Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức số 47/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ THỌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 47/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC

Ngày 28 tháng 09 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2021/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức M- Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; sinh ngày: 25/10/1988 tại huyện B, thành phố Hà Nội; Nơi đăng hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã M, huyện B, thành phố Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Đoàn thể: không. Con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm 1968; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1969; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Hiện bố, mẹ trú tại thôn Đ, xã M, huyện B, Hà Nội. Anh chị em ruột: có 02 người bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Phùng Thị H, sinh năm 1989; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con: 02 con (con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2016). Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt truy nã, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/3/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ (có mặt tại phiên tòa).

Bị hại: Anh Đỗ Quang H, sinh năm 1989 Địa chỉ: Phố C, phường A , thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ( có mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1968 Địa chỉ: Thôn Đ, xã M, huyện B, thành phố Hà Nội; (có mặt).

2. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1973 Thôn Đ, xã M Quang, huyện B, thành phố Hà Nội( vắng mặt).

Người làm chứng:

1. Chị Phùng Thị H , sinh năm 1989 Địa chỉ: Thôn Đ, xã M, huyện B, thành phố Hà Nội (có mặt).

2. Ông Vũ Tiến T, sinh năm 1950 Địa chỉ: P307, nhà B8, T 2, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội (vắng mặt).

3. Anh Lê Trung N, sinh năm 1974 Địa chỉ: Số nhà 07, T, phường H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ ( vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2016, bị cáo Nguyễn Đức M cùng vợ là Phùng Thị H. có hộ khẩu tại khu Đ, xã M, huyện B, thành phố Hà Nội đến thuê nhà để sinh sống và hành nghề sửa chữa xe máy tại khu N, phường Â, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Bên cạnh nhà bị cáo thuê là Nhà hàng Zoo Zoo 123 do anh Đỗ Quang H, sinh năm 1989, trú tại phố C, phường Â, thị xã Phú Thọ là chủ. Do cần tiền chi tiêu cá nhân, bị cáo nảy sinh ý Đ lừa bán cho anh H chiếc xe ô tô nhãn hiệu CHEVROLET; số loại COLORADO; loại xe tải pickup cabin kép; số máy P2G182071112; số khung 8EM0KH622907; BKS 29H - 133.49. Tuy nhiên, do chiếc xe này đang được vợ chồng bị cáo dùng làm tài sản thế chấp tại N hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam - Chi nhánh Hai Bà Trưng, Hà Nội để vay 520.000.000 đồng, thời hạn vay là 72 tháng kể từ ngày 07/11/2018 nên giấy đăng ký xe bản gốc do N hàng giữ. Bị cáo tìm cách có đăng ký xe giả (Theo lời khai nhận của bị cáo: Bị cáo vào mạng Internet tìm kiếm thông tin người bán giấy đăng ký xe ô tô giả; sau khi có số điện thoại bị cáo đã liên lạc và cung cấp nội dung cho một người đàn ông bị cáo không rõ tên tuổi, địa chỉ và mua của người này 01 giấy đăng ký giả xe ô tô BKS 29H-133.49 mang tên Nguyễn Đức M với giá 6.000.000 đồng). Việc có được giấy đăng ký xe ô tô giả, bị cáo không nói cho vợ bị cáo biết, còn vợ bị cáo nghĩ bị cáo đã trả nợ được cho N hàng và lấy đăng ký xe về.

Ngày 29/5/2019, tại Phòng công chứng số 2 tỉnh Phú Thọ thuộc phường Âu Cơ, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, có mặt anh H, bị cáo, H và công chứng viên anh Lê Trung Nghĩa, sinh năm: 1972 trú tại khu Tân Thành, phường Hùng Vương, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ; bị cáo nói với vợ là chị H: Ký giấy vay tiền của anh H để làm ăn. NH thực tế là ký hợp đồng chuyển nhượng. Vì tin tưởng bị cáo nên vợ bị cáo không đọc nội dung mà ký vào hợp đồng chuyển nhượng xe ô tô BKS 29H - 133.49 cho anh H rồi về. Bị cáo ở lại nhận 350.000.000 đồng và giao cho anh H xe ô tô BKS 29H - 133.49 kèm giấy đăng ký xe giả, tiền bán xe ô tô, bị cáo chi tiêu cá nhân hết.

