TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 41/2024/HS-ST NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP, LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 4 năm 2024, tại Phòng xử A trụ sở Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2024/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2024/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 3 năm 2024, đối với bị cáo:
Ngô Phúc H; tên gọi khác: Không có; sinh ngày 10/8/1987 tại tỉnh H; đăng ký thường trú: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh H; nơi cư trú: Không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Ngô Phúc Q và bà H Thị B; bị cáo có vợ và 02 con; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Không có; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/11/2023 tại Nhà tạm giữ Công an Quận X; Có mặt.
- Bị hại:
1. Anh Lưu Dương Đ, sinh năm 2000; địa chỉ: đưởng L, Phường 15, Quận X, Thành phố H; Vắng mặt.
2. Anh Hồng Minh Th, sinh năm 2004; địa chỉ: đưởng L, Phường 15, Quận X, Thành phố H; Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan đến vụ án:
1. Bà Trần Thị Thu T, sinh năm 1981; địa chỉ: đường Â, Phường 10, quận Tân Bình, Thành phố H; Vắng mặt.
2. Ông Bùi Thế X, sinh năm 1961; địa chỉ: đường L, Phường 5, Quận X, Thành phố H; Vắng mặt.
3. Ông Vũ Văn L, sinh năm 1965; địa chỉ: đường Â, Phường 5, Quận X, Thành phố H; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngô Phúc H ở cùng phòng trọ với Lưu Dương Đ và Hồng Minh Th từ đầu năm 2023 đến ngày 21/3/2023 thì bỏ đi. Ngày 21/3/2023, Đ và Th đến Công an Phường 15 Quận X trình báo về việc bị chiếm đoạt tài sản. Công an Phường 15 Quận X đã tiếp nhận tố giác về tội phạm từ Đ, Th và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X thụ lý điều tra, xác minh theo thẩm quyền. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X đã ra Quyết định truy tìm đối với Ngô Phúc H, đến ngày 11/11/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X tìm thấy H tại thôn Đông Văn, xã Thạch Văn, huyện T, tỉnh H. Tại cơ quan Công an, Ngô Phúc H khai nhận đã thực hiện các vụ án sau:
Vụ thứ 1: Vào ngày 05/3/2023, tại địa chỉ nhà số 87 đường 281 Lý Thường Kiệt, Phường 15, Quận X, TP.H, Ngô Phúc H thấy Lưu Dương Đ (là bạn cùng phòng với Ngô Phúc H) đang ngủ nên H tự ý lấy xe mô tô hiệu Exciter biển số 59C2 -xxxxx của Đ để đi chở hàng. Đến khoảng 07 – 08 giờ sáng cùng ngày, Đ gọi điện thoại cho H hỏi việc H có mượn xe của Đ không thì H thừa nhận có mượn xe và nói do Đ đang ngủ nên H không gọi dậy, đồng thời H có xin mượn xe của Đ và Đ đồng ý cho H mượn xe. Sau khi chở hàng xong, do thiếu tiền tiêu xài, H nảy sinh ý định cầm cố xe máy của Đ tại tiệm cầm đồ P ở địa chỉ 273 Âu Cơ, Phường 5, Quận X, TP.H. Do không có giấy tờ xe nên Ngô Phúc H không cầm được. H có gửi lại chiếc xe trên ở tiệm cầm đồ P để về nhà lấy giấy tờ xe. Đến 15 giờ chiều cùng ngày, Ngô Phúc H về gặp Đ và nói dối chiếc xe trên đã bị Công an quận Gò Vấp tạm giữ do vi phạm giao thông cần giấy tờ xe để lấy xe ra. H nói Đ đưa giấy đăng ký xe, giấy tờ mua bán xe cung cấp cho Công an lấy xe về, đồng thời H cũng chụp lại căn cước công dân của Đ. Đến tối ngày 05/3/2023, H đến tiệm cầm đồ P đưa giấy đăng ký xe, các giấy tờ mua bán xe của Đ cho nhân viên của tiệm cầm đồ P và cầm chiếc xe trên với giá 10.000.000 đồng. Đến ngày 26/6/2023, Đ phát hiện chiếc xe Exciter biển số 59C2-xxxxx được đăng bán trên mạng xã hội nên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X cung cấp thông tin về việc bị Ngô Phúc H chiếm đoạt tài sản.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 54/KL-HĐĐGTS ngày 20/07/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận X kết luận: Xe Exciter biển số 59C2-xxxxx đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 05/03/2023 có giá trị 14.400.000 đồng.
