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.

(9) Tài sản là “Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liên với đất số: DA 870967 do sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội cấp ngày 12/04/2021 đứng tên ông Nguyễn Văn M8 và bà Trịnh Thị Thúy N7, tại địa chỉ Ô 18, khu B đấu giá quyền sử dụng đất nhà vườn HT4, phường Mỹ Đình II, quận N, thành phố Hà Nội" có diện tích 165,7m² nhà, đất tại: Ô 18, BT4, phường Mỹ Đình II, quận N, TP Hà Nội, theo Lệnh kê biên tài sản số: 80/LKB-VPCQCSĐT ngày 29/9/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an, hiện đang đảm bảo nghĩa vụ trả nợ vay của bà Trịnh Thị Thuý N167 và ông Nguyễn Văn M8 tại Ngân hàng TMCP Đầu từ và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh TX theo các Hợp đồng tín dụng số 04/2019/2464340/HĐTD ký ngày 31/7/2019, Hợp đồng tin dụng số 01/2020/2464340/HĐTD ký ngày 30/11/2020 và Hợp đồng tín dụng số 01/2021/2464340/HĐTD ký ngày 18/5/2021 và theo Hợp đồng thế chấp Bất động sản số công chứng 2052/HĐTC, quyền số 02/2021, TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 18/5/2021 tại Văn phòng Công chứng TX, Hà Nội).

3.2. Hủy bỏ Phong toả tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán: Theo các Lệnh phong toả của Cơ quan Cảnh sát điều tra, các Quyết định về việc phong toả tài khoản chứng khoán số 19/QĐ-UBCK ngày 10/01/2022, số 214/QĐ-UBCK ngày 21/4/2022, 88 653/QĐ-UBCK ngày 03/8/2023 Uỷ ban chứng khoán nhà nước, Ngân hàng nhà nước đã áp dụng đối với các tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán (Chi tiết tại Phụ lục 4, 5 kèm theo Bản án hình sự sơ thẩm số 426/2024/HSST ngày 05/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội).

3.3. Đối với các tài khoản ngân hàng, tải khoản chứng khoản khác ngoài tài khoản trong Phụ lục nêu trên: Đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, Ngân hàng nhà nước, Uỷ ban Chứng khoán nhà nước tiếp tục xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

3.4. Đối với các bất động sản, số cổ phiếu các bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang thế chấp giao dịch ký quỹ với các Ngân hàng Vietinbank, OCB, Public Bank, BIDV (ngoài 05 bất động sản như nêu trên còn nhận thế chấp 800.000 cổ phiếu GAB của Trịnh Văn Q1), Công ty chứng khoán Mirae ASSET (Việt Nam), đã nhận thế chấp cho giao dịch ký quỹ 32.266.730 cổ phiếu F của Trịnh Văn Q1, các hợp đồng thế chấp có đăng ký giao dịch bảo đảm và hợp đồng giao dịch ký quỹ chứng khoán theo quy định thì được giải quyết theo quy định của pháp luật.

Hủy bỏ ngăn chặn giao dịch tài sản của các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Theo Công văn số 997/VPCQCSĐT ngày 05/4/2022 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an có gửi Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các đơn vị liên quan tạm dừng biến động (giao dịch chuyển nhượng, mua, bản, cho, tặng, cầm cổ, thế chấp...) đối với tài sản (bất động sản, cổ phần vốn góp, cổ phiếu...) đứng tên Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thúy N7, Lê Thị Ngọc D (Trịnh Văn Q1: 215.436.257 cổ phiếu F; 218.340.338 cô phần tại Công ty CP Đầu tư kinh doanh phát triển bất động sản FHOMES; 7.614.000 cổ phiếu GAB tại Công ty CP Đầu tư khai khoáng và quản lý tài sản F; 1.045.325.000 cổ phần tại Công ty CP Quản lý vốn và tài sản F Holding; 3.156.000 cổ phiếu ART tại Công ty CP Chứng khoán B, 669.000 cổ phần tại Công ty CP Sản xuất và Xuất nhập khẩu Nông sản Pam; 11.450.000 cổ phần tại Công ty CP F Travel; 11.022.000 cổ phần tại Công ty CP Trịnh Gia Việt Nam và những người bạn; 60.000 cổ phần tại Công ty CP Từ thiện xã hội F).

