TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 955/2024/HS-PT NGÀY 30/09/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Trong các ngày 25 và 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 632/2024/TLPT-HS ngày 15 tháng 7 năm 2024 đối với các bị cáo Mai Văn H, Phạm Đức M do có kháng cáo của các bị cáo Mai Văn H, Phạm Đức M; bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2024/HS-ST ngày 31/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Bị cáo có kháng cáo:
1. Mai Văn H, sinh ngày 20/04/1991 tại Thanh Hóa; nơi cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước; chỗ ở hiện nay: tổ A ấp E xã T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn H1, sinh năm 1966 và bà Trần Thị D, sinh năm 1970; vợ: Võ Thị Thu H2, sinh năm 1990; con: 02, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019;
Tiền án: không, tiền sự: không;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27/4/2021, đến ngày 25/8/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lĩnh (vắng mặt).
2. Phạm Đức M (Minh P), sinh ngày 22/05/1988 tại Đồng Nai; nơi cư trú: ấp T, xã Đ, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Thái B (đã chết) và bà Triệu Thị H3, sinh năm 1953; vợ: Võ Thị Như T, sinh năm 1996 (đã ly hôn); con: 01 con sinh năm 2018;
Tiền án: không, tiền sự: không;
Bị cáo tại ngoại (vắng mặt, có đơn xin hoãn phiên tòa).
Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Mai Văn H, Phạm Đức M: Luật sư Lê Thị Ánh T1, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (Có mặt, vắng mặt khi tuyên án).
Bị hại có kháng cáo:
1. Công ty Cổ phần T9 (viết tắt là công ty T9). Địa chỉ trụ sở: 2 H, phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Thiên H4 - Giám đốc (Vắng mặt).
2. Công ty Cổ phần T10 (viết tắt là công ty T10); địa chỉ trụ sở: P, C N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn S - Tổng Giám đốc (Vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của Công ty T9 và công ty T10: Ông Nguyễn Tuấn D1, sinh năm 19/01/1991; địa chỉ: 152/61b, đường C (nay là Nguyễn Văn T2), phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt tại phiên tòa);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty T10 và Công ty T9: Ông Phạm Nguyên P, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (Có mặt, vắng mặt khi tuyên án).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có kháng cáo: Công ty cổ phần T11 (viết tắt là công ty T11); địa chỉ: đường N, khu công nghiệp P, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Seo K (Vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Thanh H5, sinh năm 1995; bà Nguyễn Thị Tâm U, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1981 (có mặt tại phiên tòa, ông H5 vắng mặt khi tuyên án);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công ty T11: Ông Trương Xuân T3 (Có mặt, vắng mặt khi tuyên án) và ông Nguyễn Trọng L (vắng mặt), thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B;
Ngoài ra còn có bị cáo khác không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Công ty cổ phần T11 (gọi tắt là công ty T11), là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực luyện cán thép. Người đại diện theo pháp luật của công ty là ông Eom Gi C - Tổng giám đốc (Quốc tịch Hàn Quốc) (nay là ông Seo K (Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đăng ký thay đổi lần thứ 23, ngày 10 tháng 01 năm 2024). Ngày 02/01/2020, ông C ký Giấy ủy quyền cho ông Y Joo Han được quyền ký kết các văn bản liên quan đến hoạt động kinh doanh của công ty. Để có nguồn nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khoảng thời gian từ ngày 23/07/2020 đến 11/10/2020, ông H6 ký 05 Hợp đồng mua sắt thép phế liệu với Công ty P3 do ông Cho Han C1 làm Giám đốc.
Để có nguồn hàng cung cấp, ông Cho Han C1 đại diện Công ty P3 ký hợp đồng mua sắt thép phế liệu với nhiều doanh nghiệp và cá nhân trong đó có 04 doanh nghiệp là: công ty TNHH K1 (gọi tắt là công ty K1), công ty TNHH T12 (gọi tắt là công ty T12), công ty cổ phần T9 (gọi tắt là công ty T9), công ty cổ phần T10 (gọi tắt là công ty T10) (gọi tắt 04 doanh nghiệp này là 04 Nhà thầu phụ).
Để có nguồn hàng cung cấp cho Công ty P3, 04 nhà thầu phụ tiếp tục mua sắt thép phế liệu trên thị trường các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có các cá nhân là Lý Hoài N, Trần Thanh T4, Mai Văn H, Phạm Đức M, Nguyễn Văn S, Nguyễn Văn T5 (gọi chung là Nhà cung cấp).
Theo thỏa thuận thì các Nhà cung cấp sẽ trực tiếp giao hàng hóa (sắt thép phế liệu) tại kho phế liệu của công ty T11. Trước khi giao nhận thì các Nhà cung cấp sẽ báo cho 04 Nhà thầu phụ, 04 Nhà thầu phụ báo cho công ty P3 để gửi Email (thư điện tử) kèm danh sách các phương tiện sẽ vận chuyển hàng cho công ty T11 để Phòng thu mua phế liệu làm thủ tục đăng ký cho phương tiện vào cổng. Sau khi hoàn tất việc giao hàng, công ty T11 sẽ cung cấp phiếu cân cho lái xe mang về cho Nhà cung cấp, trong đó xác định khối lượng sắt thép phế liệu đã được Công ty T11 nhận. Các bên dựa vào chênh lệch giữa phiếu cân đầu vào và phiếu cân đầu ra để xác định khối lượng hàng mua bán, làm thủ tục thanh toán.
Về phương thức thanh toán: sau khi nhận được phiếu cân do công ty T11 cung cấp, 04 Nhà thầu phụ thanh toán cho đơn vị cung cấp sắt thép phế liệu đúng theo khối lượng chênh lệch và đơn giá đã thỏa thuận từ trước. 04 Nhà thầu phụ đã thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản cho các Nhà cung cấp. Có thời điểm công ty T11 và công ty P3 chưa thanh toán tiền hàng nhưng 04 Nhà thầu phụ đã ứng tiền để thanh toán trước theo số liệu trên phiếu cân đã bị nâng khống khối lượng.
Về quy trình giao nhận hàng được thực hiện như sau: lái xe của Nhà cung cấp điều khiển xe chở hàng đến công ty T11. Khi đến lượt vào giao hàng sẽ được hướng dẫn điều khiển xe lên cầu C để cân trọng lượng xe và hàng hóa đầu vào. Sau khi cân xong thì nhân viên trạm cân in phiếu cân thứ nhất gồm 2 liên để giao cho tài xế và Bộ phận thu mua. Sau đó, Lái xe tiếp tục điều khiển xe đến khu vực kiểm tra phế liệu của Nhà máy để bộ phận nhận phân loại phế liệu. Phế liệu đạt chất lượng sẽ xếp dỡ xuống bãi tập kết, phế liệu không đạt chất lượng thì để trên thùng xe để trả lại; lái xe sẽ điều khiển xe quay lại cầu C để cân trọng lượng xe và hàng hóa không đạt chất lượng. Tại đây, Nhân viên trạm cân in phiếu cân thứ hai gồm 02 liên: 01 liên đưa cho lái xe mang về giao các Nhà cung cấp, liên 02 thì giao cho Nhân viên phụ trách thanh toán của Phòng thu mua phế liệu. Bên bán và bên mua dựa vào 02 phiếu cân này để đối chiếu khối lượng hàng hóa giao nhận theo từng xe, làm căn cứ thanh toán.
Ngày 07/10/2020, ông Huỳnh Xuân A (nhân viên Công ty T11) phát hiện máy chủ quản lý hệ thống cân phế liệu WMS bị xâm nhập trái phép, có dấu hiệu xóa, chỉnh sửa dữ liệu cân nên báo cáo cho ông Park Young N1 (quản lý bộ phận IT của Công ty T11). Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, hệ thống cơ sở dữ liệu của Level 2-WMS bị mất dữ liệu, ông Park Young N1 yêu cầu Huỳnh Xuân A khôi phục dữ liệu của hệ thống quản lý cân WMS của nhà máy để tiếp tục vận hành. Đến 17 giờ 30 phút cùng ngày thì dữ liệu của hệ thống cân được khôi phục. Tuy nhiên, dữ liệu sau khi khôi phục xác định đã bị xóa tại Level 2-WMS nhưng dữ liệu tại Level 3-MES vẫn còn được lưu trữ tại máy chủ. Ông Park Young N1 đã phối hợp với ông Kim Kyoung Y1 (Quản lý bộ phận IT của Công ty T11) kiểm tra địa chỉ IP (là địa chỉ định danh giao thức kết nối mạng của máy tính) và MAC (là địa chỉ vật lý để định danh một card mạng gắn liền với máy) để truy vết, kiểm tra lịch sử xâm nhập thì phát hiện từ ngày 23/07/2020 đến ngày 11/10/2020, máy tính Công ty T11 cấp cho Bùi Xuân T6 có địa chỉ MAC 08:00:27:5A:8C:A5 (đây là vị trí được đặt tại nơi làm việc của T6), địa chỉ IP được cấp là 172.24.24.32 và 03 số địa chỉ IP ảo: là 172.27.10.51; 172.27.24.32 và 172.23.0.129 xâm nhập trái phép 365 lần vào máy chủ trạm cân để chỉnh sửa giảm khối lượng sắt thép phế liệu không đạt chất lượng trả về cho Nhà cung cấp, qua đó nâng khống 3.431 tấn sắt thép phế liệu so với thực tế giao nhận vào nhà máy.
