TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 49/2022/HSPT NGÀY 21/03/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 21-3-2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2022/TLPT-HS ngày 04-01-2022 đối với bị cáo Lã Văn T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2021/HS-ST ngày 26-11-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
- Bị cáo kháng cáo:
Lã Văn T, sinh ngày 13-01-1987 tại Hà Nam; nơi đăng ký HKTT: Thôn K, xã H, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở hiện nay: Nhà số 52C đường N, phường T1, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Kinh doanh; con ông Lã Văn Th và bà Nguyễn Thị H1; vợ là Lê Thụy Thảo L và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 19-01-2021, đến ngày 17-5-2021 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
Người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo:
- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Mai H2 - Văn phòng Luật sư Nguyễn Mai H2 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Công ty cổ phần Tổng Công ty N Quảng Bình; địa chỉ: Số 587 đường L1, phường B1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Xuân K1 - Tổng Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Đức A - Chức vụ: Trưởng phòng Phòng Tổ chức hành chính, có mặt tại phiên tòa.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại:
Luật sư Đỗ Ngọc Th1 - Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Bình; địa chỉ: Số 30 đường T2, phường Đ1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Võ Thị Như S; địa chỉ của trú: Thôn TT, xã E, huyện K2, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
2. Bà Lê Thị T3; địa chỉ cư trú: Thôn TL, xã Đ3, huyện Đ4, tỉnh Đắk Nông, vắng mặt.
3. Bà Phạm Thị H3; địa chỉ cư trú: Khối 5, thị trấn K4, huyện Đ4, tỉnh Đắk Nông, vắng mặt.
4. Bà Nguyễn Thị H4; địa chỉ cư trú: Thôn TT1, xã E1, huyện K2, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
5. Bà Lê Thị L3; địa chỉ cư trú: Thôn Q, xã N1, huyện Đ4, tỉnh Đắk Nông, vắng mặt.
6. Ông Võ A; địa chỉ cư trú: Thôn 3, xã ĐS, huyện Đ4, tỉnh Đắk Nông, vắng mặt.
7. Bà Trần Phạm Kim H5; địa chỉ cư trú: Nhà số 267 đường L2, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
8. Bà Nguyễn Thị T3; địa chỉ cư trú: Thôn 6, xã Đ5, huyện T4, tỉnh Đắk Nông, vắng mặt.
Ngoài ra Tòa án triệu tập thêm Điều tra viên Hoàng Tiểu P - Phòng PC03 - Công an tỉnh Quảng Bình, ông P vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 01-8-2014, Công ty cổ phần Tổng Công ty N Quảng Bình (sau đây viết tắt là Công ty N Quảng Bình) ký kết Hợp đồng lao động không xác định thời hạn với Lã Văn T và giao đảm nhiệm công việc kinh doanh tại Chi nhánh Tây Nguyên. Theo quy định của Công ty N Quảng Bình, cán bộ kinh doanh sau khi thu được tiền hàng từ các Đại lý phải chuyển nộp ngay cho công ty trong thời gian không quá 03 ngày, nhưng trong quá trình bán hàng và thu tiền từ các đại lý, Lã Văn T không chuyển nộp cho công ty theo quy định, mà dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt và sử dụng vào mục đích cá nhân.
Trong thời gian từ năm 2017 đến tháng 7-2018, Lã Văn T thu tiền bán hàng của 06 đại lý, nhưng không chuyển nộp cho Công ty N Quảng Bình, mà đưa ra các thủ đoạn gian dối như: báo cáo chưa thu được tiền hàng hoặc báo cáo thu được số tiền ít hơn số tiền thực tế đã thu từ các đại lý. Một số đại lý đã thanh toán xong tiền hàng, nhưng Lã Văn T vẫn báo cáo về công ty dự kiến nguồn trả nợ và cam kết thu nợ tiền hàng từ các đại lý đó, khai báo gian dối đã sử dụng tiền thu được trả nợ cho các đại lý khác và mua bàn ghế cho công ty để chiếm đoạt tổng số tiền là 953.475.411 đồng, cụ thể như sau:
1. Đại lý VS; địa chỉ tại xã E, huyện K2, tỉnh Đắk Lắk do bà Võ Thị Như S làm chủ đại lý:
Năm 2017, Đại lý VS nhận 40 tấn phân bón của Công ty N Quảng Bình, trị giá 323.750.000 đồng; năm 2018, nhận 10 tấn phân bón trị giá 54.000.000 đồng. Đến ngày 21-5-2018, đại lý đã thanh toán toàn bộ tiền hàng cho Lã Văn T, với tổng số tiền là 377.750.000 đồng. T đã chuyển nộp cho công ty 366.250.000 đồng, còn lại 11.500.000 đồng T chiếm đoạt sử dụng cá nhân.
