TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 34/2021/HSST NGÀY 03/03/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ SỬ DỤNG CON DẤU HOẶC TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC
Trong ngày 03/3/2021, tại trụ sở TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 18/2021/TLST-HS ngày 21/01/2021 đối với các bị cáo:
1. Lê Thị N, sinh năm 1974; Giới tính: Nữ Nơi ĐKNKTT: Số 4, ngõ 12, phố Cao Thắng, phường Yết Kiêu, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị S
Bị cáo có chồng là Phạm Thanh H, sinh năm 1973, có 03 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2014.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị giữ khẩn cấp ngày 31/7/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Số 1 Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 4193V1/M2 – Có mặt
2. Lê Thị Hoài Th, sinh năm 1988; Giới tính: Nữ Nơi ĐKNKTT: Thôn Sen Trì, xã Bình Yên, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Lê Bắc K và bà Nguyễn Thị L
Bị cáo có chồng là Vương Đắc C, sinh năm 1988 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2008.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị giữ khẩn cấp ngày 31/7/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Số 1 Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 4194V1/M1 – Có mặt
3. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1991; Giới tính: Nam Nơi ĐKNKTT: Thôn Víp, xã Minh Quang, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Nơi cư trú: Ngõ 63, Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Dân tộc: Mường; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị H1
Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Hải Y, sinh năm 1992, có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2017.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị giữ khẩn cấp ngày 31/7/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Số 1 Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 4192V1/7 – Có mặt
Bị hại: Ngân Hàng TNHH MTV W Người đại diện theo pháp luật: Ông Lee J – Tổng giám đốc Địa chỉ: Tầng 34 Tòa nhà Keangnam Landmark 72, E6 Phạm Hùng, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Mạnh H2, sinh năm 1988 Nơi ĐKNKTT: 9B Lê Quý Đôn, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Các bị cáo bị VKSND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng đầu tháng 7/2020, do cần tiền để trả nợ và chi tiêu cá nhân nên Lê Thị N, Lê Thị Hoài Th và Nguyễn Văn Đ bàn bạc làm các giấy tờ giả để vay và chiếm đoạt tiền của ngân hàng. Cả ba thống nhất Th là người liên hệ với nhân viên ngân hàng hỏi thủ tục vay, N liên hệ người làm giấy tờ giả (lấy ảnh và tên của Đ, nhưng địa chỉ nơi cư trú là giả), Đ đến ngân hàng để làm thủ tục ký hợp đồng vay. Sau đó Th liên hệ với Vũ Thị Mai Dung là nhân viên hợp đồng của công ty TNHH MP là Công ty liên kết với Ngân hàng W để hỏi thủ tục vay tín chấp. Dung tư vấn thủ tục tín chấp cần chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, nếu làm việc tại Công ty thì cần giấy xác nhận nhân sự và hợp đồng lao động. Lê Thị N liên lạc với một người tên Hoài để làm giấy tờ giả (hiện không xác định được nhân thân, lai lịch) gồm: 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 sổ hộ khẩu, 01 giấy xác nhận nhân sự và 01 hợp đồng lao động của Công ty Samsung Electronis Việt Nam Thái Nguyên, với giá 12.000.000đ, toàn bộ giấy tờ đều dán ảnh và mang tên Nguyễn Văn Đ (Sinh năm: 1992; HKTT: Khối 8, Phù Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội). N giao dịch với đối tượng Hoài qua một thanh niên (hiện không xác định được nhân thân lai lịch).