Căn cứ Kết luận giám định số 3090/C09B ngày 29/07/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: "Máy tính có địa chỉ IP: "172.27.10.51" và IP: "172.23.0.129" có kết nối đến máy chủ để lập trình, sửa đổi cơ sở dữ liệu làm thay đổi thông số khối lượng của cân điện tử. Trong đó máy tính có địa chỉ IP: "172.27.10.51", địa chỉ MAC: "08:00:27:5A:8C:A5" là máy tính ảo trên phần mềm Oracle Virtual Box, địa chỉ IP được sử dụng bởi người dùng user: "Mr.Tong_ICT".
Căn cứ vào 365 phiếu cân bị chỉnh sửa khối lượng sắt thép phế liệu (trên phiếu cân có tên cụ thể từng Nhà cung cấp phế liệu, biển kiểm soát xe, ngày giờ cân) thể hiện khối lượng, trị giá sắt thép phế liệu bị chỉnh sửa liên quan đến 04 Nhà thầu phụ cụ thể như sau:
Công ty T9 đã thanh toán số lượng khống 1.744 tấn, trị giá 11.904.750.000 đồng. Cụ thể số hàng và giá trị chiếm đoạt của từng bị cáo như sau:
Lý Hoài N: 828 tấn trị giá 5.583.858.500 đồng;
Phạm Đức M: 425 tấn trị giá 2.815.681.000 đồng;
Mai Văn H: 416 tấn trị giá 2.865.522.000 đồng;
Trần Thanh T4: 67 tấn trị giá 463.705.000 đồng;
Ngoài ra còn 8 tấn do Mai Văn H mượn biển số xe của Nguyễn Văn T5 gắn vào ô tô khác để giao hàng vào có giá trị 56.760.000 đồng; tổng số tiền Công ty T9 đã trả cho 04 Nhà cung cấp là 11.785.526.500 đồng.
Công ty T10 đã thanh toán số lượng khống 1.143 tấn, trị giá: 7.820.890.000 đồng. Trong đó, công ty mua của:
Lý Hoài N: 100 tấn trị giá 645.920.000 đồng;
Phạm Đức M: 40 tấn trị giá 275.220.000 đồng;
Trần Thanh T4: 474 tấn trị giá 3.173.632.000 đồng;
Mai Văn H: 469 tấn trị giá 3.241.755.000 đồng và 60 tấn H mượn số xe của Nguyễn Văn T5 giao vào nhà máy trị giá 420.860.000 đồng.
Tổng số tiền Công ty T10 trả cho 04 Nhà cung cấp là 7.757.387.000 đồng.
+ Công ty K1: đã thanh toán số lượng khống 484 tấn, trị giá 3.144.900.000 đồng. Toàn bộ phế liệu Công ty mua và đã thanh toán cho Lý Hoài N 3.023.756.000 đồng.
Công ty T12: đã thanh toán số lượng khống 60 tấn, trị giá trị 369.600.000 đồng, Toàn bộ phế liệu Công ty mua và đã thanh toán cho Lý Hoài N với giá 356.160.000 đồng.
Kết quả điều tra bổ sung xác định 04 Nhà thầu phụ là Bị hại trong vụ án. Số tiền các công ty thanh toán cho các Bị cáo trên khối lượng sắt thép phế liệu bị chỉnh sửa là số tiền các Công ty bị thiệt hại. Do vậy, tổng số tiền các bị cáo chiếm đoạt của 04 Nhà thầu phụ là 22.922.829.500 đồng.
Sau khi phát hiện ra sự việc trên, ông Lee Hyun H7 (Giám đốc nhân sự và đào tạo của công ty T11) làm đơn tố cáo gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC03), Công an tỉnh B. Cơ quan điều tra tiến hành triệu tập Bùi Xuân T6 lên làm việc và T6 thừa nhận hành vi phạm tội và khai ra các đồng phạm khác. Căn cứ lời khai của T6 về các đối tượng liên quan, cơ quan điều tra tiến hành mở rộng điều tra xác định thêm hành vi phạm tội của 09 bị cáo gồm: Lý Hoài N, Mai Văn H, Giáp Tuấn A1, Nguyễn Xuân C2, Phạm Đức M, Phan Sỹ Q, Đoàn Phi L1, Nguyễn Văn L2 và Trần Thanh T4.
Trong quá trình điều tra, các đối tượng đã khai nhận về hành vi phạm tội như sau:
1/ Về phương thức, thủ đoạn, động cơ phạm tội, tỷ lệ ăn chia số tiền thu lợi bất chính:
1.1. Đối với nhánh cung cấp phế liệu của Lý Hoài N, Phạm Đức M và Trần Thanh T4, có sự tham gia của các đối tượng là nhân viên của công ty T11 gồm: Bùi Xuân T6, Nguyễn Xuân C2 (nhân viên Phòng quản lý sản xuất), Giáp Tuấn A1, Nguyễn Văn L2, Đoàn Phi L1, Phan Sỹ Q (tổ trưởng và nhân viên trạm cân):
Khoảng tháng 03/2020, Nguyễn Xuân C2 (nhân viên Phòng quản lý sản xuất) quen với Lý Hoài N thông qua Trần Thanh T4 (kinh doanh phế liệu). N tự giới thiệu là cán bộ của Công an thị xã P và có kinh doanh phế liệu. N nhờ C2 giúp cho việc cung cấp hàng hóa vào Công ty T11 được thuận lợi. Sau một thời gian cung cấp phế liệu thì N thấy lợi nhuận ít nên trao đối với C2, T4 và Phạm Đức M (cùng kinh doanh phế liệu) về việc N có người em bên vợ tên Bùi Xuân T6 đang làm ở bộ phận IT của công ty T11. Tòng có thể xâm nhập vào hệ thống quản lý cân của công ty T11 để chỉnh sửa dữ liệu cân trọng lượng xe nhập hàng vào nhà máy, qua đó sẽ thu được lợi nhuận cao hơn so với việc bán hàng bình thường. Vì vậy, N cùng Trần Thanh T4, Phạm Đức M và Nguyễn Xuân C2 cùng đi gặp Bùi Xuân T6 để bàn cách thực hiện. Tuy nhiên, khi gặp nhau bàn cách thực hiện thì Bùi Xuân T6 nói: muốn việc chỉnh sửa dữ liệu cân được trót lọt, phải có sự giúp sức của nhân viên Trạm cân phế liệu nhập vào nhà máy. Lý Hoài N nói C2 trao đối với Giáp Tuấn A1 (tổ trưởng trạm cân) để thỏa thuận, đề nghị A1 hợp tác thực hiện việc chỉnh sửa dữ liệu cân và được A1 đồng ý. Sau đó A1 liên hệ, trao đối với các nhân viên trạm cân do mình quản lý là Nguyễn Văn L2, Đoàn Phi L1, Phan Sỹ Q để phối hợp cùng thực hiện và được những người này đồng ý. Cách thức các bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt như sau:
Lý Hoài N quản lý toàn bộ biển số xe và thông tin xe vào giao hàng của Phạm Đức M, Trần Thanh T4 nên là người trực tiếp chỉ đạo việc xe của ai vào đổ hàng, khối lượng nâng khống mỗi xe bao nhiêu. Để thực hiện, N chỉ đạo C2 thành lập 02 nhóm (group) trên ứng dụng mạng xã hội Zalo: nhóm 1 tên là "Culi" gồm: C2, N, T6; nhóm 2 gồm: C2, A1 và các nhân viên trạm cân là L2, L1, Q để liên lạc với nhau. Khi có xe vào đổ hàng, N báo cho C2 và T6 biển số xe. T6 sẽ sử dụng máy tính để đăng nhập phần mềm quản lý dữ liệu cân nhằm chỉnh sửa dữ liệu khi xe lên cầu cân lần thứ hai (cân khối lượng xe và hàng bị trả lại) để hạ thấp trọng lượng của xe và hàng so với thực tế, nhằm tăng khối lượng sắt phế liệu nhập kho so với thực tế, từ đó chiếm đoạt tiền của các Nhà thầu phụ. Đồng thời, C2 báo cho 03 nhân viên trạm cân (tùy theo ca trực) để lưu ý khi cân và in phiếu cân (đã được T6 nâng khống) cho các lái xe mang về giao cho Lý Hoài N, Phạm Đức M và Trần Thanh T4 để báo cho các nhà Thầu phụ (Công ty T9, Hoàng Tấn P1, An Thịnh P2, V) làm thủ tục thanh toán tiền hàng.