Đến khoảng tháng 8/2019 (không xác định được ngày), bị cáo sang nhà hàng Zoo Zoo 123 để mượn xe ô tô BKS 29H-133.49 về quê đón bố mẹ sang chơi. Lúc này, tại nhà hàng có anh H và anh Nguyễn Tiến D,trú tại phường Âu Cơ, thị xã Phú Thọ. Vì là hàng xóm, tin tưởng nhau nên anh H đồng ý cho bị cáo mượn xe ô tô. Sau đó, bị cáo điều khiển xe ô tô BKS 29H-133.49 đến nhà ông Trần Viết Q, sinh năm 1971 ở phường Hùng Vương, thị xã Phú Thọ để cầm cố chiếc xe lấy 200.000.000 đồng, chi tiêu cá nhân hết. Khi không còn khả năng trả nợ gốc, lãi cho N hàng, trả tiền cho ông Q và trả xe cho anh H, bị cáo nhờ bố đẻ là ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1968, trú tại thôn Đ, xã M Quang, huyện B, Hà Nội trả nợ thay đồng thời giao xe ô tô BKS 29H-133.49 cho ông C toàn quyền quyết định rồi bỏ trốn.

Ngày 08/11/2019, ông C đến N hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam - Chi nhánh Hai Bà Trưng, Hà Nội thanh toán toàn bộ khoản nợ của bị cáo và nhận lại giấy đăng ký xe bản gốc. Vì không có nhu cầu sử dụng, ông C bán lại xe ô tô BKS 29H-133.49 cho em trai là ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1973, trú tại thôn Đ, xã M Quang, huyện B, Hà Nội với giá 500.000.000 đồng; ông C có trách nhiệm làm thủ tục sang tên cho ông Đ. Ngày 12/11/2019, ông C nhờ anh Chu Xuân N, sinh năm 1985, trú tại khu Kẻ Mới, xã Tản Lĩnh, huyện B, Hà Nội mang hồ sơ xe đến Văn phòng công chứng Vũ Tiến T có địa chỉ tại khu Xuân Hà, thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, Hà Nội lập hợp đồng chuyển nhượng xe giữa giữa bên bán là Nguyễn Đức M, cùng vợ là chị Phùng Thị H với bên mua là ông Nguyễn Văn Đ. Mặc dù, bị cáo và vợ bị cáo không trực tiếp đến yêu cầu công chứng nhưng Văn phòng công chứng Vũ Tiến T vẫn xác nhận hợp đồng. Sau đó, anh N đến Phòng CSGT Công an thành phố Hà Nội làm thủ tục sang tên, ngày 13/11/2019 Phòng CSGT Công an thành phố Hà Nội đã cấp đăng ký mới xe ô tô BKS 29H - 133.49 cho ông Nguyễn Văn Đ, theo “Hợp đồng mua bán xe máy” số 9669.2019/HĐMB lập ngày 12/11/2019 tại Văn phòng công chứng Vũ Tiến T, ông Đ sử dụng xe ô tô trên cho đến nay. Ngày 12/8/2020, Cục đăng kiểm Việt Nam đã có văn bản số 2661/ĐKVN-VAR về việc nhập biển số xe 29H-133.49 vào chương trình cảnh báo tại các đơn vị đăng kiểm theo đề nghị tạm dừng đăng kiểm xe ô tô của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ.

Ngày 09/6/2020 anh Đỗ Quang H đã trình báo sự việc đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ đề nghị điều tra, làm rõ và xử lý bị cáo M theo quy định; đồng thời tự nguyện giao nộp 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 29H- 133.49 số 529554 mang tên Nguyễn Đức M và hợp đồng chuyển nhượng xe ô tô BKS 29H-133.49.

Phục vụ C tác điều tra, ngày 27/7/2020, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phú Thọ đã trưng cầu Hội đồng ĐGTS trong TTHS thị xã Phú Thọ Đ giá chiếc xe ô tô BKS 29H - 133.49. Tại Bản kết luận Đ giá tài sản số 22/2020/ KL - ĐGTS ngày 29/7/2020, Hội đồng ĐGTS trong TTHS thị xã Phú Thọ kết luận: Giá trị còn lại của tài sản là 455.700.000 đồng.