Sau khi nhận được giấy tờ giả nêu trên, N đưa cho Thương, Th đưa cho Đ để đến Ngân hàng W để làm thủ tục ký hợp đồng vay 200.000.000đ. Sau khi làm các thủ tục, Ngân hàng W đồng ý giải ngân cho Đ số tiền 140.000.000đ. Để thủ tục được nhanh, Nhung, Th và Đ thống nhất sẽ bồi dưỡng cho Dung 10.000.000đ sau khi được giải ngân. Đồng thời thống nhất nếu lấy được tiền, Th và Đ mỗi người được hưởng 10.000.000đ, số tiền còn lại do N quản lý (vì N là người bỏ tiền cá nhân ra làm giấy tờ giả và đang cần tiền trả nợ). Sáng ngày 31/7/2020, Dung thông báo cho Đ về việc ngân hàng đã đồng ý giải ngân, yêu cầu Đ mang theo các giấy tờ gốc nêu trên cùng bằng lái xe đến để đối chiếu. Th và Đ đã vào một cửa hàng photo ở Hòa Lạc, Thạch Thất, Hà Nội nhờ một thanh niên scan giấy phép lái xe và chỉnh sửa giấy phép mang tên Nguyễn Văn Đ (Sinh năm: 1992; HKTT: Khối 8, Phù Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội có dán ảnh của Đ (Th và Đ chỉ nhớ scan ở một cửa hàng trên đường đi từ nhà của Th ở Bình Yên, Thạch Thất, Hà Nội đến ngân hàng không nhớ địa chỉ cụ thể). Sau đó Th và Đ cầm các giấy tờ giả đến ngân hàng W để làm thủ tục giải ngân. Sau khi ngân hàng chuyển số tiền 140.000.000đ vào tài khoản của Đ, khi Đ đang làm thủ tục để rút tiền thì tổ công tác phòng PA04, An ninh kinh tế Công an thành phố Hà Nội tiến hành kiểm tra, thu giữ giấy tờ, tài liệu và đưa Đ về trụ sở làm việc.
Tại cơ quan điều tra, Lê Thị N, Lê Thị Hoài Th và Nguyễn Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn Đ:
- 01 (một) sổ hộ khẩu số 2422544502, họ và tên chủ hộ: Nguyễn Văn Thanh, nơi thường trú: Khối 8, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội - 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 013249641 mang tên Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 15/08/1992, nơi đăng ký thường trú: Khối 8, Phù Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội.
- 01 (một) giấy phép lái xe số AQ 910247 mang tên Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Khối 8, Phù Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội.
- 01 (một) hợp đồng lao động số 138958/LC-SEVT giữa Công ty TNHH Samsung Electronic Việt Nam, địa chỉ: Khu công nghiệp Yên Bình, phường Đồng Tiến, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên với Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 15/08/1992, số CMND 013249641 cấp ngày 04/8/2012, địa chỉ thường trú: Khối 8, Phù Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội.
- 01 (một) thẻ nhân viên ra vào công ty Sam Sung mang tên Nguyễn Văn Đ, số 1611273234.
- 01 (một) điện thoại Mobell màu đen gắn sim số 0344601991; 01 điện thoại Samsung J4 màu vàng gắn sim số 0961497078 và sim 0865176691;
- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Coolpad màu đen gắn sim số 0796244578 và sim 0387031327; 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO CPH1989 gắn sim sô 0852041188 (tạm giữ của Lê Thị Hoài Th);
- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu nhãn hiệu Huawei Y6 Prime 2018 gắn sim số 0974707340 (thu giữ của Lê Thị N).
Quá trình khám xét khẩn cấp ngày 01/8/2020 tại thôn Sen Trì, xã Bình Yên, Thạch Thất, Hà Nội nhà của Lê Thị Hoài Th, Cơ quan điều tra đã thu giữ:
- 01 sổ hộ khẩu số 450431043, chủ hộ: Nguyễn Xuân Tr, nơi thường trú: Khu Gò Cao, xã Văn Khúc, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ;
- 01 sổ hộ khẩu số 242115347, chủ hộ: Nguyễn Văn Phương, nơi thường trú: Số 42 ngõ 73 Mễ Trì Thượng, phường Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội;
- 01 sổ hộ khẩu số 242428205, chủ hộ Nguyễn Ngọc Giang, nơi thường trú: Thôn Lê Xá, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội;
- 01 sổ hộ khẩu số 2420582558, chủ hộ: Nguyễn Văn Toản, nơi thường trú: số 4 tổ dân phố Phú Mỹ, phường Biên Giang, quận Hà Đông, Hà Nội;
- 01 giấy chứng minh nhân dân số 0116686484 mang tên Nguyễn Văn Toàn;
- 01 giấy chứng minh nhân dân số 012410714 mang tên Nguyễn Ngọc Giang;
- 01 giấy chứng minh nhân dân số 013493836 mang tên Nguyễn Thị Xuân;
- 01 giấy chứng minh nhân dân số 013432641 mang tên Ngô Văn H3;
- 01 giấy chứng minh nhân dân số 012811026 mang tên Lê Thị Hà;
- 01 giấy chứng minh nhân dân số 012811756 mang tên Nguyễn Đình Nhật;
- 01 giấy chứng minh nhân dân số 017438943 mang tên Nguyễn Văn Gi;
- 01 giấy chứng minh nhân dân số 013494254 mang tên Nguyễn Thị Huyền .
