Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 218/2022/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 218/2022/HSPT NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 184/2022/TLPT-HS ngày 17 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Lê Xuân D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo và bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HSST ngày 06/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

B cáo có kháng cáo:

LÊ XUÂN D, sinh ngày 17 tháng 4 nẫm 1972 tại tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị B. Gia đình có 06 chị em, bị cáo là con thứ tư. Có vợ là Lương Thị T và có 02 con (con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2008). Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị truy nã theo Quyết định số 07 ngày 15/6/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng. Bị bắt truy nã và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/5/2021 đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Xuân D: Luật sư Hà Xuân B - VPLS P, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng, bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án, có mặt.

- Bị hại: Ông Đỗ Văn H, sinh năm 1967; Nơi cư trú: tỉnh Quảng Nam, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Xuân D từng là quân nhân chuyên nghiệp, công tác tại Phòng chính trị, Lữ đoàn X, Vùng 3 Hải Quân, đã được phục viên theo Quyết định số 31/QĐ- BTL ngày 19/6/2018 của Bộ tư lệnh Hải quân. Mặc dù, không có khả năng nhưng D vẫn đưa ra thông tin gian dối là có thể đưa chiến sĩ đang thực hiện nghĩa vụ quân sự đi học để chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp, cũng như xin việc làm tại Sân bay Quốc tế Đà Nẵng, sau đó viết giấy cam kết và nhận tiền của nhiều người rồi chiếm đoạt, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất; Khoảng tháng 7/2016, Lê Xuân D đưa ra thông tin gian dối với ông Lê Quang H (sinh năm 1971; trú: tỉnh Nghệ An) về việc có mối quan hệ quen biết và xin được suất vào làm việc tại Sân bay Quốc tế Đà Nẵng, mỗi suất 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng). Tin lời D, ngày 28/7/2016 ông H đưa cho D 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) với mục đích xin cho Lê Văn T (là con của ông H) vào làm việc tại Sân bay Quốc tế Đà Nẵng. D nhận tiền và viết giấy sẽ đưa T đi học lớp trung cấp An ninh soi chiếu tại Học viện Hàng không thành phố Hồ Chí Minh, thời hạn 09 tháng, sau khi ra trường sẽ đưa vào làm việc tại Sân bay Quốc tế Đà Nẵng.

Đến tháng 3/2019, do T vẫn chưa có việc làm nên ông H đến gặp và được D viết giấy cam kết với nội dung hẹn đến ngày 05/4/2019, nếu không xin được việc cho T thì sẽ hoàn trả số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) và lãi suất ngân hàng, đến ngày 10/4/2019 sẽ hoàn trả đủ cho ông H. Ngày 29/6/2019, D tiếp tục viết giấy hẹn trả tiền với nội dung hẹn đến ngày 09/7/2019 sẽ trả trước số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) cho ông H, số tiền còn lại và tiền lãi sẽ trả trong tháng 8/2019. Tuy nhiên, toàn bộ số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) nhận của ông H đã bị D chiếm đoạt và tiêu xài hết.

Tiến hành xác minh tại Phòng Tổ chức nhân sự Cảng Hàng không Quốc tế Đà Nẵng thì từ năm 2019 đến nay không có hề sơ nào tên Lê Văn T nộp dự tuyển vào làm nhân viên An ninh sân bay.

Vụ thứ hai; Cũng với thủ đoạn gian dối cam kết đưa đi học và xin việc làm, Lê Xuân D đã nhiều lần nhận tiền rồi chiếm đoạt của ông Trần Xuân T (sinh năm 1975; trú: thành phố Đà Nẵng), cụ thể:

Ngày 24/8/2016 nhận 250.000.000 đồng (hai trăm năm mươi triệu đồng) để xin cho Nguyễn Văn R (là cháu của ông T) đi học lớp trung cấp Kỹ thuật hàng không tại Học viện Hàng không thành phố Hồ Chí Minh và sau khi ra trường sẽ vào làm việc tại Sân bay Quốc tế Đà Nẵng. D cam kết, nếu sau khi ra trường anh R không được ký hợp đồng làm việc thì sẽ trả lại số tiền 250.000.000 đồng (hai trăm năm mươi triệu đồng) kèm theo lãi suất và chi phí ăn học, đi lại.

