Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 70/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LN, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 70/2022/HS-ST NGÀY 18/11/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 11 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện LN, tỉnh Bình Phước đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2022 đối với các bị cáo:

- Bị cáo thứ nhất: Nguyễn Minh T(Tên gọi khác: Chề), sinh ngày 15/10/1993 tại Bình Phước; Nơi cư trú: ấp Thạnh Trung, xã Lộc Thạnh, huyện LN, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1968 và bà Đỗ Thị H, sinh năm: 1975; Tiền sự: Ngày 23/9/2021 Nguyễn Minh Tbị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Lộc Thạnh áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Ngày 24/12/2021 chấp hành xong; Tiền án: Không Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện LN từ ngày 20/9/2022 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị cáo thứ hai: Đỗ Duy Th(Tên gọi khác: T6 Kỳ), sinh ngày 22 tháng 01 năm 1992, tại: tỉnh Bình Phước; Nơi đăng ký HKTT: Ấp 6A, xã L, huyện LN, tỉnh Bình Phước; Chỗ ở hiện nay: Ấp 5A, xã L, huyện LN, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Văn K (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1960; Tiền sự: Không; Tiền án: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 02/6/2022 đến ngày 30/8/2022 được thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1984 ((Vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp 5B, xã L, huyện LN, tỉnh Bình Phước

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1952 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp 5B, xã L, huyện LN, tỉnh Bình Phước

- Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1960 (Vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Soor Rung, xã Lộc Phú, huyện LN, tỉnh Bình Phước.

- Bà Phạm Thanh H, sinh năm 1992 (Vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Soor Rung, xã Lộc Phú, huyện LN, tỉnh Bình Phước - Ông Võ Văn Th, sinh năm 1987 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp 54, xã LA, huyện LN, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 24/3/2022, Nguyễn Minh H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius Fi, màu đỏ đen xám, biển số 93F1 – 313.xx từ nhà thuộc ấp 5B, xã L, huyện LN đến khu vực Trạm xá cũ thuộc ấp 5A, xã L, huyện LN để nhậu. Tại đây, H1 gặp Nguyễn Minh T(tên gọi khác là Chề) và Hồ Hoàng Phụng, cả ba cùng nhậu với nhau. Nhậu được một lúc, T1 nói với H1 là “cho mượn xe đi chơi tí rồi về”, H1 đồng ý cho T1 mượn xe và dặn T1 là “Đi về sớm cho anh còn đón ông già anh đang ở Bệnh viện LN”, T1 nói “Tôi biết rồi” và lấy xe đi.

Sau đó, T1 điều khiển chiếc xe mô tô trên xuống nhà bạn tại ấp 5A, xã L để rủ bạn đi chơi nhưng không đi nên T1 quay về lại khu trạm xá cũ. Khi về đến khu vực đất trống trước sân trạm xá cũ, T1 gặp Đỗ Duy T6. Khi gặp nhau, T1 rủ T6 đi chơi và T6 đồng ý, lúc này, T6 thấy T1 có xe mô tô nên T6 nảy sinh ý định lấy xe T1 đang điều khiển đi cầm cố nên T6 nói với T1 là lấy xe mô tô (của H1) mà T1 đang chạy đi cầm cố để chuộc xe mô tô, loại Wave @ của T6 đang cầm cố (cầm cố cho Võ Hồng T5, sinh năm 1983, Nơi cư trú: Ấp 5B, xã L, huyện LN, tỉnh Bình Phước) ra bán, sau đó chuộc lại chiếc xe T1 đi, T1 đồng ý và bảo T6 là trong vòng 24 tiếng phải chuộc xe ra cho người ta thì T6 đồng ý. Sau đó, T1 chở T6 đi Bù Đốp chơi. Trên đường đi về, T1 và T6 vào nhà Võ Hồng T5 để cầm xe nhưng nhà T5 đóng cửa, gọi cửa không ai ra nên T6 chỉ đường cho T1 đi vào nhà Nguyễn Thị M ở tại ấp Soor Rung, xã Lộc Phú, huyện LN để cầm cố chiếc xe trên. Cầm cố xe bằng hình thức viết giấy vay tiền, để xe mô tô lại cho bà M, khi nào có tiền trả lại cho bà M thì lấy lại xe. T1 là người đứng ra viết giấy vay tiền với số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng), T6 cũng ký vào giấy vay tiền là người làm chứng. Khi viết xong giấy vay tiền, T1 giao xe cho bà M, bà M đưa cho T1 số tiền 4.500.000đ (Bốn triệu năm trăm ngàn đồng), T1 đưa hết số tiền 4.500.000đ (Bốn triệu năm trăm ngàn đồng) cho T6, T6 lấy 400.000đ (Bốn trăm ngàn đồng) đưa cho T1. Sau đó, T1 đi xe ôm lên Bù Đốp, T1 sử dụng số tiền T6 cho từ việc cầm xe để trả tiền đi xe ôm và tiêu xài hết, còn T6 thuê xe ôm để đi về nhà của mình.