Kết luận giám định số 9053/KLGĐ-PC09-Đ4 ngày 23/10/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận:
1. Hình dấu tròn “Công An huyện Sóc Sơn - Công an thành phố Hà Nội”; hình dấu tên “Thượng tá Nguyễn Hữu Đ”; chữ ký đứng tên Nguyễn Hữu Đ trên mẫu cần giám định (ký hiệu A) với hình dấu tròn “Công An huyện Sóc Sơn- Công an thành phố Hà Nội”; Hình dấu tên “Thượng tá Nguyễn Hữu Đ”; chữ ký đứng tên Nguyễn Hữu Đ trên mẫu so sánh (ký hiệu M) không phải do cùng một con dấu tương ứng đóng ra và không phải chữ do cùng một người ký ra;
2. “Giấy phép lái xe” số: AQ 910247; Họ và tên: Nguyễn Văn Đ; năm sinh 1992; nơi cư trú: Khối 8 - Phù Lỗ - Sóc Sơn- Hà Nội; cấp ngày 29/12/2010 là giấy phép lái xe giả;
3. “Giấy chứng minh nhân dân” số: 013249641; Họ tên: Nguyễn Văn Đ; sinh ngày: 15/08/1992; Nơi ĐKHK thường trú: Khối 8, Phù Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội, cấp ngày 04/08/2012 là giấy chứng minh nhân dân giả.
Kết luận giám định số 230/KLGĐ-PC09-Đ4 ngày 26/12/2020 của của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận:
1. 06 giấy chứng minh nhân dân cần giám định (Ký hiệu từ A1 đến A6) là 06 giấy chứng minh nhân dân giả;
* Giấy chứng minh nhân dân (Ký hiệu A7) không phát hiện thấy dấu vết bóc tách, thay ảnh, tẩy xóa, sửa chữa, điền thêm. Chữ ký đứng tên Nguyễn Đ Nhanh đúng với mẫu so sánh hiện lưu tại Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, hình dấu tròn “Công an thành phố Hà Nội” hiện Phòng Kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội không có mẫu so sánh tương ứng nên không tiến hành giám định;
* Giấy chứng minh nhân dân (Ký hiệu A8) không phát hiện thấy dấu vết bóc tách, thay ảnh, tẩy xóa, sửa chữa, điền thêm. Hình dấu, chữ kỹ đúng với mẫu so sánh hiện lưu tại Phòng kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội;
2. Hình dấu tròn “Công an quận Hà Đông”, chữ ký đứng tên Vũ Hồng Quang trên mẫu cần giám định (Ký hiệu A9) với hình dấu tròn “Công an quận Hà Đông”, chữ ký đứng tên Vũ Hồng Quang trên mẫu so sánh (Ký hiệu M1) không phải do cùng một con dấu đóng ra và không phải là chữ do cùng một người ký ra;
3. Hình dấu tròn “Công an huyện Đông Anh” chữ ký đứng tên Khuất Mạnh Thuyết trên mẫu cần giám định (ký hiệu A10) với hình dấu tròn “Công an huyện Đông Anh”, chữ ký đứng tên Khuất Mạnh Thuyết trên mẫu so sánh (ký hiệu M2) không phải do cùng một con dấu đóng ra và không phải là chữ do cùng một người ký ra;
4. Hình dấu tròn “Công an xã Văn Khúc – Công an huyện Cẩm Khê – Phú Thọ” trên mẫu cần giám định (Ký hiệu A11) với hình dấu tròn “Công an xã Văn Khúc – Công an huyện Cẩm Khê – Phú Thọ” trên mẫu so sánh (Ký hiệu M3) do cùng một con dấu đóng ra.
Không đủ cơ sở kết luận chữ ký đứng tên Trần Văn Sơn trên mẫu cần giám định (ký hiệu A11) với chữ ký đứng tên Trần Văn Sơn trên mẫu so sánh (ký hiệu M3) có phải là chữ do cùng một người ký ra hay không.