Ngày 15/11/2016 nhận 260.000.000 đồng (hai trăm sáu mươi triệu đồng) để xin cho Hoàng Văn M (là cháu của ông T) vào làm việc Phòng cháy chữa cháy tại Sân bay Quốc tế Đà Nẵng. D cam kết trong tháng 12/2016 sẽ có giấy hẹn ngày nhận Quyết định hợp đồng làm việc dài hạn tại Phòng cháy chữa cháy tại Sân bay Đà Nẵng, nếu không được sẽ trả lại số tiền 260.000.000 đồng (hai trăm sáu mươi triệu đồng) cho ông T.

Ngày 18/10/2017 nhận 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng) để xin cho Nguyễn Tiến N (là cháu của ông T) đang thực hiện nghĩa vụ quân sự được đi học lái xe ô tô để chuyển quân nhân chuyên nghiệp. D cam kết đến. tháng 12/2017 nếu anh N không đi học lái xe được thì sẽ trả lại số tiền 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng) cho ông T.

Sau đó, Lê Xuân D không thực hiện cam kết, liên tục trốn tránh và viết các giấy cam kết trả tiền cho ông T. Ngày 12/12/2018, D viết giấy cam kết sẽ hoàn trả đủ số tiền 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng) đã nhận của ông T để xin cho anh N đi học. Ngày 18/4/2019, D viết giấy cam kết hẹn đến ngày 30/4/2019 sẽ hoàn trả đủ số tiền đã nhận của ông T để xin cho anh R và anh N đi học. Ngày 08/6/2019, D viết giấy hẹn trả tiền cho ông T, hẹn đến ngày 10/6/2019 sẽ trả số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) cho ông T, nếu không sẽ bán lại lô đất thôn Bồ Bản, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng cho ông T.

Tiến hành xác minh tại Phòng Tổ chức nhân sự Cảng Hàng không Quốc tế Đà Nẵng thì từ năm 2017 đến nay, không có hồ sơ nào tên Hoàng Văn M nộp dự tuyển vào làm việc với chức danh nhân viên phòng cháy, chữa cháy tại sân bay.

Tổng cộng số tiền Lê Xuân D đã nhận và chiếm đoạt của ông Trần Xuân T là 660.000.000 đồng (sáu trăm sáu mươi triệu đồng).

Vụ thứ ba: Cũng với thủ đoạn gian dối như trên, Lê Xuân D đã nhận rồi chiếm đoạt tiền của ông Nguyễn K T (sinh năm 1979; trú: thành phố Đà Nẵng), cụ thể:

Ngày 13/5/2017 nhận 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) để xin cho Nguyễn Văn B (là cháu của ông T) đang thực hiện nghĩa vụ quân sự được đi học lớp trung cấp Kỹ thuật Hải quân tại thành phố Hồ Chí Minh hoặc chuyển quân nhân chuyên nghiệp. Anh T nhiều lần đòi lại tiền, D đã trả được 210.000.000 đồng (hai trăm mười triệu đồng).

Khoảng giữa tháng 7/2017 nhận 230.000.000 đồng (hai trăm ba mươi triệu đồng) để xin cho Võ Văn D (là cháu của ông T) đang thực hiện nghĩa vụ quân sự được chuyển quân nhân chuyên nghiệp.

Tổng cộng số tiền Lê Xuân D đã nhận và chiếm đoạt của ông Nguyễn K T là 530.000.000 đồng (năm trăm ba mươi triệu đồng), đã trả lại 210.000.000 đồng (hai trăm mười triệu đồng), còn 320.000.000 đồng (ba trăm hai mươi triệu đồng) đến nay chưa trả.