Khoảng 05 giờ, ngày 25/3/2022, T1 về nhà T6, T6 và T1 ra trạm xá cũ gặp H1, H1 hỏi T1 xe H1 đâu, T1 nói là xe bị biên phòng bắt rồi, H1 hỏi sao bị bắt, T1 nói đi chơi nên bị bắt. H1 nói với T1 là xe đó của ba H1, giấy tờ ba H1 giữ, T1 coi sao lấy xe về. T1 nói để T1 nhờ người lấy xe ra cho H1. Sau đó, T1 và T6 về nhà của T6, T1 hỏi T6 việc chuộc xe đã cầm của H1, T6 nói với T1 là việc đó của T6, T6 tự lo. Sau đó, T6 đưa cho T1 số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) để chuộc điện thoại và T6 trả giùm T1 số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) mà T1 mượn của Tùng (không rõ họ tên, địa chỉ) trước đó từ tiền cầm xe anh H1. Số tiền còn lại từ việc cầm xe anh H1, T6 sử dụng tiêu xài cá nhân.

Vào ngày 25/3/2022, T6 không bàn bạc gì với T1 mà nhờ Tâm (không rõ họ tên, địa chỉ) đi xuống nhà ông Nguyễn Văn T, nói với ông Nguyễn Văn T là “Xe của H1 cho T1 mượn đi bị biên phòng bắt, chú T6 đưa giấy tờ xe cháu chuộc cho”, ông T6 đồng ý và đưa giấy đăng ký xe mô tô, biển số 93F1 – 313.xx cho T6 và hứa cho 2.000.000đ (Hai triệu đồng) tiền uống nước nếu chuộc được xe ra. Sau khi lấy được giấy đăng ký xe mô tô, T6 nhờ Tâm chở lên nhà bà M, T6 đưa giấy đăng ký xe mô tô, biển số 93F1 – 313.xx cho bà M và nói cầm thêm 3.000.000đ (Ba triệu đồng) chiếc xe mô tô đã cầm cho bà M trước đó, bà M đồng ý và đưa cho T6 số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng). Tâm chở T6 về nhà, T6 cho Tâm 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng). Số tiền còn lại T6 tiêu xài cá nhân.

Sau đó, T6 lên Facebook biết ông Võ Văn Th là bạn bè ngoài xã hội với T6, có nhu cầu mua xe nên T6 đã liên hệ với T7 để bán xe của H1. T6 thỏa thuận bán chiếc xe mô tô biển số 93F1 – 313.xx cho ông T7 với giá là 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Đến ngày 27/03/2022, T6 dẫn ông T7 đến nhà bà M để bán xe, do lúc này không mang theo tiền mặt nên ông T7 hỏi bà M có tài khoản ngân hàng không, bà M nói không có. Lúc này, bà Phạm Thanh H (là con dâu của bà M) nói là “Con có tài khoản, mẹ nói anh chuyể n khoản qua cho con”. Bà H2 cho anh T7 số tài khoản: 5613.205.037.xxx của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) của bà H2 và ông T7 dùng điện thoại di động sử dụng ứng dụng chuyển tiền của Ngân hàng Quân đội (MPBank), số tài khoản là 0987236xxx chuyển vào tài khoản của bà H2 số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Sau đó, bà M đưa cho T6 giấy vay tiền và số tiền 1.300.000đ (Một triệu ba trăm ngàn đồng), còn xe mô tô và giấy đăng ký xe mô tô thì đưa cho ông T7, ông T7 điều khiển xe đã mua về.

Đến ngày 28/3/2022, ông Nguyễn Minh H không thấy T1 trả xe mô tô cho mình nên đã trình báo với Cơ quan Công an. Tại Cơ quan Công an, Đỗ Duy Th và Nguyễn Minh T đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Ngày 13/4/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện LN yêu cầu Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự LN định giá 01 xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius Fi, màu đỏ đen xám, biển số 93F1 – 313.xx. Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận tài sản kể trên có trị giá 10.000.000đ (Mười triệu đồng).

Vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng: 01 (Một) xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius Fi, màu đỏ đen xám, biển số 93F1 – 313.xx, số khung: 1710HY156807, số máy: E3T6E230349; 01 (Một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy, số:

013273, tên chủ xe: Nguyễn Văn T, địa chỉ: Ấp 5B, L, LN, Bình Phước, biển số đăng ký: 93F1 – 313.xx. Số vật chứng trên Cơ quan CSĐT đã xử lý trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn T.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu xem xét, giải quyết.

Cáo trạng số 61/CT-VKS ngày 28/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện LN truy tố Nguyễn Minh T và Đỗ Duy Th về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự

Tại phiên tòa:

* Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Tvà bị cáo Đỗ Duy Th phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” - Về hình phạt:

+ Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm i, s, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T từ 08 đến 10 tháng tù. Thời hạn từ tính từ ngày 20/9/2022.

+ Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Duy Th15 đến 18 tháng tù, cho hưởng án treo.

- Về vật chứng vụ án:

Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện LN đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius Fi, màu đỏ đen xám, biển số 93F1 – 313.xx, số khung: 1710HY156807, số máy: E3T6E230349 và Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy, số: 013273 cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn T là phù hợp, nên không xem xét.

- Về trách nhiệm dân sự: Không có yêu cầu nên không xem xét - Vấn đề khác: Bà Nguyễn Thị M có hành vi cầm xe mô tô từ các bị cáo và ông Võ Văn Th có hành vi mua xe mô tô từ bị cáo T6.. Do bà M và ông T7 không biết xe mô tô do phạm tội mà có nên không xử lý.

* Các bị cáo: Đồng ý với Cáo trạng truy tố của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện LN và quan điểm luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện LN. Bị cáo không tranh luận.

* Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ăn năn, hối cải về hành vi của mình. Xin hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo mức hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Xét thấy bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Việc vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án vì quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã làm việc lấy lời khai đầy đủ, hơn nữa bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với các bị cáo. Vì vậy, căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hành vi của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi và vật chứng của vụ án, đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Vào ngày 24/03/2022, tại Ấp 5A, xã L, huyện LN, Nguyễn Minh Tđã có hành vi mượn 01 xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius Fi, màu đỏ đen xám, biển số 93F1 – 313.xx trị giá 10.000.000đ (Mười triệu đồng) do Nguyễn Minh H đang sử dụng rồi cùng với Đỗ Duy Th mang đi cầm cho bà Nguyễn Thị M lấy số tiền 4.500.000đ (Năm triệu đồng). Ngày 25/3/2022, bị cáo Đỗ Duy Th tiếp tục sử dụng giấy đăng ký xe mô tô đứng tên chủ xe – ông Nguyễn Văn T để cầm cố thêm cho bà Nguyễn Thị M với số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng). Đến ngày 27/3/2022, bị cáo T6 tiếp tục liên hệ để bà M bán chiếc xe mô tô, biển số 93F1 – 313.xx cho ông Võ Văn Th với số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng), bà M đưa lại cho T6 số tiền 1.300.000 (đồng). Số tiền cầm xe và bán xe T1 và T6 tiêu xài cá nhân dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho Nguyễn Minh H.

Theo kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thì tài sản các bị cáo chiếm đoạt trị giá 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương.

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền để tiêu xài, các bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

Hành vi các bị cáo thực hiện đã đủ dấu hiệu cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Các bị cáo phạm tội thuộc trường mượn tài sản của người khác và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Do đó, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện LN truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo T1 phạm tội thuộc trường hợp phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; tài sản các bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cần được xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[2.3] Về hình phạt: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo T6 là người người khởi xướng và sử dụng số tiền có được sau khi cầm cố và bán xe nhiều hơn (bị cáo T1 sử dụng 1.700.000 đồng, bị cáo T6 sử dụng 7.100.000 đồng). Đối với bị cáo T1 được giao quản lý xe hợp pháp, nhưng khi được T6 rủ đem xe đi cầm thì tiếp nhận ý chí, không thông báo cho người bị hại biết sự việc, trong vụ án này bị cáo T1 tham gia với vai trò thấp hơn so với bị cáo T6. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi các bị cáo thực hiện mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy bị cáo T6 có nhiều tình tiết giảm nhẹ như đã nêu trên, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, không cần thiết áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, mà chỉ cần áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Đối với bị cáo T1: Mặc dù bị cáo tham gia với vai trò thứ yếu, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tuy nhiên bị cáo hiện đang có tiền sự, chưa được xóa, vì vậy bị cáo không đủ điều điện để được hưởng án treo. Do đó, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi bị cáo thực hiện mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[2.4] Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện LN đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chủ sở hữu là phù hợp, đúng quy định pháp luật.

[2.5] Về trách nhiệm dân sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.

[2.6] Vấn đề khác: Bà Nguyễn Thị M có hành vi cầm xe mô tô từ các bị cáo và ông Võ Văn Th có hành vi mua xe mô tô từ bị cáo T6. Do bà M và ông T7 không biết xe mô tô do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

[2.7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[2.8] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T(Tên gọi khác: Chề) và bị cáo Đỗ Duy Th(Tên gọi khác: T6 Kỳ) phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt:

+ Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm i, s, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T(Tên gọi khác: Chề) 08 (Tám) tháng tù.

Thời hạn từ tính từ ngày 20/9/2022.

+ Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Duy Th(Tên gọi khác: T6 Kỳ) 15 (Mười lăm) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thánh là 30 (Ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao Đỗ Duy Th(T6 Kỳ) cho Uỷ ban nhân dân xã L, huyện LN, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 70/2022/HS-ST

Số hiệu:70/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;