3.5. Về số tiền và vật chứng đã thu giữ:

- Các số tiền đã được thu giữ hoặc được tự nguyện nộp tại cơ quan thi hành án để khắc phục hậu quả trả cho người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo bản án hình sự sơ thẩm đã tuyên được cơ quan thi hành án thực hiện theo quy định pháp luật.

- Trả lại các đồ vật, tài sản đã thu giữ của các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Trịnh Thị Thuý N167, Hương Trần Kiều D9, Nguyễn Thiện P146, Nguyễn Quỳnh A12 và Công ty Cổ phần chứng khoán B (chỉ tiết nêu tại Phụ lục 6 kèm theo Bản án hình sự sơ thẩm số 426/2024/HSST ngày 05/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội).

- Trả lại các tài sản khác cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác là: Công ty CP T, Công ty F, Công ty CP Nông dược HAI; Trả lại cho các Công ty có các dấu tròn bị thu giữ và bị cáo Lê Văn S39 các đồ vật tài sản đã bị thu giữ (chi tiết nêu tại Phụ lục 6 kèm theo Bản án hình sự sơ thẩm số 426/2024/HSST ngày 05/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội).

- Tịch thu, tiêu hủy các con dấu chữ ký, dấu chức danh của các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được sử dụng vào việc phạm tội (chi tiết nêu tại Phụ lục 6 kèm theo Bản án hình sự sơ thẩm số 426/2024/HSST ngày 05/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội).

4. Về ản phí phúc thẩm:

- Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo có kháng cáo không phải nộp án phi hình sự phúc thẩm.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Bị hại tại phụ lục 2 của bản án sơ thẩm và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại phụ lục 3.1, 3.2 của bản án sơ thẩm kháng đãn phần dân sự phải chịu 300.000 đồng, được đổi trủ với số tiền tạm ứng án phí nhưnep tại các Biên lai thu tiền của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội (kèm theo danh sách bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo). - Xác nhận các bị cáo đã nộp án phí sơ thẩm tại các Biên lai thu tiến của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, cụ thể như sau:

+ Bị cáo Trịnh Văn Q1 nộp 1.467.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm tại Biên lai số 0069193 ngày 10/6/2025.

+ Bị cáo Trịnh Thị Minh H2 nộp 163.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm tại Biên lai số 0069191 ngày 10/6/2025.

+ Các bị cáo Trịnh Văn Q1, Trịnh Thị Minh H2, Nguyễn Quỳnh A12, Nguyễn Thị Thanh P124, Trần Thị L140, Trịnh Văn Đ78, Đỗ Như T131, Đàm Mai H100, Nguyễn Ngọc T173, Lê Văn T120, Trần Thị H111, Lê Công Đ174, Nguyễn Thiện P74, Trịnh Văn N77, Nguyễn Thanh B24, Lê Thành V192, Nguyễn Tiến D30, Lê Tân S33, Nguyễn Bình P45, Nguyễn Minh Đ48, Lê Hải T143, Phạm Thanh H62 đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm lần lượt theo các Biên lai số 0069194 ngày 10/6/2025, số 0069192 ngày 10/6/2025, số 0066243 ngày 12/9/2024, só 0066065 ngày 20/8/2024, số 0066067 ngày 20/8/2024, số 0065978 ngày 15/8/2024, số 0066120 ngày 23/8/2024, số 0068169 ngày 24/02/2025, số 0069283 ngày 17/6/2025, số 0069282 ngày 17/6/2025, số 0065972 ngày 15/8/2024, số 0069286 ngày 18/6/2025, số 0065973 ngày 15/8/2024, số 0065979 ngày 15/8/2024, số 0065997 ngày 16/8/2024, số 0065984 ngày 15/8/2024, số 0066051 ngày 19/8/2024, số 0067545 ngày 26/12/2024, số 0065971 ngày 15/8/2025, $6 0066193 ngày 30/8/2024, số 0066261 ngày 16/9/2024, số 0065998 ngày 16/8/2024.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thao túng thị trường chứng khoán (vụ án cựu chủ tịch FLC Trịnh Văn Quyết và đồng phạm) số 598/2025/HS-PT

Số hiệu:598/2025/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2025
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;