Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 80/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 80/2021/HS-PT NGÀY 19/11/2021 VỀ TỘI LA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 124/2021/TLPT – HS ngày 15 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo Trần Văn N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2021/HS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị cáo có kháng cáo: Trần Văn N, sinh năm 1998 tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: ấp M, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: sinh viên; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Trần Thị B; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: chưa vi phạm pháp luật; bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: ông Trần Hồ N1 – Luật sư Công ty luật TNHH X thuộc Đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long, có mặt.

Ngoài ra còn có 04 bị hại và 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trần Văn N là sinh viên Trường Đại học D. Do cần tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân nên N mượn xe mô tô của các bạn sinh viên cùng trường đem cầm để lấy tiền, cụ thể như sau:

Vụ thứ 1: vào khoảng 08 giờ ngày 24/11/2020, Trần Văn N đến nhà trọ tại ấp A, xã Q, huyện H gặp Phạm Lê G. N hỏi mượn xe mô tô SUZUKI STRIA biển số 84 L1- 560.26 của G để về quê ở Sóc Trăng. G tin tưởng nên giao xe và giấy đăng ký xe cho N. Sau khi lấy xe N đem xe đến tiệm cầm đồ P I cầm được 32.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 72/HĐ ngày 11/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định xe mô tô biển số 64 L1- 560.26 của anh G trị giá: 46.325.000 đồng.

Vụ thứ 2: vào khoảng 12 giờ ngày 24/11/2020, N đến nhà trọ tại ấp A, xã Q, huyện H gặp Tạ Hoàng Gia B1. N hỏi mượn xe mô tô HONDA WAVE biển số 83C1-489.25 của B nói để về quê. B1 tin tưởng nên giao xe và giấy đăng ký xe cho N. Sau khi lấy xe N đem xe đến tiệm cầm đồ P II cầm được 10.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 72/HĐ ngày 11/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định xe mô tô biển số 83C1-489.25 của anh B1 trị giá: 14.232.000 đồng.

Vụ thứ 3: vào khoảng 08 giờ ngày 25/11/2020 N đến nhà trọ tại ấp A, xã Q, huyện H gặp Đoàn Gia C. N hỏi mượn xe mô tô SUZUKI SATRIA biển số 84L1-533.16 của C để về quê. C tin tưởng nên đã giao xe và giấy đăng ký xe cho N. Sau khi lấy xe N đem xe đến tiệm cầm đồ P I cầm được 32.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 71/HĐ ngày 11/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định xe mô tô biển số 84L1-533.16 của anh C trị giá: 41.600.000 đồng.

Vụ thứ 4: vào khoảng 12 giờ ngày 25/11/2020, N đến nhà trọ tại ấp A, xã Q, huyện H gặp Ngô Trung L để mượn xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE biển số 69N1-532.50 để về quê, L đồng ý và giao xe cùng giấy đăng ký xe cho N. N đem xe đến tiệm cầm đồ P I cầm xe được 10.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 73/HĐ ngày 11/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định xe mô tô biển số 69N1-532.50 của anh L trị giá: 16.400.000 đồng.

Tng trị giá 04 xe mô tô nêu trên: 118.557.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 23/CT-VKSLH ngày 08 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Vĩnh Long truy tố bị cáo Trần Văn N về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2021/HS-ST ngày 21 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân H, tỉnh Vĩnh Long, đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn N phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1. Căn cứ điểm c khoản 2 điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 ; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trần Văn N 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt.

2. Về trách nhiệm dân sự: không xem xét.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 05/6/2021, bị cáo Trần Văn N kháng cáo xin được cải tạo không giam giữ. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, lời nói sau cùng của bị cáo xin xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

Vị kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án và đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm c khoản 2 điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn N và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu: bị cáo N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Hiện nay bị cáo đang học tại Trường Đại học D, đề nghị xem xét để tạo điều kiện cho bị cáo được tiếp tục học đại học.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn N thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như bản án sơ thẩm đã xử. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ khác do Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát đã thu thập được, vì vậy có đủ căn cứ kết luận: trong các ngày 24 và ngày 25/11/2020 bị cáo Trần Văn N đưa ra thông tin gian dối về việc mượn xe đi về quê để bị hại tin tưởng giao xe cho bị cáo, sau đó bị cáo mang xe đi cầm tại tiệm cầm đồ ở Cần Thơ để chiếm đoạt 04 chiếc xe này. Tổng trị giá 04 xe mô tô nêu trên 118.557.000 đồng, bị cáo cầm được số tiền 84.000.000 đồng để trả nợ và tiêu xài. Hành vi nêu trên của bị cáo N đã phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 như bản án sơ thẩm đã xử là có căn cứ.

[2] Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo N kháng cáo xin được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nhận thấy bị cáo N tại thời điểm phạm tội đang là sinh viên đại học năm thứ 4, lẽ ra phải rèn luyện, phấn đấu trong quá trình học tập để phục vụ sau này. Nhưng bị cáo lại có hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự ở địa phương, ảnh hưởng xấu đến môi trường giáo dục và học tập. Tài sản bị cáo chiếm đoạt 04 chiếc xe mô tô, trị giá 118.557.000 đồng, đây là những phương tiện thiết yếu đi lại của các sinh viên. Trong 02 ngày bị cáo đã 04 lần chiếm đoạt 04 chiếc xe, mỗi chiếc xe trị giá trên 2.000.000 đồng, đây là tình tiết tăng nặng phạm tội hai lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy cần có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo để giáo dục và phòng ngừa. Tuy vậy xét sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về việc làm của mình. Bị cáo đã khắc phục toàn bộ thiệt hại. Bị cáo có nhân thân tốt, tuổi đời còn trẻ, đang đi học, các bị hại đều xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ. Xét cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện các tình tiết trong vụ án, đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tại cấp phúc thẩm không phát sinh tình tiết giảm nhẹ mới. Cấp sơ thẩm xử bị cáo N với mức hình phạt 01 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, mức hình phạt này là cần thiết đáp ứng yêu cầu giáo dục và phòng ngừa. Vì vậy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

[3] Về án phí: do kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận, bị cáo N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Kiểm sát viên tại phiên tòa phát biểu quan điểm phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Vị luật sư phát biểu về các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là có căn cứ. Tuy nhiên đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để tạo điều kiện bị cáo được tiếp tục học xong đại học không phù hợp với nhận định trên nên không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn N và giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 28/2021/HS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Vĩnh Long.

1. Áp dụng điểm c khoản 2 điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Trần Văn N 01 (một) năm tù về tội: “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt.

Bị cáo Trần Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

2. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm về án phí sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 80/2021/HS-PT

Số hiệu:80/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;