Vụ thứ tư: Khoảng đầu tháng 6/2019, Lê Xuân D đưa ra thông tin gian dối với bà Bùi Thị D (sinh năm 1966; trú: thành phố Đà Nẵng) là D có thể xin việc làm tại Phòng Kế hoạch Công ty Cảng vụ hàng không, Sân bay Quốc tế Đà Nẵng cho Nguyễn Thanh Hoàng T (là con của bà D) với giá 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng). Ngày 10/6/2019, bà D đưa cho D 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng), D cam kết đến ngày 10/9/2019 sẽ có Quyết định tuyển dụng, nếu không sẽ hoàn trả lại số tiền đã nhận. Do không xin được việc nên bà D nhiều lần yêu cầu D trả lại tiền nhưng D lẩn tránh, đến nay vẫn chưa trả. số tiền Lê Xuân D đã nhận và chiếm đoạt của bà Bùi Thị D là 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng).

Vụ thứ năm; Lê Xuân D thành lập và làm Tổng giám đốc Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ điện thông minh - điện năng lượng mặt trời H, hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần do Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Đà Nẵng cấp ngày 02/10/2020; mã số doanh nghiệp: 0402062528 (sau đây gọi tắt là Công ty H). Ngày 25/03/2021 D đưa ra thông tin gian dối với ông Đỗ Văn H (sinh năm 1967; trú: tỉnh Quảng Nam) là Công ty cổ phần tập đoàn X (sau đây gọi tắt là Công ty X, địa chỉ: thành phố Hà Nội) đang chào bán cổ phần, huy động vốn để thành lập chi nhánh điện thông minh tại miền Trung đóng tại Đà Nẵng. Đồng thời D rủ ông H cùng D đầu tư mua 03 (ba) cổ phần, mỗi cổ phần trị giá 112.000.000 đồng (một trăm mười hai triệu đồng). Ông H đồng ý mua 02 (hai) cổ phần cho ông và Đỗ Phú K (là con của ông H). Ngày 01/4/2021, theo lời của D, ông H đã nộp 224.000.000 đồng (hai trăm hai mươi bốn triệu đồng) vào số tài khoản 759668888 của Hoàng Văn K (không rõ lai lịch) mở tại Ngân hàng Thương mại cổ phần X chi nhánh L, Hà Nội, theo D nói, K là Tổng giám đốc Công ty X. D hứa hẹn 05 (năm) ngày sau, Công ty X sẽ có Quyết định bán cổ phần cho ông H. Cùng ngày, D liên lạc với K và yêu cầu K chuyển khoản 224.000.000 đồng (hai trăm hai mươi bốn triệu đồng) đến tài khoản Huỳnh Thị Thanh p (sinh năm 1971; trú: tỉnh Bình Phước; là Phó Tổng giám đốc công ty H) rồi yêu cầu P chuyển khoản thanh toán các khoản nợ gồm: chuyển trả nợ Công ty T T Dĩnh 123.000.000 đồng (một trăm hai mươi ba triệu đồng); chuyển trả người có tên Đ (không rõ lai lịch) 5.000.000 đồng (năm triệu đồng); chuyển khoản cho D 23.000.000 đồng (hai mươi ba triệu đồng).

Tiến hành xác minh tại Công ty X thì năm 2021 Công ty không chào bán cổ phần ra công chúng; không có kế hoạch thành lập chi nhánh tại Đà Nẵng; lãnh đạo và nhân viên Công ty không có ai tên Hoàng Văn K.