Ngày 01/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phú Thọ đã trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ giám Đ Chứng nhận đăng ký xe ô BKS 29H - 133.49 mà M đã sử dụng để làm hợp đồng bán xe cho anh H. Tại Kết luận giám Đ số 771/KLGĐ - 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận Chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 29H - 133.49 mà Cơ quan CSĐT C an thị xã Phú Thọ gửi giám Đ là đăng ký xe giả.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ giám Đ chữ ký, chữ viết của M, H trên “Hợp đồng chuyển nhượng xe ô tô” ngày 29/5/2019 và “Hợp đồng mua bán xe máy” ngày 12/11/2019. Tại bản kết luận giám Đ số 1135 ngày 10/11/2020 và bản luận giám Đ số 440 ngày 08/4/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

+ Chữ ký, chữ viết trên “Hợp đồng chuyển nhượng xe ô tô” bán xe cho anh H là do M, H ký, viết ra.

+ Chữ ký, chữ viết trên “Hợp đồng mua bán xe máy” ngày 12/11/2019 chuyển nhượng cho anh Đ - không phải do M, H ký, viết ra.

Căn cứ tài liệu điều tra thu thập được có trong hồ sơ, ngày 30/9/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ, Quyết định khởi tố vụ án hình sự, ngày 26/11/2020, Quyết định khởi tố bị can, Quyết định truy nã đối với Nguyễn Đức M về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Đến ngày 04/3/2021, M bị bắt tại xã M Quang, huyện B, thành phố Hà Nội và bị tạm giữ, tạm giam theo quy định. Ngày 23/3/2021, Cơ quan điều tra Công an thị xã Phú Thọ ra Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố bị can đối với M về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” quy định tại khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ, bị cáo M khai nhận hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh H. Tuy nhiên, bị cáo khai việc ký hợp đồng chuyển nhượng xe ô tô BKS 29H - 133.49 cho anh H chỉ là hình thức để thế chấp, thực tế là bị cáo vay anh H 350.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận nếu M trả đầy đủ tiền gốc, lãi thì hợp đồng sẽ bị hủy nên sau khi ký hợp đồng, anh H giữ giấy đăng ký xe ô tô giả và đưa cho M 350.000.000 đồng; còn chiếc xe ô tô BKS 29H-133.49, bị cáo vẫn quản lý, sử dụng chứ không phải bị cáo mượn lại xe ô tô như anh H đã khai. Ngoài lời khai, bị cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng M việc chuyển nhượng xe ô tô là để vay tiền trong khi việc ký hợp đồng chuyển nhượng xe ô tô BKS 29H-133.49 giữa bị cáo M cùng vợ là chị H và anh H là có thật, được thực hiện dưới sự chứng kiến của công chứng viên Phòng công chứng số 2, tỉnh Phú Thọ; trong hợp đồng không thể hiện nội dung nếu bị cáo trả được tiền gốc, lãi thì hợp đồng bị hủy. Vì vậy, lời khai của bị cáo M là không có căn cứ.

Đối với Phùng Thị H, trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng xe ô tô BKS 29H-133.49; H không được M bàn bạc, trao đổi gì, cũng không biết bị cáo M sử dụng giấy đăng ký xe ô tô BKS 29H-133.49 giả để làm hợp đồng chuyển nhượng với anh H. Bị cáo chỉ nói với chị H ký giấy vay nợ lấy tiền làm ăn; Tại phòng Công chứng số 2 tỉnh Phú Thọ, vì tin tưởng bị cáo, chị H ký mà không đọc nội dung hợp đồng. Bản thân chị H sống phụ thuộc, không biết bị cáo lừa chiếm đoạt tiền của anh H và bị cáo sử dụng giấy tờ đăng ký giả. Vì vậy, H không đồng phạm với bị cáo M về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Đối với người đàn ông bán giấy đăng ký xe ô tô giả cho M, M không biết tên, tuổi, địa chỉ cũng không nhớ đặc điểm nhận dạng. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ không có căn cứ xác M, làm rõ.

