TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 165/2024/HS-ST NGÀY 05/03/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 05/3/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 98/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:187/2024/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2024, đối với bị cáo:
Lâm Tuấn A – Sinh năm 1988; Tại Thanh Hóa; Nơi cư trú: phố 5, phường Q, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Giới tính: Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Lâm Thanh D và bà Nguyễn Thị L; Vợ: Nguyễn Thị T và có 01 con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: không Nhân thân: Ngày 24/12/2019, Toà án nhân dân huyện T, thành phố Hà Nội xử 15 tháng tù về tội “Giữ người trái pháp luật”. Chấp hành xong hình phạt ngày 09/9/2020.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/11/2023. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Lê Thanh B - sinh năm 1992 Trú tại: phố 1, phường Q, thành phố Thanh Hoá. (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Hoàng T - sinh năm 1992.
Trú tại: Phố Châu B, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10h ngày 14/12/2021, tại quán cà phê 312 đường Nguyễn Doãn C, phường Quảng T, thành phố Thanh Hoá, Lâm Tuấn A thuê xe ô tô Huyndai Accent, biển kiểm soát 36A – X của anh Nguyễn Hoàng T thời gian thuê từ ngày 14/12/2021 đến ngày 14/12/2022, giá thuê xe 12.000.000đ/tháng, sau khi nhận xe Tuấn A trả trước tiền thuê tháng đầu tiên cho anh T 7.000.000đ.
Sau đó, do làm ăn thua lỗ nên Tuấn A nảy sinh ý định bán xe ô tô của anh T nên khoảng đầu tháng 12/2022 Tuấn A lên mạng xã hội facebook tìm và nhờ một người không quen biết làm giả đăng ký xe ô tô Huyndai Accent biển kiểm soát 36A – X mang tên Lâm Tuấn A.
Ngày 15/12/2022, Tuấn A mang xe ô tô cùng đăng ký xe mang tên Lâm Tuấn A đến bán cho anh Lê Thanh B sau khi kiểm tra thấy xe ô tô mang tên chính chủ Lâm Tuấn A nên anh B đồng ý mua xe với giá 230.000.000đ. Tuấn A nhận tiền và trực tiếp viết 01 giấy bán xe cho anh B. Quá trình sử dụng anh B phát hiện đăng ký xe ô tô Huyndai Accent biển kiểm soát 36A-X trên là giả nên đã tố giác hành vi phạm tội của Tuấn A và giao nộp lại xe ô tô và giấy tờ xe cho Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hoá.
Tại Kết luận số 80/KL-HĐĐGTS ngày 26/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự định giá xe ô tô Huyndai Accent biển kiểm soát 36A-X trị giá 351.000.000đ.
Tại Kết luận giám định số 2883/KL-KTHS ngày 08/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:
- Phôi chứng nhận đăng ý xe ô tô số 021092, biển số đăng ký 36A-X ở mẫu giám định so phôi chứng nhận đăng ký xe ô tô ở mẫu so sánh không cùng phương pháp in, không cùng bản in.
Hình dấu tròn màu đỏ ghi nội dung: “CÔNG ANTINH THANH HÓA* PHÒNG CẢNH SÁT GIAO THÔNG” và chữ ký đứng tên đại tá Lê Văn Chiến ở mẫu cần giám định được làm bằng phương pháp in phun màu - Chữ viết phần in nội dung ; chữ ký, chữ viết họ tên”Lâm Tuấn A” dưới “người viết ký tên” ở mẫu giám định so với chữ viết, chữ ký đứng tên lâm Tuấn A ở các mẫu so sánh do cùng một người viết và ký ra.
Về phần dân sự: Anh Nguyễn Hoàng T đã nhận lại được tài sản và tiền thuê xe nên không có yêu cầu gì về dân sự.
Lâm Tuấn A chưa bồi thường cho bị hại là anh Lê Thanh B, anh B yêu cầu Tuấn A trả lại cho anh số tiền 230.000.000đ.
Đối với người làm Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô Huyndai Accent biển kiểm soát 36A-X cho Lâm Tuấn A, nhưng Tuấn A không nhớ tài khoản Facebook do đó không có cơ sở để xác định thông tin của người làm giả giấy tờ cho Tuấn A.
Tại bản cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 13/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa đã truy tố Lâm Tuấn A về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo điểm a khoản 3 điều 174 - BLHS và tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 điều 341 - BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố; đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS, điểm b khoản 3 Điều 341, điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38, Điều 55 BLHS. Về hình phạt đại diện VKS đề nghị xử phạt Lâm Tuấn A mức án từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Buộc bị cáo phải trải lại cho bị hại số tiền 230.000.000 đồng (Hai trăm ba mươi triệu đồng).
Ngoài ra VKS còn đề nghị bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận gì với đại diện VKS.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại gì.
[2] Về hành vi phạm tội:
Tháng 12/2021, Lâm Tuấn A thuê xe ô tô Huyndai Accent, biển kiểm soát 36A-X của anh Nguyễn Hoàng T để sử dụng. Trong thời hạn thuê xe, do có mục đích chiếm đoạt nên Lâm Tuấn A đã dùng thủ đoạn gian dối thuê người làm giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 36A-X giả, mục đích làm cho người mua tin tưởng Tuấn A là chủ sở hữu hợp pháp của xe ô tô sau đó bán xe ô tô biển kiểm soát 36A-X cho anh Lê Thanh B để chiếm đoạt số tiền là 230.000.000 đồng.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của Lâm Tuấn A có đủ dấu hiệu cấu thành tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo điểm a khoản 3 điều 174 và tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 điều 341 BLHS.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm trật tự quản lý hành chính và hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tác động xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, gây hoang mang, bất B trong quần chúng nhân dân.
Bị cáo biết và nhận thức rõ chiếc xe ô tô không thuộc quyền sở hữu của mình nhưng vì mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối làm cho bị hại tin tưởng giao giao số tiền 230.000.000 đồng cho bị cáo. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Căn cứ vào nhân thân, mức độ hành vi phạm tội thấy rằng: Bị cáo tuổi đời còn trẻ, đang trong độ tuổi lao động, khi gặp khó khăn không chịu khó lao động mà giải quyết bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt số tiền 230.000.000 đồng của anh Lê Thanh B. Điều đó cho thấy sự liều lĩnh, coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, khi xem xét về hình phạt cần áp dụng Điều 38 BLHS để cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ nên giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo thành người có ích cho xã hội.
Do bị cáo không có công việc ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về dân sự: Theo báo cáo của bị hại anh Lê Thanh B đến nay bị cáo chưa bồi thường cho bị hại vì vậy cần buộc bị cáo phải trả lại cho anh Lê Thanh B số tiền 230.000.000 đồng đã chiếm đoạt.
[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341 điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 55 Bộ luật hình sự; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Lâm Tuấn A phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Xử phạt: Lâm Tuấn A 08 (tám) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của cả hai tội là 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/11/2023.
Về dân sự: Buộc bị cáo phải trả cho anh Nguyễn Thanh B số tiền 230.000.000đồng (Hai trăm ba mươi triệu đồng) Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành án thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST và 11.500.000 đồng án phí DSST.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại, người có quyền lợi nghĩa liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Bản án 165/2024/HS-ST về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 165/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về