Các đối tượng thỏa thuận tỷ lệ ăn chia số tiền thu lợi bất chính như sau: Nam, M, T4 sẽ lấy 1/2 số tiền thu được; 1/2 số tiền còn lại thì Bùi Xuân T6 được chia 1/3 số tiền; 2/3 còn lại thì Giáp Tuấn A1 được chia 1/2 số tiền và nhân viên trạm cân (L2, L1 hoặc Q, tùy theo ca trực) được chia 1/2 số tiền.
Đến ngày 10/8/2020, Giáp T7 An nghỉ việc thì tỷ lệ ăn chia của N, M, T4 vẫn giữ nguyên như trên. Riêng 1/2 số tiền còn lại được chia như sau: Bùi Xuân T6 được chia 1/2 số tiền, số còn lại thì chia cho nhân viên trạm cân (L2, L1 hoặc Q) tùy theo ca trực.
1.2. Đối với nhánh cung cấp phế liệu của bị cáo Mai Văn H, có sự tham gia của các nhân viên của Công ty T11 gồm: Bùi Xuân T6, Giáp Tuấn A1, Nguyễn Văn L2, Đoàn Phi L1, Phan Sỹ Q.
Khoảng tháng 07/2020, Mai Văn H tham gia cung cấp sắt thép phế liệu cho Công ty T11. Trong quá trình giao nhận và thanh toán tiền hàng, H phát hiện hệ thống cân có sự sai lệch so với số cân thực tế, có thể giúp cho H được hưởng lợi nên đã liên hệ, trao đối với Giáp Tuấn A1 để đề nghị A1 giúp việc nâng khống khối lượng sắt thép phế liệu cung cấp cho nhà máy. A1 nói phải có sự giúp đỡ của Bùi Xuân T6 thì việc chỉnh sửa dữ liệu cân mới thực hiện được. Sau đó, Giáp T7 A1 trao đối với T6 về đề nghị của Mai Văn H và được T6 đồng ý. Các bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt như sau:
Khi xe của Mai Văn H chuẩn bị lên cầu cân để xác định khối lượng đầu vào thì H thông báo biển số xe cho A1 để A1 báo cho T6. Tòng đăng nhập phần mềm quản lý dữ liệu cân để thực hiện việc chỉnh sửa dữ liệu. Sau khi T6 hoàn tất việc chỉnh sửa thì A1 sẽ in phiếu cân giao cho lái xe mang về giao cho H để thực hiện việc thanh toán. Khi An nghỉ việc thì Mai Văn H thông tin trực tiếp với Bùi Xuân T6 và các nhân viên trạm cân (Đoàn Phi L1, Nguyễn Văn L2, Phan Sỹ Q).
Mai Văn H và các đồng phạm thỏa thuận tỷ lệ ăn chia số tiền thu lợi bất chính như sau: sau khi được thanh toán tiền hàng, Mai Văn H giữ lại 40% số tiền hàng nâng khống; 60% số tiền còn lại được chia cho Bùi Xuân T6 (1/3 số tiền); số tiền còn lại được chia thành 2 phần, Giáp T7 An hưởng 1/2 số tiền, 1/2 còn lại được chia cho nhân viên trạm cân (L2, L1 hoặc Q) tùy theo ca trực.
Sau khi Giáp T7 An nghỉ việc, H vẫn chiếm hưởng 40% số tiền hàng nâng khống; 60% số tiền còn lại được chia đôi, Bùi Xuân T6 và nhân viên trạm cân (L2, L1 hoặc Q, tùy theo ca trực) mỗi người một nửa.
2/ Căn cứ vào khối lượng, trị giá tổng số sắt thép phế liệu bị nâng khống, ca trực, phiếu cân và tỷ lệ ăn chia thì số tiền chiếm đoạt cụ thể của từng Bị cáo như sau:
2.1. Bị cáo Lý Hoài N:
Tổng khối lượng sắt thép phế liệu của bị cáo Lý Hoài N bán cho các nhà thầu phụ đã bị chỉnh sửa nâng khống là: 828 tấn (Công ty T9) + 100 tấn (Công ty T10) + 484 tấn (Công ty K1) + 60 tấn (Công ty T12) = 1.472 tấn, trị giá 9.609.694.500 đồng. N đã hưởng lợi 1/2 số tiền là 4.804.847.250 đồng, cụ thể số tiền N chiếm đoạt của các Bị hại như sau:
+ Công ty T9: 2.791.929.250 đồng.
+ Công ty T10: 322.960.000 đồng.
+ Công ty K1: 1.511.878.000 đồng.
+ Công ty T12: 178.080.000 đồng.
Còn lại chia như sau:
+ Bùi Xuân T6: 2.267.021.834 đồng.
+ Giáp Tuấn A1: 270.803.584 đồng.
+ Nguyễn Văn L2: 363.816.417 đồng.
+ Đoàn Phi L1: 1.134.229.333 đồng.
+ Phan Sỹ Q: 768.976.083 đồng.
Lý Hoài N không chia tiền cho Nguyễn Xuân C2 mà chỉ hứa hẹn sau này sẽ giúp C2 mở bãi phế liệu nhưng chưa thực hiện được.
Trong số 1.472 tấn sắt thép của Lý Hoài N bị nâng khống thì có 212 tấn do N nhờ Nguyễn Văn S chở thêm để đến giao. S cũng là nhà cung cấp sắt thép phế liệu và có mối quan hệ với N. N đề nghị mỗi chuyến hàng do xe của S chở đến nhà máy thì cho N đổ thêm phế liệu lên xe của S để tiết kiệm chuyến xe vận chuyển và N sẽ trả công 8.000.000 đồng/chuyến, S đồng ý. Từ ngày 23/7/2020 đến ngày 11/10/2020, S cung cấp 22 chuyến xe có thêm phế liệu của N và được N trả công số tiền 176.000.000 đồng.
2.2. Bị cáo Trần Thanh T4:
Tổng khối lượng sắt thép phế liệu của bị cáo Trần Thanh T4 bán cho các nhà thầu phụ đã bị nâng khống là: 67 tấn (Công ty T9) + 474 tấn (Công ty T10) = 541 tấn, giá trị 3.637.502.000 đồng. T4 hưởng 1/2 số tiền là 1.818.751.000 đồng. Cụ thể số tiền T4 chiếm đoạt của các Bị hại như sau:
+ Công ty T9: 231.935.000 đồng.
+ Công ty T10: 1.586.816.000 đồng.
Còn lại chia như sau:
+ Bùi Xuân T6: 880.731.500 đồng.
+ Giáp Tuấn A1: 57.288.000 đồng.
+ Nguyễn Văn L2: 104.489.000 đồng.
+ Đoàn Phi L1: 446.017.000 đồng.
+ Phan Sỹ Q: 330.225.500 đồng.
Trần Thanh T4 không chia tiền cho Nguyễn Xuân C2, mà C2 góp vốn với T4 250.000.000 đồng để hợp tác làm ăn, không liên quan đến số tiền hàng nâng khống, sau đó T4 trả lại C2 và đưa thêm 40.000.000 đồng.
2.3. Bị cáo Phạm Đức M:
Tổng khối lượng sắt thép phế liệu của bị cáo Phạm Đức M bán cho các nhà thầu phụ đã bị nâng khống là: 425 tấn (Công ty T9) + 40 tấn (Công ty T10) = 465 tấn, trị giá 3.090.901.000 đồng. M hưởng 1/2 số tiền là 1.545.450.500 đồng. Cụ thể số tiền M chiếm đoạt của các Bị hại như sau:
+ Công ty T9: 1.407.840.500 đồng.
+ Công ty T10: 137.610.000 đồng.
Còn lại chia như sau:
+ Bùi Xuân T6: 740.047.917 đồng.
+ Giáp Tuấn A1: 65.354.667 đồng.
+ Nguyễn Văn L2: 87.495.833 đồng.