Đối với hợp đồng chuyển nhượng xe ô tô BKS 29H-133.49 số 780 được xác lập, ký kết tại phòng Công chứng số 2, tỉnh Phú Thọ ngày 29/5/2019; trong khi hợp đồng thế chấp xe ô tô BKS 29H-133.49 tại N hàng TMCP Đại chúng Việt Nam - chi nhánh Hai Bà Trưng để đảm bảo khoản vay vẫn còn hiệu lực, tài sản chưa được giải chấp. Do pháp luật về lĩnh vực Công chứng chưa có quy định cụ thể về phạm vi Công chứng hợp đồng, giao dịch đối với động sản; cơ sở dữ liệu Công chứng giữa các tỉnh, thành phố chưa liên thông.Vì vậy, Nguyễn Đức M đã đăng ký thế chấp chiếc xe ô tô BKS 29H-133.49 tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản Hà Nội để vay tiền, sau đó lại chuyển nhượng chiếc xe ô tô BKS 29H-133.49 cho anh H, hợp đồng chuyển nhượng được lập tại phòng Công chứng mà không bị phát hiện. Như vậy, có căn cứ xác định Hợp đồng chuyển nhượng số 780 là vô hiệu do bị lừa dối. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ có văn bản số 210 ngày 16/5/2021 đề nghị Thủ trưởng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Thọ kiến nghị Sở tư pháp có ý kiến với Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Phú Thọ nghiên cứu, tham mưu hoàn thiện Luật Công chứng.

Đối với ông Vũ Tiến T xác nhận hợp đồng mua bán xe máy mà không có sự tham gia của các chủ thể giao dịch đã vi phạm điểm d, khoản 2, Điều 14 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính Phủ. Tuy nhiên, hành vi vi phạm của ông Vũ Tiến T xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội, thuộc thẩm quyền xử lý của Sở Tư pháp thành phố Hà Nội. Ngày 22/3/2021 Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phú Thọ đã có văn bản số 130 đề nghị Sở Tư pháp thành phố Hà Nội xác M, xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với N hàng TMCP Đại chúng Việt Nam - Chi nhánh Hai Bà Trưng, Hà Nội đồng ý cho ông Nguyễn Văn C trả nợ thay cho M; làm thủ tục giải chấp và trả lại giấy đăng ký xe ô tô BKS 29H-133.49 cho ông C mà không có ủy quyền của Nguyễn Đức M là thực hiện không đúng điều khoản hợp đồng 692/2018/HĐBĐ/PVB-HBT. Ngày 10/5/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ đã có văn bản số 209 đề nghị N hàng TMCP Đại chúng Việt Nam xử lý cá nhân, tổ chức liên quan.

Đối với ông Nguyễn Văn Đ, hiện đang quản lý chiếc xe ô tô BKS 29H- 133.49; mặc dù khi mua bán xe ô tô BKS 29H-133.49, ông Đ thực hiện không đúng quy định của Nhà nước về mua bán tài sản có đăng ký; tuy nhiên quá trình điều tra cả ông C, M và H đều xác định giao dịch mua bán xe ô tô BKS 29H-133.49 cho ông Đ là ngay thẳng và đều đồng ý chuyển nhượng xe ô tô cho ông Đ đồng thời đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ gỡ bỏ phong tỏa để ông Đ được sở hữu chiếc xe trên.

Về vật chứng, tài sản, đồ vật tạm giữ gồm: Các hợp đồng thế chấp, hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua bán, chuyển nhượng xe ô tô; giấy bán xe là chứng cứ chứng M tội phạm được lưu trong hồ sơ vụ án; giấy đăng ký xe ô tô giả được chuyển theo hồ sơ vụ án, Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Quang H yêu cầu Nguyễn Đức M phải trả lại cho anh H chiếc xe ô tô BKS 29H-133.49.

Về điều kiện kinh tế: Bị cáo Nguyễn Đức M không có tải sản gì có giá trị. Tại bản cáo trạng số: 41/CT-VKSTXPT ngày 22/6/2021 VKSND thị xã Phú Thọ truy tố bị cáo Nguyễn Đức M về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự và tội ” Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức ” theo quy định tại khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức M phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.