Tang vật thu giữ:

01 (một) “Giấy cam kết” ghi ngày 28/7/2016 (ký hiệu A7);

01 (một) “Giấy cam kết” ghi ngày 24/8/2016 (ký hiệu A1);

01 (một) “Giấy cam kết” ghi ngày 15/11/2016 (ký hiệu A2);

01 (một) “Giấy nhận tiền” ghi ngày 19/10/2016 (ký hiệu A4);

01 (một) “Giấy nhận tiền” ghi ngày 06/10/2017 (ký hiệu A6);

01 (một) “Giấy nhận tiền” ghi ngày 18/10/2017 (ký hiệu A5);

01 (một) “Giấy cam kết” ghi ngày 12/12/2018 (ký hiệu A9);

01 (một) “Giấy cam kết” ghi ngày 27/3/2019 (ký hiệu A10);

01 (một) “Giấy cam kết” ghi ngày 18/4/2019 (ký hiệu A8);

01 (một) “Giấy hẹn trả tiền” ghi ngày 08/6/2019 (ký hiệu A12);

01 (một) “Giấy nhận tiền” ghi ngày 10/06/2019 (ký hiệu A3);

01 (một) “Giấy hẹn trả tiền” ghi ngày 29/6/2019 (ký hiệu A11);

01 (một) “Giấy nhận tiền” ghi ngày 01/02/2019 với nội dung: Nguyễn Thanh T nhận của Lê Xuân D 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) đề xin cho Trần Văn T làm An ninh tại Sân bay Đà Nẵng, đến ngày 28/03/2019, nếu không được sẽ hoàn trả lại tiền;

03 (ba) thẻ ATM ngân hàng Quân đội có số thẻ 9704222008399495; 4848040411261187; 3564199052138502 đứng tên Lê Xuân D;

02 (hai) thẻ ATM ngân hàng Techcombank có số thẻ 9704079953857244; 4021568009707921 đứng tên Lê Xuân D;

11 (mười một) tờ giấy photo trong đó có 07 giấy báo nhập học; 04 tờ thủ tục nhập học do anh Lê Xuân Q (em một Lê Xuân D) giao nộp.

01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, màu đen, viền trắng, vỏ sau màu trắng, gắn sim 0777444527, số seri: RF8M74440X6W, số IMEI: 359274103526990.

Tại Kết luận giám định số 18/GĐ-TL ngày 06/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận:

Chữ viết trên các tài liệu mẫu cần giám định ký hiệu:

A1 và A2 có nội dung bắt đầu “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa...” và nội dung kết thúc...” không có giá trị”;

A3 có nội dung bắt đầu “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa...” và nội dung kết thúc “...công ty cảng hàng không Đà Nẵng”.

So với chữ viết của Lê Xuân D trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 và M2 không do cùng một người viết ra.

Chữ ký, chữ viết mang tên Lê Xuân D dưới mục “BÊN NHẬN TIỀN” và mục “NGƯỜI NHẬN TIỀN” trên các tài liệu mẫu cần giám định ký hiệu A1 và A2; chữ viết, chữ ký mang tên Lê Xuân D trên các tài liệu mẫu cần giám định ký hiệu A3 (Trừ chữ viết tại mục i phần V. KẾT LUẬN ĐỐI TƯỢNG GIÁM ĐỊNH); từ A4 đến A12 so với chữ viết, chữ ký của Lê Xuân D trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 và M2 do cùng một người viết và ký ra.”

Sau khi phạm tội, Lê Xuân D đã bán nhà, cắt liên lạc và bỏ đi khỏi địa phương. Sau khi tiến hành xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng đã ra Quyết định truy nã số 07 ngày 15/6/2020. Lê Xuân D bị bắt ngày 03/5/2021.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HSST ngày 06/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Xuân D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ: Điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Xuân D 15 (Mười lăm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian chấp hành án kể từ ngày bắt tạm giam, ngày 03/5/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự; phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/4/2022, bị cáo Lê Xuân D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 19/4/2022, bị hại Đỗ Văn H kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét để không bỏ lọt tội phạm đối với bà Huỳnh Thị Thanh P.