+ Đoàn Phi L1: 372.523.250 đồng.
+ Phan Sỹ Q: 280.028.833 đồng.
+ Ban đầu M không có thỏa thuận chi tiền cho Nguyễn Xuân C2. Nhưng sau một thời gian thì C2 có đề nghị M chia số tiền kiếm được từ việc nâng khống khối lượng theo tỷ lệ mỗi tấn hàng nâng khống của M nhập vào nhà máy, C2 sẽ được hưởng 1.000.000 đồng. Tổng số hàng của M được nâng khống khoảng 475 tấn nhưng tổng số tiền M đã chia cho C2 là 300.000.000 đồng nên tổng số tiền còn lại M đã chiếm đoạt là 1.245.450.500 đồng.
2.4. Bị cáo Mai Văn H:
Tổng khối lượng sắt thép phế liệu của bị cáo Mai Văn H bán cho các nhà thầu phụ đã bị nâng khống là: 424 tấn (Công ty T9) + 529 tấn (Công ty T10) = 953 tấn, trị giá 6.584.897.000 đồng. H hưởng 40% số tiền là 2.633.958.800 đồng. Cụ thể số tiền H chiếm đoạt của các Bị hại như sau:
+ Công ty T9: 1.168.912.800 đồng.
+ Công ty T10: 1.465.046.000 đồng.
Còn lại chia như sau:
+ Bùi Xuân T6: 1.940.033.700 đồng.
+ Giáp Tuấn A1: 70.870.800 đồng.
+ Nguyễn Văn L2: 262.079.400 đồng.
+ Đoàn Phi L1: 940.740.900 đồng.
+ Phan Sỹ Q: 737.213.400 đồng.
Trong số 953 tấn sắt thép bị nâng khống của Mai Văn H thì có 68 tấn được chở trên các xe mà H mượn biển kiểm soát của Nguyễn Văn T5 (cũng là nhà cung cấp sắt thép phế liệu và có mối quan hệ bạn bè với H). T5 cho H mượn 03 biển kiểm soát mang số 51C-736.68, 51C-588.18, 51C-473.67 để H gắn vào xe của H.
2.5. Bị cáo Bùi Xuân T6 được hưởng lợi bất chính số tiền do các Bị cáo Lý Hoài N, Trần Thanh T4, Phạm Đức M và Mai Văn H chia tổng cộng 5.827.834.951 đồng. Cụ thể số tiền T6 chiếm đoạt của các Bị hại như sau:
+ Công ty T9: 2.633.912.101 đồng.
+ Công ty T10: 2.316.295.850 đồng.
+ Công ty K1: 803.427.000 đồng.
+ Công ty T12: 74.200.000 đồng.
Quá trình điều tra, Bị cáo Bùi Xuân T6 khai chỉ nhận được 4.227.834.951 đồng, còn 1.600.000.000 đồng thì Bị cáo Lý Hoài N chưa đưa cho T6 vì N giữ lại để lo việc cá nhân và sẽ trả cho T6 sau; việc Bị cáo N chưa đưa số tiền trên cho Bị cáo T6 là thỏa thuận dân sự giữa hai Bị cáo do có sự thống nhất của Bị cáo T6, việc này không ảnh hưởng đến tỷ lệ ăn chia mà các Bị cáo đã thống nhất từ trước khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
2.6. Bị cáo Nguyễn Xuân C2 được hưởng lợi bất chính số tiền do Phạm Đức M chia là 300.000.000 đồng.
2.7. Bị cáo Giáp Tuấn A1 được hưởng lợi bất chính số tiền do các Bị cáo Lý Hoài N, Trần Thanh T4, Phạm Đức M và Mai Văn H chia tổng cộng là 464.317.051 đồng. Cụ thể số tiền A1 chiếm đoạt của các Bị hại như sau:
Công ty T9: 173.346.251 đồng.
Công ty T10: 178.186.800 đồng.
Công ty K1: 83.104.000 đồng.
Công ty T12: 29.680.000 đồng.
2.8. Bị cáo Nguyễn Văn L2 được hưởng lợi bất chính số tiền do các Bị cáo Lý Hoài N, Trần Thanh T4, Phạm Đức M và Mai Văn H chia tổng cộng là 817.880.650 đồng. Cụ thể số tiền L2 chiếm đoạt của các Bị hại như sau:
Công ty T9: 399.029.583 đồng.
Công ty T10: 272.023.400 đồng.
Công ty K1: 140.891.667 đồng.
Công ty T12: 5.936.000 đồng.
2.9. Bị cáo Đoàn Phi L1 được hưởng lợi bất chính số tiền do các Bị cáo Lý Hoài N, Trần Thanh T4, Phạm Đức M và Mai Văn H chia tổng cộng là 2.893.345.482 đồng. Cụ thể số tiền L1 chiếm đoạt của các Bị hại như sau:
+ Công ty T9: 1.845.269.749 đồng.
+ Công ty T10: 745.463.400 đồng.
+ Công ty K1: 264.028.333 đồng.
+ Công ty T12: 38.584.000 đồng.
2.10. Bị cáo Phan Sỹ Q được hưởng lợi bất chính số tiền do các Bị cáo Lý Hoài N, Trần Thanh T4, Phạm Đức M và Mai Văn H chia tổng cộng là 2.116.443.816 đồng. Cụ thể số tiền Q chiếm đoạt của các Bị hại như sau:
+ Công ty T9: 1.133.351.266 đồng.
+ Công ty T10: 732.985.550 đồng.
+ Công ty K1: 220.427.000 đồng.
+ Công ty T12: 29.680.000 đồng.
Vật chứng thu giữ và xử lý:
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ, xử lý những đồ vật tài liệu của các tổ chức, cá nhân và các bị cáo như sau:
- Công ty T11: 01 Máy tính xách tay hiệu Dell Inspiron 3000 Series cấp cho Bùi Xuân T6, 02 USB có chứa thông tin, dữ liệu liên quan đến các lần Bùi Xuân T6 xâm nhập vào máy chủ hệ thống cân để chỉnh sửa dữ liệu.
Bị cáo Bùi Xuân T6: 04 thẻ ATM, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 thẻ ATM tên Nguyễn Trần Mỹ T8 (vợ của T6). Do các tài khoản này không còn số dư nên Cơ quan điều tra không phong tỏa tài khoản. 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen; 01 điện thoại di động Iphone, màu đen; 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 027399 do UBND cấp ngày 08/8/2011; 01 Văn bản chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở giữa ông Nguyễn Thanh H8 và bà Vũ Thị Như L3 với Bùi Xuân T6 và bà Nguyễn Trần Mỹ T8 đối với lô đất số E30 thuộc dự án Khu nhà ở G, phường L, thành phố B.
Ngày 02/07/2021, Cơ quan CSĐT đã ra Lệnh kê biên tài sản đối với thửa đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 027399 và Lô đất số E30 thuộc dự án Khu nhà ở G.
- Bị cáo Nguyễn Xuân C2: 01 điện thoại di động Iphone, màu trắng; 01 giấy chứng minh nhân dân, 06 thẻ ATM, 02 giấy phép lái xe hạng A1 và B1, 01 thẻ bảo hiểm Manulife, 204.564.000 đồng, 02 thẻ ATM tên Hoàng Nữ Ngọc Kim L4 (vợ của C2), 01 Chứng nhận đăng ký xe biển kiểm soát 60G1-167.15, nhãn hiệu HONDA SH150, chủ xe Công ty cổ phần K2, 01 Chứng nhận đăng ký xe biển kiểm soát 60A-835.61, nhãn hiệu HONDA CRV-L, chủ xe Công ty cổ phần K2, 01 Chứng nhận đăng ký xe biển kiểm soát 60C1-737.63, nhãn hiệu HONDA VISION, chủ xe Hoàng Nữ Ngọc Kim L4. Cơ quan điều tra ban hành Quyết định xử lý đồ vật tài liệu trả lại cho bị cáo Nguyễn Xuân C2 và vợ là Hoàng Nữ Ngọc Kim L4 các giấy tờ sau: 02 chứng nhận đăng ký xe, 02 giấy phép lái xe.
Ngày 02/7/2021, Cơ quan điều tra ban hành Lệnh kê biên tài sản số 10/LKBTS-CSKT kê biên các tài sản của bị cáo Nguyễn Xuân C2 đang thế chấp tại Ngân hàng S1 chi nhánh Đ1 - Phòng giao dịch L, gồm: thửa đất số 11, tờ bản đồ số 67, diện tích 212,7 m2; thửa đất số 412, tờ bản đồ số 47, diện tích 10.741 m2.