Áp dụng điểm a khoản 3 điều 174; Điểm b khoản 3 Điều 341; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 55, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Đức M từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”. Tổng hợp cả hai tội bị cáo phải chấp hành từ 12 năm đến 13 năm tù.Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là 04/3/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Anh H yêu cầu bị cáo M phải trả lại cho anh H chiếc xe ô tô BKS 29H-133.49. Xét thấy giao dịch của các bên bị vô hiệu do bị lừa dối. Căn cứ vào Điều 127,Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Cần buộc bị cáo M phải trả cho anh H số tiền 350.000.000đ (Ba trăm năm mươi triệu đồng)

- Về xử lý vật chứng: Các hợp đồng thế chấp, hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua bán, chuyển nhượng xe ô tô; giấy bán xe là chứng cứ chứng M tội phạm được lưu trong hồ sơ vụ án.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là sai, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình có cơ hội làm lại từ đầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phú Thọ, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại, những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đánh giá các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Ngày 29/5/2019, tại Phòng Công chứng số 2, tỉnh Phú Thọ thuộc phường Âu Cơ, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ; bị cáo Nguyễn Đức M đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản với hình thức: Sử dụng giấy đăng ký xe ô tô BKS 29H-133.49 giả để xác lập hợp đồng chuyển nhượng xe ô tô cho anh Nguyễn Quang H rồi chiếm đoạt 350.000.000 đồng của anh H, số tiền có được M chi tiêu cá nhân hết. Cơ quan điều tra Công an thị xã Phú Thọ chưa thu hồi được. Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, có đủ căn cứ pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Đức M phạm tội:

“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 điều 174 của Bộ luật hình sự và tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” quy định tại điểm b khoản 3 điều 341 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ truy tố bị cáo về tội danh cũng như điều khoản trên là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Khoản 3 Điều 174 - Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nH thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

...

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

...” Khoản 3, Điều 341 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.

………… 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm ………….

b, Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

[3].Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Xét tính chất,mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Nhà nước bảo vệ. Do vậy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt đối với bị cáo thì cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như sau:

Trước lần phạm tội này, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Sau khi phạm tội bị cáo còn bỏ trốn. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, mới đủ điều kiện để giáo dục bị cáo rèn luyện, cải tạo được tội lỗi mà bị cáo đã phạm. Đối với bị cáo chỉ cần áp dụng hình phạt như Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ đề nghị là phù hợp. Mức án đó cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 điều 174 và khoản 4 điều 341 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng,cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm C việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm…”. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 50.000.000đ. Xét thấy, bị cáo nghề nghiệp lao động tự do, không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Anh H yêu cầu bị cáo M phải trả lại cho anh H chiếc xe ô tô BKS 29H-133.49. Xét thấy, giao dịch mua bán xe ô tô giữa bị cáo với anh H là giao dịch dân sự thông thường nH bị vô hiệu do bị lừa dối. Vì vậy, yêu cầu của anh H về việc trả xe cho anh là không có căn cứ mà cần buộc bị cáo M phải trả cho anh H số tiền 350.000.000đồng mà anh H đã trả tiền để mua xe ; tại phiên tòa bị cáo M cũng nhất T trả cho anh H số tiền trên.

[6]. Về xử lý vật chứng: Đối với các hợp đồng thế chấp, hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua bán, chuyển nhượng xe ô tô; giấy bán xe là chứng cứ chứng M tội phạm cần lưu trong hồ sơ vụ án.

Đối với giấy đăng ký xe ô tô giả mang tên bị cáo M, bị cáo đã sử dụng để bán xe cho anh H không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chị H, trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng xe ô tô BKS 29H- 133.49; chị không được bị cáo M bàn bạc, trao đổi gì, cũng không biết bị cáo M sử dụng giấy đăng ký xe ô tô BKS 29H-133.49 giả để làm hợp đồng chuyển nhượng với anh H. Bị cáo chỉ nói với chị H ký giấy vay nợ lấy tiền làm ăn; Tại phòng Công chứng số 2 tỉnh Phú Thọ, vì tin tưởng bị cáo, chị H ký mà không đọc nội dung hợp đồng. Bản thân chị H không biết bị cáo lừa chiếm đoạt tiền của anh H và bị cáo sử dụng giấy tờ đăng ký giả. Vì vậy, chị H không đồng phạm với bị cáo M về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Đối với người đàn ông bán giấy đăng ký xe ô tô giả cho bị cáo, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cũng không nhớ đặc điểm nhận dạng. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ không có căn cứ xác M, làm rõ.