5. Hình dấu tròn “CÔNG AN QUẬN NAM TỪ LIÊM”, chữ ký đứng tên Phạm Ngọc Kim trên mẫu cầu giám định (Ký hiệu A12) với hình dấu tròn “CÔNG AN QUẬN NAM TỪ LIÊM”, chữ ký đứng tên Phạm Ngọc Kim trên mẫu so sánh (Ký hiệu từ M4 đến M7) không phải do cùng một con dấu đóng ra và không phải là chữ do cùng một người ký ra;
6. Hình dấu tròn “SAM SUNG CÔNG TY TNHH SAMSUNG ELECTRONICS VIỆT NAM THÁI NGUYÊN” trên các mẫu cần giám định (ký hiệu A113, A14) với hình dấu tròn “SAM SUNG CÔNG TY TNHH SAMSUNG ELECTRONICS VIỆT NAM THÁI NGUYÊN” không phải do cùng một con dấu đóng ra.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm thu giữ tại nhà của Lê Thị Hoài Th 08 chứng minh nhân dân, 04 sổ hộ khẩu. Th khai nhận: có 03 chứng minh nhân dân là do Th nhặt được từ trước gồm: 01 sổ hộ khẩu chủ hộ Nguyễn Xuân Tr, 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn Gi và 01 chứng minh nhân dân mang tên Ngô Văn H3, còn lại 06 chứng minh thư và 03 sổ hộ khẩu là do N đưa cho Th cầm hộ, sau khi N đưa Th có mang về nhà để trên nóc tủ không sử dụng vào việc gì. Tuy nhiên, Lê Thị N không thừa nhận đã đưa cho Th các giấy tờ trên. Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã tiến hành xác minh và ghi lời khai đối với Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Văn Gi, Ngô Văn H3. Xác định Tr, Gi và H3 cư trú tại địa chỉ nêu trên. Tr, Gi và H3 đều khai nhận việc bị mất giấy tờ trên. Đối với 06 giấy CMND mang tên Nguyễn Thị Huyền, Nguyền Đình Nhật, Nguyễn Văn Toàn, Lê Thị Hà, Nguyễn Thị Xuân, Nguyễn Ngọc Giang và 03 sổ hộ khẩu chủ hộ là Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Văn Toản, Nguyễn Ngọc Giang: quá trình xác minh tại các địa chỉ ghi trong giấy chứng minh thư đều không có người có tên như trên. Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã Quyết định trưng cầu giám định các giấy tờ trên và xác định là giấy tờ giả. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra chưa xác định được người đã làm giả các giấy tờ trên. Lê Thị Hoài Th và Lê Thị N cũng chưa sử dụng các giấy tờ trên để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Ngày 24/12/2020, Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách tài liệu số 01 đối với các tài liệu liên quan tới 08 chứng minh nhân dân và 04 sổ hộ khẩu nêu trên, để tiếp tục xác minh làm rõ khi có căn cứ xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với Vũ Thị Mai Dung, nhân viên Ngân hàng W, là người trực tiếp làm thủ tục cho Đ vay tiền. Dung khai nhận: không biết giấy tờ Đ sử dụng là giấy tờ giả, Dung cũng chưa nhận số tiền 10.000.000 đồng của Thương, N và Đ, nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Đối với đối tượng tên Hoài, N liên lạc để làm giấy tờ giả, N khai: Quen Hoài qua mạng zalo, không biết nhân thân, lý lịch của Hoài, quá trình làm giấy tờ giả N đều liên lạc qua mạng Zalo với Hoài. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm không xác định được đối tượng Hoài. Do đó, không có căn cứ xử lý.
Về dân sự: Anh Trần Mạnh H2 là người đại diện theo ủy quyền, của ngân hàng W không yêu cầu bồi thường về dân sự.
Tại bản cáo trạng số 21/QĐ-VKSNTL ngày 21/01/2021 của VKSND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã truy tố các bị cáo: Lê Thị N, Lê Thị Hoài Th và Nguyễn Văn Đ, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 BLHS và tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, quy định tại điểm d khoản 2 Điều 341 BLHS.