Ngày 21/3/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ban hành Quyết định số 02/2023/HSST-QĐ hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản theo Lệnh kê biên tài sản số 10/LKBTS-CSKT ngày 02/7/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh B.
Về việc khắc phục hậu quả:
- Bị cáo Lý Hoài N đã nộp 237.358.440 đồng;
- Bị cáo Bùi Xuân T6 đã nộp 100.000.000 đồng;
- Bị cáo Phạm Đức M đã nộp 200.000.000 đồng;
- Bị cáo Mai Văn H đã nộp số tiền 2.633.958.800 đồng;
- Bị cáo Giáp Tuấn A1 giao nộp 01 thẻ tiết kiệm có kỳ hạn số CS 996617, số tiền 1.300.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã có văn bản đề nghị tạm dừng các giao dịch đối với sổ tiết kiệm nêu trên;
- Bị cáo Nguyễn Văn L2 đã nộp 340.000.000 đồng;
- Bị cáo Phan Sỹ Q đã nộp 220.000.000 đồng;
- Bị cáo Đoàn Phi L1 đã nộp 2.800.000.000 đồng;
- Bị cáo Trần Thanh T4 đã nộp 40.000.000 đồng;
- Bị cáo Nguyễn Xuân C2 đã nộp 300.000.000 đồng.
Ông Nguyễn Văn S đã nộp lại 190.000.000 đồng là số tiền bị cáo Lý Hoài N trả công cho các lần chở nhờ phế liệu vào nhà máy.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 48/2024/HS-ST ngày 31/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quyết định:
1. Về trách nhiệm hình sự:
1.1. Căn cứ điểm a Khoản 4 Điều 174; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, điểm a, g Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Khoản 1 Điều 54; Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), tuyên phạt bị cáo Mai Văn H 10 (mười) năm tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 27/4/2021 đến ngày 25/8/2021;
1.2. Căn cứ điểm a Khoản 4 Điều 174; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, điểm a, g Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), tuyên phạt bị cáo Phạm Đức M 14 (mười bốn) năm tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án;
2. Về Trách nhiệm dân sự:
2.1. Buộc bị cáo Lý Hoài N bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 4.804.847.250 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 2.791.929.250 đồng.
+ Công ty T10: 322.960.000 đồng.
+ Công ty K1: 1.511.878.000 đồng.
+ Công ty T12: 178.080.000 đồng.
2.2. Buộc bị cáo Bùi Xuân T6 bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 5.827.834.951 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 2.633.912.101 đồng.
+ Công ty T10: 2.316.295.850 đồng.
+ Công ty K1: 803.427.000 đồng.
+ Công ty T12: 74.200.000 đồng.
2.3. Buộc bị cáo Trần Thanh T4 bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 1.818.751.000 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 231.935.000 đồng.
+ Công ty T10: 1.586.816.000 đồng.
2.4. Buộc bị cáo Phạm Đức M bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 1.545.450.500 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 1.407.840.500 đồng.
+ Công ty T10: 137.610.000 đồng.
2.5. Buộc bị cáo Mai Văn H bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 2.633.958.800 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 1.168.912.800 đồng.
+ Công ty T10: 1.465.046.000 đồng.
2.6. Buộc bị cáo Giáp Tuấn A1 bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 464.317.051 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 173.346.251 đồng.
+ Công ty T10: 178.186.800 đồng.
+ Công ty K1: 83.104.000 đồng.
+ Công ty T12: 29.680.000 đồng.
2.7. Buộc bị cáo Nguyễn Văn L2 phải bồi thường cho các bị hại tổng cộng là 817.880.650 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 399.029.583 đồng.
+ Công ty T10: 272.023.400 đồng.
+ Công ty K1: 140.891.667 đồng.
+ Công ty T12: 5.936.000 đồng.
2.8. Buộc Bị cáo Đoàn Phi L1 phải bồi thường cho các bị hại tổng cộng là 2.893.345.482 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 1.845.269.749 đồng.
+ Công ty T10: 745.463.400 đồng.
+ Công ty K1: 264.028.333 đồng.
+ Công ty T12: 38.584.000 đồng.
2.9. Buộc Bị cáo Phan Sỹ Q phải bồi thường cho các bị hại tổng cộng là 2.116.443.816 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 1.133.351.266 đồng.
+ Công ty T10: 732.985.550 đồng.
+ Công ty K1: 220.427.000 đồng.
+ Công ty T12: 29.680.000 đồng.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Trả lại cho Công ty T11 01 máy tính xách tay hiệu Dell Inspiron 3000 Series Công ty T11 cấp cho Bùi Xuân T6;
- Trả lại cho bị cáo Bùi Xuân T6: 04 thẻ ATM, 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen; 01 điện thoại di động Iphone, màu đen, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 thẻ ATM tên Nguyễn Trần Mỹ T8 (vợ của T6);
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Xuân C2 01 giấy chứng minh nhân dân, 06 thẻ ATM, 01 thẻ bảo hiểm Manulife, 02 thẻ ATM tên Hoàng Nữ Ngọc Kim L4 (vợ của C2);
- Tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động Iphone, màu trắng của bị cáo Nguyễn Xuân C2;
- Lưu giữ theo hồ sơ vụ án: 02 USB có chứa thông tin, dữ liệu liên quan đến các lần Bùi Xuân T6 xâm nhập vào máy chủ hệ thống cân để chỉnh sửa dữ liệu;
- Tiếp tục kê biên và tạm giữ 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 027399 do U1 cấp ngày 08/8/2011 cấp cho Bùi Xuân T6; 01 Văn bản chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở giữa ông Nguyễn Thanh H8 và bà Vũ Thị Như L3 với Bùi Xuân T6 và bà Nguyễn Trần Mỹ T8 đối với lô đất số E30 thuộc dự án Khu nhà ở G, phường L, Thành phố B, theo các Lệnh:
+ Lệnh kê biên tài sản số 09/LKBTS-CSKT ngày 02/7/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh B;
+ Lệnh kê biên tài sản số 08/LKBTS-CSKT ngày 02/7/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh B;
- Hủy bỏ các Lệnh phong tỏa tài khoản số 10/LPTTK-CSKT ngày 13/10/2021, số 11/LPTTK-CSKT ngày 13/10/2021, số 12/LPTTK-CSKT ngày 13/10/2021, số 17/LPTTK-CSKT ngày 27/10/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh B đối với số tiền trong các tài khoản số 43784100012xxxx tại Ngân hàng TNHH một thành viên H9 (Việt Nam), số 050111182xx1 tại Ngân hàng S2 - Chi nhánh Đ1, số 0721000539916 tại Ngân hàng N3 (V1) - Chi nhánh K3, số 18011050100xx22 tại Ngân hàng Thương mại cổ phần X - Chi nhánh Đ1 của bị cáo Nguyễn Xuân C2;
- Tiếp tục tạm giữ số tiền trong Thẻ tiết kiệm có kỳ hạn số CS 996617, số tiền 1.300.000.000 đồng mở tại Ngân hàng S1 - Chi nhánh B1 (phòng G); chủ tài khoản Kiều Thị Thu N2, CMND số 221301801 cấp ngày 30/12/2008; địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên để đảm bảo thi hành án.
- Tiếp tục tạm giữ số tiền 3.151.922.440 đồng theo Biên lai thu tiền số 0000293 ngày 29/3/2022 do Công an tỉnh B chuyển Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; số tiền 900.000.000 đồng bị cáo Đoàn Phi L1 nộp theo Biên lai thu tiền số 0000339 ngày 09/5/2022; số tiền 95.636.000 đồng bị cáo Nguyễn Xuân C2 đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0002034 ngày 15/3/2023; số tiền 1.113.958.800 đồng bị cáo Mai Văn H nộp theo Biên lai thu tiền số 0002039 ngày 21/3/2023; số tiền 1.000.000.000 đồng bị cáo Mai Văn H nộp theo Biên lai thu tiền số 0002029 ngày 09/3/2023; số tiền 200.000.000 đồng bị cáo Mai Văn H nộp theo Biên lai thu tiền số 0002044 ngày 27/3/2023; số tiền 100.000.000 đồng bị cáo Phan Sỹ Q nộp theo Biên lai số 0000310 ngày 29/5/2024; số tiền 100.000.000 đồng bị cáo Đoàn Phi L1 nộp theo Biên lai số 0000308 ngày 28/5/2024; số tiền 100.000.000 đồng bị cáo Bùi Xuân T6 nộp theo Biên lai số 0000307 ngày 27/5/2024; số tiền 300.000.000 đồng bị cáo Nguyễn Văn L2 nộp theo Biên lai số 0000306 ngày 27/5/2024 để đảm bảo thi hành án;
(Các vật chứng trên được Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 32/BB-CTHADS ngày 22/3/2022) 4. Các vấn đề khác:
- Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty cổ phần T9 hoàn trả cho Công ty cổ phần T11 số tiền 271.040.000 (hai trăm bảy mươi mốt triệu không trăm bốn mươi nghìn) đồng.