Đối với hợp đồng chuyển nhượng xe ô tô BKS 29H-133.49 số 780 được xác lập, ký kết tại phòng Công chứng số 2, tỉnh Phú Thọ ngày 29/5/2019; trong khi hợp đồng thế chấp xe ô tô BKS 29H-133.49 tại N hàng TMCP Đại chúng Việt Nam - chi nhánh Hai Bà Trưng để đảm bảo khoản vay vẫn còn hiệu lực, tài sản chưa được giải chấp. Do pháp luật về lĩnh vực Công chứng chưa có quy định cụ thể về phạm vi Công chứng hợp đồng, giao dịch đối với động sản; cơ sở dữ liệu Công chứng giữa các tỉnh, thành phố chưa liên thông. Vì vậy, bị cáo đã đăng ký thế chấp chiếc xe ô tô BKS 29H-133.49 tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản Hà Nội để vay tiền, sau đó lại chuyển nhượng chiếc xe ô tô BKS 29H-133.49 cho anh H, hợp đồng chuyển nhượng được lập tại phòng công chứng mà không bị phát hiện. Như vậy, có căn cứ xác định Hợp đồng chuyển nhượng số 780 là vô hiệu do bị lừa dối. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ có văn bản số 210 ngày 16/5/2021 đề nghị Thủ trưởng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Thọ kiến nghị Sở tư pháp nghiên cứu, tham mưu hoàn thiện Luật công chứng.

Đối với ông T xác nhận hợp đồng mua bán xe máy mà không có sự tham gia của các chủ thể giao dịch đã vi phạm điểm d, khoản 2, Điều 14 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính Phủ. Tuy nhiên, hành vi vi phạm của ông Vũ Tiến T xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội, thuộc thẩm quyền xử lý của Sở Tư pháp thành phố Hà Nội. Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phú Thọ đã có văn bản đề nghị Sở Tư pháp thành phố Hà Nội xác M, xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với N hàng TMCP Đại chúng Việt Nam - Chi nhánh Hai Bà Trưng, Hà Nội đồng ý cho ông C trả nợ thay cho bị cáo; làm thủ tục giải chấp và trả lại giấy đăng ký xe ô tô BKS 29H-133.49 cho ông C mà không có ủy quyền của bị cáo M là thực hiện không đúng điều khoản hợp đồng 692/2018/HĐBĐ/PVB-HBT. Ngày 10/5/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ đã có văn bản số 209 đề nghị N hàng TMCP Đại chúng Việt Nam xử lý cá nhân, tổ chức liên quan.

Đối với ông Đ, hiện đang quản lý chiếc xe ô tô BKS 29H-133.49; mặc dù khi mua bán xe ô tô BKS 29H-133.49, ông Đ thực hiện không đúng quy định của Nhà nước về mua bán tài sản có đăng ký; tuy nhiên quá trình điều tra cả ông C, bị cáo M và chị H là vợ bị cáo đều xác định giao dịch mua bán xe ô tô BKS 29H-133.49 cho ông Đ là ngay thẳng và đều đồng ý chuyển nhượng chiếc xe ô tô cho ông Đ đồng thời đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ gỡ bỏ phong tỏa để ông Đ được sở hữu chiếc xe trên là phù hợp.

Đối với hành vi bị cáo M cầm cố chiếc xe ô tô BKS 29H-133.49 tại nhà ông Trần Viết Q, sinh năm 1971 ở phường Hùng Vương, thị xã Phú Thọ để cầm cố chiếc xe lấy 200.000.000 đồng. Xét thấy đây là giao dịch dân sự, bố bị cáo đã trả tiền cho ông Q và ông Q đã chết nên không đề cập xử lý là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ thực hành quyền C tố tại phiên tòa đề xuất về hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ hợp với pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341 điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 55, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 127, Điều 131 Bộ luật dân sự; điểm c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức M phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “ Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức M 08 (Tám) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” 04 (Bốn) năm tù về tội: “ Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là 04/3/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Về xử lý vật chứng: Lưu trong hồ sơ vụ án: Hợp đồng thế chấp, hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua bán, chuyển nhượng xe ô tô; giấy bán xe.

Tịch thu tiêu hủy 01 giấy đăng ký xe ô tô giả mang tên bị cáo Nguyễn Đức M.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải trả cho anh H số tiền 350.000.000đ (Ba trăm năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày anh H có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong. Bị cáo M chậm trả tiền thì bị cáo còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo Điều 357, 468 Bộ luật dân sự.

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Đức M phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 17.500.000đ án phí dân sự trong vụ án hình sự.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức số 47/2021/HS-ST

Số hiệu:47/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Thọ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;