Kết thúc phần tranh tụng; Tại phần tranh luận, đại diện VKS đọc bản luận tội đối với các bị cáo. Nội dung bản luận tội đã phân tích nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội của từng bị cáo; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với các bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người đúng tội đúng pháp luật. Đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Lê Thị N, Lê Thị Hoài Th và Nguyễn Văn Đ phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Về Điều luật và hình phạt đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174, điểm d khoản 2 Điều 341, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, 55 BLHS Đề nghị xử phạt:
1. Bị cáo Như: Từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là từ 7 năm đến 8 năm tù.
2. Bị cáo Th Từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Từ 30 đến 36 tháng tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là từ 6 năm 6 tháng tù đến 7 năm 6 tháng tù.
3. Bị cáo Đ: 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Từ 30 đến 36 tháng tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 6 năm 6 tháng tù đến 7 năm 6 tháng tù.
Miễn hình phạt bổ sung cho cả 03 bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước 05 điện thoại di động các loại. Lưu hồ sơ các tài liệu chứng cứ giả mà các bị cáo dử dụng để lừa đảo.
Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng số 21/QĐ- VKSNTL ngày 21/01/2021 của VKSND quận Nam Từ Liêm đã truy tố các bị cáo. Các bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố và lời luận tội của đại diện VKS đối với các bị cáo tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, không oan. Không có bị cáo nào tranh luận với lời luận tội của vị đại diện VKS. Tại lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Bị hại đã dược triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Trong giai đoạn điều tra, bị hại đã có lời trình bày thể hiện: Về hình phạt đề nghị HĐXX xét xử các bị cáo theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, HĐXX nhận định: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ và lời khai trước đây của các bị cáo có tại hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Khoảng đầu tháng 7/2020, do cần tiền để trả nợ và chi tiêu cá nhân nên Lê Thị N, Lê Thị Hoài Th và Nguyễn Văn Đ bàn bạc làm các giấy tờ giả để vay và chiếm đoạt tiền của ngân hàng. Cả ba thống nhất Th là người liên hệ với nhân viên ngân hàng hỏi thủ tục vay, N liên hệ người làm giấy tờ giả, Đ đến ngân hàng để làm thủ tục ký hợp đồng vay.
Khoảng 11h 30 phút ngày 31/7/2020, tại Ngân hàng W địa chỉ tại tòa nhà KeangNam, đường Phạm Hùng, thuộc phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Lê Thị N, Lê Thị Hoài Th và Nguyễn Văn Đ đã có hành vi sử dụng các giấy tờ giả bao gồm: 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 sổ hộ khẩu, 01 giấy phép lái xe; 01 giấy xác nhận nhân sự và hợp đồng lao động của Công ty S mang tên Nguyễn Văn Đ để lừa đảo Ngân hàng W, chiếm đoạt số tiền 140.000.000đ.
Hành vi của các bị cáo Lê Thị N, Lê Thị Hoài Th và Nguyễn Văn Đ đã phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174, điểm d khoản 2 Điều 341 BLHS.
Xét cáo trạng truy tố và lời trình bày luận tội của đại diện VKS tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên được chấp nhận.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi sử dụng giấy tờ giả để lừa đảo chiếm đoạt tiền cảu Ngân hàng đã trực tiếp xâm hại đến tài sản của pháp nhân được pháp luật hình sự bảo vệ; Trực tiếp xâm phạm trật tự quản lý hành chính, xâm phạm sự hoạt động bình thường và uy tín của các cơ quan Nhà nước, tổ chức, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và công dân.
Xét vụ án có nhiều bị cáo cùng thực hiện nhiều hành vi phạm tôi; Mặc dù trước khi phạm tội các bị cáo có giao trách nhiệm cho mỗi bị cáo làm các việc khác nhau để có được tài liệu giả để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, hành vi của các bị cáo chỉ mang tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo N xác định có vai trò chính; Ccá bị cáo Thương, Đ có vài trò như nhau.
Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng áp dụng đối với các bị cáo: Các bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội nhưng cùng lúc phạm 02 tội nghiêm trọng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại đầy đủ tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu gì về dân sự đối với các bị cáo nên HĐXX không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ một số tài liệu giả của các cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, kết quả điều tra chưa chứng minh được ai đã làm giả các giấy tờ thu giữ, các bị cáo chưa sử dụng vào mục đích gì nên Cơ quan điều tra đã quyết định tách những tài liệu và nội dung này để tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau, xét thấy là phù hợp. Các tài liệu thu giữ là các giấy tờ giả các bị cáo sử dụng để phạm tội là chứng cứ của vụ án, HĐXX tuyên tiếp tục lưu tại hồ sơ vụ án.