- Dành quyền khởi kiện vụ án dân sự cho Công ty cổ phần T11 liên quan đến các hợp đồng kinh tế đã ký kết với Công ty TNHH P3 khi có yêu cầu.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt cho các bị cáo khác; án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 03/6/2024, bị cáo Phạm Đức M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 14/6/2024, bị cáo Mai Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 12/6/2024, bị hại - Công ty cổ phần T9 kháng cáo yêu cầu tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng xác định Công ty T9 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chứ không phải bị hại trong vụ án, buộc các bị cáo phải trả lại cho Công ty T11 tiền chiếm đoạt do hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra.
Ngày 12/6/2024, bị hại - Công ty cổ phần T10 kháng cáo yêu cầu tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng xác định Công ty T10 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chứ không phải bị hại trong vụ án, buộc các bị cáo phải trả lại cho Công ty T11 tiền chiếm đoạt do hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra.
Ngày 14/6/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Công ty cổ phần T11 có đơn kháng cáo đề nghị tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng ghi nhận sự thỏa thuận giữa Công ty cổ phần T11 và Công ty TNHH P3 về việc Công ty P3 sẽ hoàn trả cho Công ty T11 số tiền 17.816.989.520 VNĐ, đồng thời dành quyền khởi kiện cho Công ty P3 đối với Công ty cổ phần T9 và Công ty Cổ phần T10 để yêu cầu hoàn trả số tiền còn lại tương đương giá trị hàng hóa bị nâng khống là 1.684.519.980 VNĐ, sau đó Công ty P3 sẽ thanh toán số tiền 1.684.519.980 VNĐ này cho Công ty T11.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
1. Phần hỏi:
Bị hại - Công ty Cổ phần T9 và Công ty Cổ phần T10 có người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Tuấn D1 trình bày:
Xin thay đổi nội dung kháng cáo và đề nghị hủy bản án sơ thẩm, lý do Tòa sơ thẩm xác định sai tư cách tố tụng. Đề nghị HĐXX xác định lại tư cách tham gia tố tụng của 02 công ty này là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án chứ không phải là bị hại như Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Công ty Cổ phần T11 có người đại diện theo ủy quyền là ông Đặng Thanh H5, bà Nguyễn Thị Tâm U cùng trình bày:
Xin thay đổi nội dung kháng cáo, đề nghị HĐXX sửa một phần bản án theo hướng ghi nhận việc Công ty TNHH P3 trả cho Công ty cổ phần T11 số tiền 17.816.989.520 VNĐ; đồng thời dành quyền khởi kiện cho Công ty TNHH P3 đối với Công ty T9 và công ty T10 để yêu cầu hoàn trả số tiền còn lại tương ứng với giá trị hàng hóa bị nâng khống là 1.684.519.980 VNĐ, sau đó Công ty TNHH P3 sẽ thanh toán lại số tiền 1.684.519.980 VNĐ này cho Công ty cổ phần T11.
Phần tranh luận:
2.1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:
2.1.1. Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên tòa chấp hành đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm. Kháng cáo của các bị cáo nằm trong hạn nên cần xem xét theo quy định pháp luật.
2.1.2. Về nội dung: Bản án cấp sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ và đúng pháp luật; hình phạt đã tuyên đối với bị cáo là tương xứng với hành vi của các bị cáo. Tại cấp phúc thẩm người kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết mới chứng minh cho yêu cầu của mình. Do đó, đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2.2. Luật sư Lê Thị Ánh T1 bào chữa cho bị cáo Mai Văn H và Phạm Đức M trình bày: Không tranh luận về tội danh, chỉ có ý kiến về phần hình phạt mà cấp sơ thẩm tuyên là quá cao. Đề nghị HĐXX áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo Phạm Đức M. Đồng thời đề nghị HĐXX xem xét đánh giá lại các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo để giảm án cho các bị cáo.
2.3. Luật sư Phạm Nguyên P bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty T9 và công ty T10 trình bày: Thông tin về vấn đề giao hàng có thể hiện rõ cụ thể tên tài xế, số lượng xe, biển số xe... khi giao hàng chỉ có xe và tài xế đã đăng ký mới được vào giao hàng. Các tài xế này chịu sự quản lý của công ty T9 và Hoàng Tấn P1. Như vậy, 02 công ty này đã làm đúng hợp đồng kinh doanh giữa 02 bên. Hành vi của các bị cáo là có sự cấu kết với các nhân viên IT của công ty T11. Nhận thấy công ty T9 và Hoàng Tấn P1 chỉ là khâu trung gian. Các bị cáo mục đích là chiếm đoạt tiền của công ty T11 chứ không phải 02 công ty này. Trên thực tế, 02 công ty này hoàn toàn không có thiệt hại nào xảy ra, cũng không có yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thiệt hại. Do đó, đề nghị HĐXX xem xét về tư cách tố tụng và hủy bản án để xét xử lại theo quy định pháp luật.
2.4. Luật sư Trương Xuân T3 bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty Cổ phần T11 trình bày: Về bản chất Công ty cổ phần T11 và Công ty TNHH P3 đều thuộc tập đoàn P4. Theo quy chế của tập đoàn P4 thì các công ty con không thể khởi kiện nhau, nên Bản án sơ thẩm tuyên "Dành quyền khởi kiện vụ án dân sự cho Công ty cổ phần T11 liên quan đến các hợp đồng kinh tế đã ký kết với Công ty TNHH P3 khi có yêu cầu" là không thực hiện được. Đồng thời, thay vì khởi kiện bằng một vụ án khác, thì 02 công ty đã tự thỏa thuận và thỏa thuận này không trái pháp luật, không ảnh hưởng đến quyền lợi của ai. Do đó, đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần T11, sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng ghi nhận việc Công ty TNHH P3 thanh toán cho Công ty cổ phần T11.
2.5. Đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa cho các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan giữ nguyên quan điểm về phần tranh tụng của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.
3. Phần bị cáo nói lời sau cùng (các bị cáo vắng mặt tại phiên tòa).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Các bị cáo Phạm Đức M, Mai Văn H, các bị hại Công ty T9, Công ty T10, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty T11 thực hiện việc kháng cáo theo đúng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định:
Công ty T11 có chức năng kinh doanh phôi thép, cần mua nguồn nguyên liệu đầu vào là sắt thép phế liệu nên đã ký hợp đồng mua của Công ty P3. Để có nguồn hàng cung cấp cho Công ty T11, Công ty P3 ký hợp đồng mua của 04 Nhà thầu phụ gồm: Công ty T9, Công ty K1, Công ty T10, Công ty T12. Các nhà thầu phụ tiếp tục đi mua gom phế liệu của các cá nhân như: Lý Hoài N, Trần Thanh T4, Mai Văn H, Phạm Đức M, Nguyễn Văn S, Nguyễn Văn T5 và các Nhà thầu phụ thanh toán tiền cho cá nhân trên. Quá trình vận chuyển sắt thép phế liệu giao cho Công ty T11, Lý Hoài N biết việc quản lý khối lượng sắt thép phế liệu của Công ty dựa trên hoạt động của hệ thống quản lý cân WMS. Đồng thời, N biết Bùi Xuân T6 làm việc tại bộ phận IT có thể xâm nhập vào hệ thống quản lý cân để chỉnh sửa dữ liệu để in ra các phiếu cân giả thể hiện khối lượng không đúng thực tế nên đã bàn bạc với Trần Thanh T4, Phạm Đức M cấu kết với T6 và các nhân viên khác trong Công ty T11 gồm: Nguyễn Xuân C2, Giáp Tuấn A1, Nguyễn Văn L2, Đoàn Phi L1, Phan Sỹ Q để cùng thực hiện. Đây là thủ đoạn gian dối nhằm tạo ra phiếu cân thể hiện thông tin không đúng sự thật nhằm lừa dối và chiếm đoạt tiền của 04 Nhà thầu phụ. Riêng Mai Văn H thì thông qua Giáp Tuấn A1 để câu kết với T6, L1, L2, Q để thực hiện hành vi tương tự như trên nhằm chiếm đoạt tiền của 04 Nhà thầu phụ.