Tại phiên toà, đại D Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Xuân D và kháng cáo của bị hại Đỗ Văn H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với hành vi và tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo, chỉ đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt, vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa; xem xét ý kiến của Luật sư và quan điểm của Viện kim sát, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử phúc thm nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bị cáo Lê Xuân D thừa nhận hành vi và tội danh như Tòa án cấp sơ thẩm xét xử là đúng, chỉ giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị hại Đỗ Văn H giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét vai trò đồng phạm của bà Huỳnh Thị Thanh P, tránh để lọt tội phạm.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Xuân D phù hợp với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Để có tiền phục vụ cho mục đích tiêu xài cá nhân, trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2019, mặc dù không có khả năng cũng như thẩm quyền nhưng Lê Xuân D đã nhiều lần đưa ra thông tin gian dối về xin việc làm, xin chuyển quân nhân chuyên nghiệp để nhiều lần chiếm đoạt tài sản của nhiều bị hại. Cụ thể, bị cáo đã chiếm đoạt của ông Lê Quang H số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng); ông Trần Xuân T số tiền 660.000.000 đồng (sáu trăm sáu mươi triệu đồng); ông Nguyễn K T số tiền 530.000.000 đồng (năm trăm ba mươi triệu đồng); bà Bùi Thị D số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng).

Đến tháng 3/2021, Lê Xuân D đưa ra thông tin gian dối đối với ông Đỗ Văn H về việc Công ty X có kế hoạch thành lập chi nhánh tại Đà Nẵng và đang chào bán cổ phần để rủ ông H mua cổ phần và chiếm đoạt của ông H 224.000.000 đồng (hai trăm hai mươi bốn triệu đồng), Tổng số tiền Lê Xuân D đã chiếm đoạt của 05 bị hại là: 2.014.000.000 đồng (hai tỉ không trăm mười bốn triệu đồng). Toàn bộ số tiền chiếm đoạt được, D tiêu xài cá nhân và trả nợ hết.

Với hành vi phạm đó của bị cáo nên Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Lê Xuân D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện, do cần tiền tiêu xài cho nhu cầu của bản thân mà bị cáo đã nhiều lần dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin không có thật để chiếm đoạt tiền của 05 bị hại, với tổng số tiền 2.014.000.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan Nhà nước. Bị cáo Lê Xuân D phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội từ 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại Nguyễn K T số tiền 210.000.000 đồng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Quá trình công tác, bị cáo được tặng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; Gia đình bị cáo có công với cách mạng (tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự). Từ đó xử phạt bị cáo 15 năm tù là tương xứng với tính chất hành vi và hậu quả của vụ án. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhung không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

[4] Xét kháng cáo của bị hại Đỗ Văn H về xem xét trách nhiệm của bà Huỳnh Thị Thanh P, có phải là đồng phạm với bị cáo lê Xuân D hay không. Hội đồng xét xử thấy rằng: Bà Huỳnh Thị Thanh P có liên quan trong việc nhận chuyển khoản và chuyển khoản số tiền 224.000.000 đồng của ông Đỗ Văn H, tuy nhiên bà P không biết nguồn gốc tiền do Lê Xuân D phạm tội mà có, sau khi đã nhận tiền chuyển khoản theo yêu cầu của Lê Xuân D và rút tiền mặt đưa cho Lê Xuân D hết, bà P không sử dụng cũng như được hưởng lợi từ số tiền này, nên cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà Huỳnh Thanh P là có căn cứ. Do đó, kháng cáo của bị hại Đỗ Văn H không có cơ sở nên không được chấp nhận.

Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án có căn cứ và đúng pháp luật; kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Lê Xuân D và kháng cáo xem xét trách nhiệm đối với bà Huỳnh Thị Thanh P của bị hại Đỗ Văn H không có cơ sở nên không được chấp nhận, Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm, nhu đề nghị của đại D Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên toà phúc thẩm hôm nay.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lê Xuân D phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Xuân D và kháng cáo của bị hại Đỗ Văn H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ: Điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử pht: Bị cáo Lê Xuân D 15 (Mười lăm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian chấp hành án kể từ ngày bắt tạm giam, ngày 03/5/2021.

Về án phí phúc thẩm hình sự: Bị cáo Lê Xuân D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

666
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 218/2022/HSPT

Số hiệu:218/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;