Số vật chứng là 05 điện thoại di động các loại thu giữ của các bị cáo xác định có liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm thu giữ tại nhà của Lê Thị Hoài Th 08 chứng minh nhân dân, 04 sổ hộ khẩu. Th khai nhận: có 03 chứng minh nhân dân là do Th nhặt được từ trước gồm: 01 sổ hộ khẩu chủ hộ Nguyễn Xuân Tr, 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn Gi và 01 chứng minh nhân dân mang tên Ngô Văn H3, còn lại 06 chứng minh thư và 03 sổ hộ khẩu là do N đưa cho Th cầm hộ, sau khi N đưa Th có mang về nhà để trên nóc tủ không sử dụng vào việc gì. Tuy nhiên, Lê Thị N không thừa nhận đã đưa cho Th các giấy tờ trên. Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã tiến hành xác minh và ghi lời khai đối với Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Văn Gi, Ngô Văn H3. Xác định Tr, Gi và H3 cư trú tại địa chỉ nêu trên. Tr, Gi và H3 đều khai nhận việc bị mất giấy tờ trên. Đối với 06 giấy CMND mang tên Nguyễn Thị Huyền, Nguyền Đình Nhật, Nguyễn Văn Toàn, Lê Thị Hà, Nguyễn Thị Xuân, Nguyễn Ngọc Giang và 03 sổ hộ khẩu chủ hộ là Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Văn Toản, Nguyễn Ngọc Giang: quá trình xác minh tại các địa chỉ ghi trong giấy chứng minh thư đều không có người có tên như trên. Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã Quyết định trưng cầu giám định các giấy tờ trên và xác định là giấy tờ giả. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra chưa xác định được người đã làm giả các giấy tờ trên. Lê Thị Hoài Th và Lê Thị N cũng chưa sử dụng các giấy tờ trên để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Ngày 24/12/2020, Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách tài liệu số 01 đối với các tài liệu liên quan tới 08 chứng minh nhân dân và 04 sổ hộ khẩu nêu trên, để tiếp tục xác minh làm rõ khi có căn cứ xử lý theo quy định của pháp luật.
Liên quan trong vụ án còn có Vũ Thị Mai Dg, nhân viên Ngân hàng W, là người trực tiếp làm thủ tục cho Đ vay tiền. Dg khai nhận: không biết giấy tờ Đ sử dụng là giấy tờ giả, Dung cũng chưa nhận số tiền 10.000.000đ của Thương, N và Đ, nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Đối với đối tượng tên Hoài, N liên lạc để làm giấy tờ giả, N khai: quen Hoài qua mạng zalo, không biết nhân thân, lý lịch của Hoài, quá trình làm giấy tờ giả N đều liên lạc qua mạng Zalo với Hoài. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm không xác định được đối tượng Hoài. Do đó, không có căn cứ xử lý.
Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Lê Thị N, Lê Thị Hoài Th và Nguyễn Văn Đ phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174, điểm d khoản 2 Điều 341, điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38, 47, 55 BLHS; Điều 106, 136, 329 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt:
1. Bị cáo Lê Thị N 03 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
03 năm tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 06 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/7/2020.
2. Bị cáo Lê Thị Hoài Th: 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
02 năm 06 tháng tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/7/2020.
3. Bị cáo Nguyễn Văn Đ: 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; 02 năm 06 tháng tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/7/2020.
Tạm giam mỗi bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án. Miễn hình phạt bổ sung cho cả 03 bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét do bị hại đã nhận lại đầy đủ tài sản và không yêu cầu gì.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước 05 điện thoại di động các loại. 01 điện thoại Mobell màu đen; 01 điện thoại Samsung J4 màu vàng; 01 điện thoại nhãn hiệu Coolpaol màu đen; 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO CPH1989 màu xanh; 01 điện thoại nhãn hiệu nhãn hiệu Huawei Y6 Prime 2018 màu xanh.
(Đặc điểm vật chứng đúng như biên bản giao nhận vật chứng số 102 ngày 21/01/2021 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm) Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí HSST.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 34/2021/HSST
Số hiệu: | 34/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về