Các đối tượng đã phân công công việc để cùng phối hợp thực hiện hành vi gian dối nhằm nâng khống số lượng thép phế liệu thực tế nhập kho để chiếm đoạt tài sản của 04 Nhà thầu phụ như sau:
Khi chuẩn bị cung cấp phế liệu cho công ty T11, Lý Hoài N (đại diện cho cả Trần Thanh T4, Phạm Đức M) và Mai Văn H báo thời gian, biển số xe chở phế liệu cho Bùi Xuân T6, Giáp Tuấn A1 để T6 can thiệp, chỉnh sửa dữ liệu nâng khống khối lượng sắt phế liệu nhập kho nhằm chiếm đoạt tiền của 04 Nhà thầu phụ.
Bùi Xuân T6 dùng máy tính cá nhân được Công ty cấp để tải phần mềm Oracle Virtual Box rồi tạo các địa chỉ IP ảo "172.27.10.51" và IP: "172.23.0.129". Sau đó T6 thực hiện kết nối đến máy chủ để lập trình, sửa đổi cơ sở dữ liệu làm thay đổi thông số khối lượng của cân điện tử WMS trong nhà máy, chỉnh sửa dữ liệu để nâng khống sắt thép phế liệu nhập kho so với thực tế để chiếm đoạt tiền của 04 Nhà thầu phụ.
Theo chỉ đạo của Lý Hoài N, Nguyễn Xuân C2 lập nhóm Zalo để liên lạc, kết nối thông tin giữa N, Bùi Xuân T6 và các nhân viên trạm cân, phối hợp thực hiện hành vi nâng khống số lượng sắt phế liệu nhập kho của Công ty T11.
Giáp Tuấn A1, Nguyễn Văn L2, Đoàn Phi L1, Phan Sỹ Q phụ trách trạm cân sẽ phối hợp Bùi Xuân T6 để in phiếu cân đã được chỉnh sửa số liệu.
Với phương thức, thủ đoạn như trên, từ ngày 23/7/2020 đến 11/10/2020, 10 Bị cáo đã cấu kết thực hiện hành vi xâm nhập trái phép 365 lần vào hệ thống máy chủ trạm cân WMS của Công ty T11 để chỉnh sửa giảm khối lượng sắt thép phế liệu không đạt chất lượng trả về cho nhà cung cấp, qua đó nâng khống 3.431 tấn sắt thép phế liệu nhập kho so với thực tế giao nhận, chiếm đoạt của 04 Nhà thầu phụ gồm: Công ty T9, Công ty K1, Công ty T10, Công ty T12 tổng số tiền 22.922.829.500 đồng.
[2.2] Các bị cáo Lý Hoài N, Bùi Xuân T6, Giáp Tuấn A1, Nguyễn Xuân C2, Trần Thanh T4, Mai Văn H, Phạm Đức M, Phan Sỹ Q, Đoàn Phi L1, Nguyễn Văn L2 là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc dùng thủ đoạn chỉnh sửa thông tin, cung cấp thông tin gian dối để chiếm đoạt tiền thanh toán của các bị hại là vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu của người khác nhưng vẫn cố tình thực hiện.
Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2.3] Với hành vi nêu tại mục [2.1] và nhận định tại mục [2.2], Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Lý Hoài N, Bùi Xuân T6, Giáp Tuấn A1, Nguyễn Xuân C2, Trần Thanh T4, Mai Văn H, Phạm Đức M, Phan Sỹ Q, Đoàn Phi L1, Nguyễn Văn L2 phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Đức M:
Đây là vụ án có đồng phạm. Trong đó bị cáo Phạm Đức M là nhà cung cấp phế liệu cùng với nhánh của bị cáo Lý Hoài N, bị cáo M thực hiện việc cung cấp phế liệu theo chỉ đạo của bị cáo N; bị cáo M tham gia trao đối với các bị cáo N, Trần Thanh T4, Nguyễn Xuân C2, Bùi Xuân T6 về việc chỉnh sửa dữ liệu để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng cộng khối lượng sắt thép bị cáo M bán cho các nhà thầu phụ đã bị nâng khống là 465 tấn, chiếm đoạt của các bị hại (là các nhà thầu phụ) số tiền 3.090.901.000 đồng; trong đó bị cáo M hưởng 1/2 số tiền chiếm đoạt, là 1.545.450.500 đồng, chia lại cho bị cáo C2 300.000.000 đồng, M còn hưởng lợi bất chính 1.245.450.000 đồng. Do đó, bị cáo M phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò thấp hơn bị cáo N.
Tòa án cấp sơ thẩm khi lượng hình đã xem xét mức độ thực hiện hành vi phạm tội, vai trò của các bị cáo trong đồng phạm, xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo M là "Phạm tội có tổ chức" và "Phạm tội 02 lần trở lên" quy định tại điểm a, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo M là "Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải" và đã nộp lại một phần số tiền chiếm đoạt là các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, từ đó xét xử bị cáo M 14 (mười bốn) năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do bị cáo M thực hiện.
Quá trình tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Phạm Đức M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết, chứng cứ mới có cơ sở làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Đức M.
[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Mai Văn H:
Trong vụ án đồng phạm, bị cáo Mai Văn H là nhà cung cấp phế liệu, trực tiếp trao đổi, thỏa thuận với bị cáo Giáp Tuấn A1 và phối hợp cùng bị cáo T6 về việc chỉnh sửa dữ liệu để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng cộng khối lượng sắt thép bị cáo H bán cho các nhà thầu phụ đã bị nâng khống là 953 tấn, chiếm đoạt của các bị hại (là các nhà thầu phụ) số tiền 6.584.897.000 đồng; trong đó bị cáo H hưởng 40% số tiền chiếm đoạt, là 2.633.958.800 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm khi lượng hình đã xem xét mức độ thực hiện hành vi phạm tội, vai trò của các bị cáo trong đồng phạm, xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo H là "Phạm tội có tổ chức" và "Phạm tội 02 lần trở lên" quy định tại điểm a, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo H là "Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải" và "Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả" (bị cáo H đã nộp toàn bộ số tiền chiếm đoạt) là các tình tiết quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, từ đó xét xử bị cáo H 10 (mười) năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do bị cáo H thực hiện.
Quá trình tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Mai Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết, chứng cứ mới có cơ sở làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Mai Văn H.
[5] Xét kháng cáo của các bị hại Công ty cổ phần T9, Công ty cổ phần T10 về việc yêu cầu xác định Công ty T9, Công ty T10 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án và buộc các bị cáo bồi thường số tiền chiếm đoạt cho Công ty T11:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ của vụ án có cơ sở xác định giữa các bị cáo Lý Hoài N, Trần Thanh T4, Phạm Đức M, Mai Văn H với vai trò là Nhà cung cấp và Công ty T11 không có thỏa thuận về việc mua bán sắt thép phế liệu, không có thỏa thuận về việc thanh toán tiền sắt thép; thực tế Công ty T11 không thanh toán tiền mua sắt thép phế liệu cho các bị cáo.
Thỏa thuận mua bán sắt thép phế liệu, bao gồm các thỏa thuận về khối lượng sắt thép, đơn giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán là thỏa thuận giữa các bị cáo Lý Hoài N, Trần Thanh T4, Phạm Đức M, Mai Văn H với các bị hại gồm 04 công ty K1, công ty T12, công ty T9, công ty T10. Việc thanh toán tiền mua bán sắt thép phế liệu cho các bị cáo do 04 công ty nêu trên thực hiện, căn cứ phiếu cân do công ty T11 lập, mà cụ thể trong vụ án này là do các bị cáo Bùi Xuân T6, Giáp Tuấn A1, Phan Sỹ Q, Đoàn Phi L1, Nguyễn Văn L2 với vai trò nhân viên IT, nhân viên trạm cân đã chỉnh sửa dữ liệu để lập khống.
Do đó, các bị cáo thống nhất thực hiện hành vi chỉnh sửa số liệu cân nhằm tạo ra sự chênh lệch khối lượng sắt thép ghi trên các phiếu cân so với thực tế giao hàng, mục đích để nâng khống khối lượng sắt thép so với thực tế đã giao, khiến 04 công ty nêu trên tin tưởng mà thanh toán tiền sắt thép bị nâng khống cho các bị cáo N, T4, M, H, căn cứ theo khối lượng và đơn giá mà 04 công ty đã thỏa thuận với các bị cáo, đây là số tiền các bị cáo chiếm đoạt trong vụ án. Các bị cáo Bùi Xuân T6, Giáp Tuấn A1, Phan Sỹ Q, Đoàn Phi L1, Nguyễn Văn L2 với vai trò đồng phạm được hưởng lợi bất chính theo tỷ lệ ăn chia từ số tiền thanh toán khối lượng sắt thép bị nâng khống mà công ty K1, công ty T12, công ty T9, công ty T10 đã thanh toán cho các bị cáo N, T4, M, H.