Vụ thứ 2: Khoảng 18 giờ ngày 20/3/2023, Ngô Phúc H mượn Hồng Minh Th (là bạn ở chung phòng với H) xe mô tô hiệu SYM ELEGANT màu xanh trắng biển số 69AE-xxxxx để H đi về quê. Th đồng ý cho H mượn xe và đưa giấy chứng nhận đăng ký xe cho H. Sau khi mượn được xe, do thiếu tiền tiêu xài nên H nảy sinh ý định mang xe mô tô của Th đi cầm cố. H điều khiển chiếc xe trên đến tiệm cầm đồ P tại địa chỉ 411 Lạc Long Quân, Phường 5, Quận X, TP. H và cầm xe trên cho anh Bùi Thế X với giá 3.000.000 đồng. H lấy 200.000 đồng tiền mặt và yêu cầu anh X chuyển khoản cho H 2.800.000 đồng đến tài khoản ngân hàng Vietcombank số 038100033xxxx mang tên N. Khi đến cầm cố xe thì H không nói cho ông X tài sản trên do phạm tội mà có. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, H nhắn tin qua ứng dụng Zalo cho Th, hẹn 05 giờ ngày 21/3/2023 sẽ trả xe. Đến 04 giờ 27 phút ngày 21/3/2023, Th nhận được tin nhắn từ H qua ứng dụng Zalo với nội dung chủ của điện thoại bị tai nạn giao thông và đang được cấp cứu tại Bệnh viện Xuyên Á nên Th rủ Đ đến Bệnh viện Xuyên Á hỏi thì được biết không có ai tên Ngô Phúc H đang chữa trị tại bệnh viện. Đến sáng ngày 21/3/2023, Th đến Công an Phường 15, Quận X trình báo sự việc bị chiếm đoạt tài sản.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 50/KL-HĐĐGTS ngày 13/07/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận X kết luận: xe SYM ELEGANT biển số 69AE-xxxxx đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 20/3/2023 có giá trị 7.100.000 đồng.
Vụ thứ 3: Vào khoảng 03 giờ sáng ngày 21/3/2023, Ngô Phúc H về phòng trọ số 87 Đường 281 Lý Thường Kiệt, Phường 15, Quận X, TP. H và gọi Đ ra mở cửa. Sau khi mở cửa cho H thì Đ đi ngủ, lúc này H thấy Th cũng đã ngủ. Do thiếu tiền tiêu xài, đợi lúc Đ ngủ say Ngô Phúc H lén lút lấy trộm điện thoại Xiaomi Redmi Note 10S màu đen của Đ cùng chiếc xe Attila màu đen (không rõ biển số, xe trên do bà Trần Thị Thu T - sinh năm: 1981 – giao cho Đ để đi chở hàng). Sau khi chiếm đoạt được tài sản, H điều khiển xe đi theo hướng đường về Quận 12 nhưng trên đường đi xe bị hư nên H đã bán lại cho một người phụ nữ bán ve chai ven đường với giá 500.000 đồng. Do thời gian đã lâu và không quen đường nên H không nhớ được địa điểm đã bán xe cho người phụ nữ trên. Khi bán, H nói chiếc xe trên là xe của H, đã cũ và giờ không sử dụng được nữa nên H bán để lấy tiền đi xe ôm. Còn điện thoại Xiaomi Redmi Note 10S, H đã chạy lại chương trình, vứt bỏ sim của của Đ và để lại sử dụng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 54/KL-HĐĐGTS ngày 20/07/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận X kết luận: 01 xe mô tô hiệu Attila màu đen không rõ biển số đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 21/3/2023 có giá trị là 2.250.000 đồng; 01 điện thoại Xiaomi Redmi Note 10S đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 21/3/2023 có giá là 2.375.000 đồng .
Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến H truy xét Ngô Phúc H. Ngày 14/11/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X tiến H bắt bị can để tạm giam đối với Ngô Phúc H về H vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Trộm cắp tài sản”.
Tại Cơ quan điều tra, Ngô Phúc H thừa nhận toàn bộ H vi phạm tội như trên.
Vật chứng thu giữ:
- 01 giấy phép lái xe số 42017100xxxx mang tên Ngô Phúc H.
- 01 xe mô tô hiệu SYM ELEGANT màu trắng xanh biển số 69AE-xxxxx có số máy: VMSE1A-H005381, số khung: RLGSC05MHEH005381; 01 giấy chứng nhận đăng kí xe mô tô, xe máy số 0201617, biển số 69AE-xxxxx. Qua xác minh, chủ sở hữu là bà Nguyễn Hồng M (mẹ của Hồng Minh Th). Qua làm việc, bà M cho biết cho Th mượn sử dụng chiếc xe để đi lại từ tháng 11/2022. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X đã tiến H lập biên bản trả lại tài sản trên cho Hồng Minh Th.
- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 59C2-xxxxx; SM: 55P1- xxxxx, SK: RLCE55P10BY013404; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 59C2-xxxxx mang tên Lâm Trọng H; 02 hợp đồng ủy quyền và 01 hợp đồng mua bán xe máy biển số 55P1-xxxxx. Qua xác minh, chủ sở hữu xe Exciter biển số 59C2-xxxxx là Lâm Trọng H. Qua làm việc với H được biết, vào ngày 29/3/2021, H đã bán lại chiếc xe trên cho Nguyễn Thanh H, khi bán H có làm hợp đồng công chứng ủy quyền. Vào ngày 14/5/2021, ông H đã bán lại chiếc xe trên cho Phạm Văn N, khi bán ông H có làm hợp đồng ủy quyền công chứng. Đến ngày 09/11/2021, Lưu Dương Đ mua lại chiếc xe trên từ Phạm Văn N. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X đã tiến H xử lý vật chứng trả lại tài sản, giấy đăng ký xe và 02 hợp đồng ủy quyền; 01 hợp đồng mua bán xe trên cho Lưu Dương Đ.
- 01 điện thoại Xiaomi Redmi Note 10S màu xanh đen. Qua làm việc, H khai nhận điện thoại trên là điện thoại mà H trộm cắp của Lưu Dương Đ vào ngày 21/3/2023. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X đã tiến H lập biên bản trả lại tài sản trên cho Lưu Dương Đ.
- 01 đĩa CD ghi âm, ghi hình việc hỏi cung bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự:
- Bị hại là anh Hồng Minh Th và anh Lưu Dương Đ đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì khác. Đồng thời, Hồng Minh Th và Lưu Dương Đ đã làm đơn bãi nại cho bị cáo Ngô Phúc H.
- Bà Trần Thị Thu T không yêu cầu bồi thường về dân sự.
- Ông Bùi Thế X (chủ tiệm cầm đồ P) đã nhận được số tiền gia đình bị cáo bồi thường 3.000.000 đồng và không có yêu cầu bồi thường khác.
- Ông Vũ Văn L (chủ tiệm cầm đồ P) đã nhận được số tiền gia đình bị cáo bồi thường 10.000.000 đồng và không có yêu cầu bồi thường khác.
Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Phúc H có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo thừa nhận H vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Bản Cáo trạng số: 35/CT-VKSQ11 ngày 01 tháng 3 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân Quận X đã truy tố bị cáo Ngô Phúc H tội danh “Trộm cắp tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 173 và khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X trình bày lời luận tội, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Ngô Phúc H từ 09 tháng đến 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; hình phạt chung bị cáo phải chấp H của hai tội danh là từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm 06 tháng tù; Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe mang tên Ngô Phúc H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và các tang vật thu giữ được. Do đó, có đủ cơ sở để xác định:
Vào ngày 05/3/2023, tại nhà số 87 đường 281 Lý Thường Kiệt, Phường 15, Quận X, TH phố H, Ngô Phúc H mượn xe môtô hiệu Exciter biển số 59C2-xxxxx trị giá 14.400.000 đồng của Lưu Dương Đ để đi chở hàng nhưng khi nhận được tài sản, bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt nên đã cầm cố xe trên tại tiệm cầm đồ P để lấy tiền tiêu xài. Ngày 20/3/2023, Ngô Phúc H tiếp tục mượn xe mô tô hiệu ELAGANT, biển số 69AE -xxxxx trị giá 7.100.000 đồng của Hồng Minh Th để đi về quê. Khi nhận được tài sản, H tiếp tục nảy sinh ý định chiếm đoạt và cầm cố xe trên tại tiệm cầm đồ P. Bị cáo mượn tài sản của người khác rồi chiếm đoạt và bỏ trốn, H vi này đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Trong tội này, bị cáo đã 02 lần chiếm đoạt tài sản mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu tH tội phạm nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Sáng ngày 21/3/2023, bị cáo trở về phòng trọ tại số 87 đường 281 Lý Thường Kiệt, Phường 15, Quận X thì nhìn thấy Hồng Minh Th và Lưu Dương Đ đang ngủ nên H chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 10S trị giá 2.375.000 đồng và 01 chiếc xe hiệu Atila trị giá 2.250.000 đồng của Lưu Dương Đ. Bị cáo dùng thủ đoạn lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 4.625.000 đồng. H vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo nhận thức rõ được H vi của mình là trái pháp luật nhưng vì tính tư lợi, lười lao động bị cáo vẫn cố ý thực hiện. H vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 và khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đối với ông Vũ Văn L, ông Vũ Đình Tr (nhân viên và chủ tiệm cầm đồ P) và ông Bùi Thế X (chủ tiệm cầm đồ P) do lúc nhận cầm xe từ bị cáo Ngô Phúc H, không biết là tài sản do phạm tội mà có nên không có đủ căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự.
[2] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Tình tiết giảm nhẹ: Gia đình bị cáo đã bồi thường cho các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan; bị cáo tH khẩn khai báo nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tình tiết tăng nặng: Đối với tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[3] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:
- 01 xe mô tô hiệu SYM ELEGANT màu trắng xanh biển số 69AE- xxxxx; 01 giấy chứng nhận đăng kí xe mô tô, xe máy số 0201617, biển số 69AE-xxxxx; 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 59C2-xxxxx; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 59C2-xxxxx mang tên Lâm Trọng H; 02 hợp đồng ủy quyền và 01 hợp đồng mua bán xe máy biển số 55P1-xxxxx và 01 điện thoại Xiaomi Redmi Note 10S màu xanh đen, là điện thoại mà bị cáo trộm cắp của Lưu Dương Đ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X đã tiến H xử lý vật chứng trả lại tài sản cho bị hại là anh Hồng Minh Th và anh Lưu Dương Đ. Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét;
- 01 giấy phép lái xe số: 42017100xxxx mang tên Ngô Phúc H, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo;
- Đã lưu vào hồ sơ 01 đĩa CD ghi âm, ghi hình việc hỏi cung bị cáo.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Trần Thị Thu T, ông Bùi Thế X, ông Vũ Văn L đều không có yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận X, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 50; điểm a khoản 1 Điều 55, khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Tuyên bố bị cáo Ngô Phúc H phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Ngô Phúc H 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; buộc bị cáo phải chấp H hình phạt chung của cả hai tội là 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/11/2023.
Căn cứ vào Điều 46 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Trả lại cho bị cáo Ngô Phúc H: 01 (một) giấy phép lái xe số: 42017100xxxx tên Ngô Phúc H (theo Biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử ngày 22/3/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X).
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 41/2024/HS-ST về tội trộm cắp, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 41/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về