Như vậy, ý thức và hành vi của các bị cáo hướng đến việc chiếm đoạt số tiền mà 04 công ty K1, công ty T12, công ty T9, công ty T10 thanh toán cho các bị cáo Lý Hoài N, Trần Thanh T4, Mai Văn H, Phạm Đức M đối với khối lượng sắt thép mà các bị cáo chỉnh sửa dữ liệu để nâng khống.
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: "Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.", tòa án cấp sơ thẩm xác định 04 công ty gồm công ty K1, công ty T12, công ty T9, công ty T10 là bị hại trong vụ án và tuyên buộc các bị cáo phải bồi thường cho các bị hại số tiền chiếm đoạt là đúng quy định của pháp luật.
Đối với việc thanh toán giữa công ty T11, công ty P3, công ty K1, công ty T12, công ty T9, công ty T10 được thực hiện theo hợp đồng mà các doanh nghiệp này đã ký kết với nhau, theo đơn giá, điều kiện thanh toán đã thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Việc các bị cáo giao sắt thép không đúng khối lượng cho công ty T11 so với phiếu cân không nhằm chiếm đoạt tiền của công ty T11 vì giữa các bị cáo và công ty T11 không có bất kỳ họp đồng nào thỏa thuận về việc giao hàng và thanh toán, mà việc này làm ảnh hưởng quyền, nghĩa vụ của các công ty T11, công ty P3, công ty K1, công ty T12, công ty T9, công ty T10 liên quan đến thỏa thuận giao hàng, thanh toán tiền hàng giữa các doanh nghiệp. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: "Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.", tòa án cấp sơ thẩm xác định các công ty T11, công ty P3 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là đúng quy định của pháp luật.
Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của các bị hại Công ty cổ phần T9, Công ty cổ phần T10.
[6] Xét kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Công ty cổ phần T11 Vina:
Công ty Cổ phần T11 yêu cầu tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng ghi nhận việc Công ty P3 hoàn trả cho Công ty T11 số tiền 17.816.989.520 đồng, đồng thời dành quyền khởi kiện cho Công ty P3 đối với Công ty Cổ phần T9 và Công ty cổ phần T10 để yêu cầu hoàn trả số tiền còn lại tương đương giá trị hàng hóa bị nâng khống là 1.684.519.980 đồng, sau đó Công ty P3 sẽ thanh toán số tiền 1.684.519.980 đồng này cho Công ty T11.
Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ghi nhận việc Công ty P3 hoàn trả cho Công ty T11 nêu trên là ý kiến riêng của Công ty T11, trong khi đó việc xác định số tiền phải hoàn trả, thời điểm hoàn trả của các doanh nghiệp trong quan hệ kinh doanh thương mại dựa trên các hợp đồng giữa các công ty T11, công ty P3, công ty T9, công ty T10 có ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ các công ty P3, công ty T9, công ty T10 mà trong vụ án các bên chưa cùng thỏa thuận thống nhất được, đồng thời chưa đủ căn cứ để giải quyết trong cùng vụ án này.
Trong vụ án này tòa án chỉ có thể giải quyết về tội phạm, trách nhiệm hình sự của các bị cáo, trách nhiệm bồi thường giữa các bị cáo đối với các bị hại, ghi nhận sự tự nguyện không làm ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của người khác, giải quyết các vấn đề liên quan. Đối với việc ghi nhận sự thỏa thuận giữa những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì tòa án chỉ có thể xem xét nếu thỏa thuận đó là có căn cứ, tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và không làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Do đó tòa án cấp sơ thẩm dành quyền khởi kiện vụ án dân sự cho Công ty cổ phần T11 liên quan đến các hợp đồng kinh tế đã ký kết với Công ty TNHH P3 khi có yêu cầu là có căn cứ, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng, cũng như để bảo đảm quyền, nghĩa vụ chứng minh của các bên.
Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty T11.
Trên đây cũng là nhận định của Hội đồng xét xử để chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc bác kháng cáo của các bị cáo, các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nêu trên, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[7] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[8] Tại Bản án sơ thẩm giải quyết về trách nhiệm dân sự buộc bị cáo bồi thường cho các bị hại, ghi nhận sự tự nguyện hoàn trả tiền của bị hại đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên Bản án sơ thẩm không tuyên về quyền, nghĩa vụ trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, không tuyên về lãi trong trường hợp chậm thi hành án dân sự là có thiếu sót. Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
[9] Án phí hình sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Phạm Đức M, Mai Văn H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[10] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Công ty cổ phần T11 không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm Đức M, bị cáo Mai Văn H, bị hại - Công ty cổ phần T10, bị hại - Công ty cổ phần T9, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Công ty cổ phần T11; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2024/HS-ST ngày 31/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu:
1.1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố các bị cáo Phạm Đức M, Mai Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
Áp dụng điểm a Khoản 4 Điều 174; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, điểm a, g Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), tuyên phạt bị cáo Phạm Đức M 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Áp dụng điểm a Khoản 4 Điều 174; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, điểm a, g Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Khoản 1 Điều 54; Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), tuyên phạt bị cáo Mai Văn H 10 (mười) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 27/4/2021 đến ngày 25/8/2021;
1.2. Về trách nhiệm dân sự:
- Buộc bị cáo Lý Hoài N bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 4.804.847.250 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 2.791.929.250 đồng.
+ Công ty T10: 322.960.000 đồng.
+ Công ty K1: 1.511.878.000 đồng.
+ Công ty T12: 178.080.000 đồng.
Buộc bị cáo Bùi Xuân T6 bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 5.827.834.951 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 2.633.912.101 đồng.
+ Công ty T10: 2.316.295.850 đồng.
+ Công ty K1: 803.427.000 đồng.
+ Công ty T12: 74.200.000 đồng.
- Buộc bị cáo Trần Thanh T4 bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 1.818.751.000 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 231.935.000 đồng.
+ Công ty T10: 1.586.816.000 đồng.
- Buộc bị cáo Phạm Đức M bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 1.545.450.500 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 1.407.840.500 đồng.
+ Công ty T10: 137.610.000 đồng.
- Buộc bị cáo Mai Văn H bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 2.633.958.800 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 1.168.912.800 đồng.
+ Công ty T10: 1.465.046.000 đồng.
- Buộc bị cáo Giáp Tuấn A1 bồi thường cho các bị hại tổng số tiền chiếm đoạt 464.317.051 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 173.346.251 đồng.
+ Công ty T10: 178.186.800 đồng.
Công ty K1: 83.104.000 đồng.
Công ty T12: 29.680.000 đồng.
- Buộc bị cáo Nguyễn Văn L2 phải bồi thường cho các bị hại tổng cộng là 817.880.650 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 399.029.583 đồng.
+ Công ty T10: 272.023.400 đồng.
+ Công ty K1: 140.891.667 đồng.
+ Công ty T12: 5.936.000 đồng.
- Buộc Bị cáo Đoàn Phi L1 phải bồi thường cho các bị hại tổng cộng là 2.893.345.482 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 1.845.269.749 đồng.
+ Công ty T10: 745.463.400 đồng.
+ Công ty K1: 264.028.333 đồng.
+ Công ty T12: 38.584.000 đồng.
- Buộc Bị cáo Phan Sỹ Q phải bồi thường cho các bị hại tổng cộng là 2.116.443.816 đồng, cụ thể:
+ Công ty T9: 1.133.351.266 đồng.
+ Công ty T10: 732.985.550 đồng.
+ Công ty K1: 220.427.000 đồng.
+ Công ty T12: 29.680.000 đồng.
1.3. - Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty cổ phần T9 hoàn trả cho Công ty Cổ phần T11 số tiền 271.040.000 (hai trăm bảy mươi mốt triệu không trăm bốn mươi nghìn) đồng.
- Dành quyền khởi kiện vụ án dân sự cho Công ty cổ phần T11 liên quan đến các hợp đồng kinh tế đã ký kết với Công ty TNHH P3 khi có yêu cầu.
2. Kể từ ngày người được thi hành án nêu trên có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án nêu trên chưa thực hiện hết khoản tiền trên, thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Phạm Đức M, bị cáo Mai Văn H mỗi bị cáo phải chịu án phí 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Công ty Cổ phần T11 phải chịu án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 955/2024/HS-PT
Số hiệu: | 955/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về