2. Đại lý NT; địa chỉ tại xã Đ3, huyện Đ4, tỉnh Đắk Nông do bà Lê Thị T3 làm chủ đại lý:
Năm 2017, Đại lý NT nhận 100 tấn phân bón Sao Việt của Công ty N Quảng Bình, trị giá 852.950.000 đồng và đã thanh toán xong tiền hàng cho Lã Văn T, chiết khấu cho đại lý 2.050.000 đồng; năm 2018, nhận 57 tấn hàng phân bón, trị giá 493.150.000 đồng và thanh toán cho T 200.000.000 đồng, chiết khấu cho đại lý 10.900.000 đồng, còn nợ công ty 282.150.000 đồng. Tuy nhiên, T báo cáo về công ty tính đến ngày 31-7-2018, thì đại lý còn nợ 594.544.516 đồng (bao gồm nợ của năm 2017), nhưng thực tế, đại lý chỉ còn nợ 282.150.000 đồng. Như vậy, Lã Văn T chiếm đoạt 312.394.516 đồng sử dụng cá nhân.
3. Đại lý MĐ; địa chỉ tại Khối 5, thị trấn K4, huyện Đ4, tỉnh Đắk Nông do bà Phạm Thị H3 làm chủ đại lý:
Năm 2017, Đại lý MĐ nhận của Công ty N Quảng Bình 252 tấn hàng phân bón, trị giá 1.591.750.000 đồng và đã thanh toán xong tiền hàng cho Lã Văn T; năm 2018, nhận 95 tấn hàng, trị giá 655.550.000 đồng, bà Phạm Thị H3 đã thanh toán cho Lã Văn T 450.000.000 đồng, trong đó có 200.000.000 đồng là tiền bà H3 góp vốn để kinh doanh với T. Đại lý MĐ còn nợ công ty 405.550.000 đồng. Tuy nhiên, Lã Văn T báo cho công ty đến ngày 31-7-2018, đại lý còn nợ 700.150.895 đồng, giảm trừ lô hàng nhận lại từ Đại lý Quang Vinh trị giá 60.000.000 đồng, còn nợ 640,150.895 đồng (bao gồm cả nợ của năm 2017). Ngày 16-8-2018, Công ty N Quảng Bình, Đại lý MĐ và Lã Văn T tiến hành đối chiếu công nợ, xác định hiện tại Đại lý MĐ còn nợ tiền hàng là 405.550.000 đồng. Như vậy, Lã Văn T đã chiếm đoạt 234.600.895 đồng sử dụng cá nhân.
4. Đại lý BC; địa chỉ tại xã E1, huyện K2, tỉnh Đắk Lắk, do bà Nguyễn Thị H4 làm chủ đại lý:
Năm 2017, Đại lý BC nhận 147 tấn hàng phân bón của Công ty N Quảng Bình, trị giá 1.135.780.000 đồng và đã thanh toán cho T 1.135.430.000 đồng, còn nợ 350.000 đồng; năm 2018, nhận 72 tấn hàng phân bón, trị giá 538.800.000 đồng, đã thanh toán cho T 115.530.000 đồng và thanh toán trực tiếp cho Công ty N Quảng Bình 391.500.000 đồng, còn nợ lại 32.120.000 đồng. Tuy nhiên, Lã Văn T báo về cho công ty đến ngày 31-7-2018, đại lý còn nợ 97.650.000 đồng. Ngày 17-8-2018, Công ty N Quảng Bình, Đại lý BC và Lã Văn T tiến hành đối chiếu công nợ, xác định hiện tại Đại lý BC còn nợ 32.120.000 đồng. Như vậy, Lã Văn T chiếm đoạt số tiền 65.530.000 đồng sử dụng cá nhân.
5. Đại lý Quốc Cường; địa chỉ tại xã N1, huyện Đ4, tỉnh Đắk Nông, do bà Lê Thị L3 làm chủ đại lý:
Năm 2017, Đại lý Quốc Cường nhận bán hàng phân bón của Công ty N Quảng Bình và đã thanh toán đầy đủ cho Lã Văn T, nhưng T báo về công ty là đại lý còn nợ 35.500.000 đồng. Đến ngày 05-9-2018, Lã Văn T đã chuyển trả cho công ty 35.000.000 đồng; năm 2018, nhận 20 tấn hàng phân bón (lô hàng này Lã Văn T đã hợp đồng cho Đại lý MĐ, nhưng tự ý giao cho Đại lý Quốc Cường), trị giá 183.000.000 đồng, Đại lý Quốc Cường đã thanh toán cho T 173.000.000 đồng, còn lại chiết khấu cho đại lý 8.000.000 đồng và làm bảng hiệu 2.000.000 đồng, nhưng T không báo cáo và không chuyển nộp số tiền trên cho công ty. Như vậy, Lã Văn T đã chiếm đoạt tổng 173.500.000 đồng.
6. Đại lý PA; địa chỉ tại xã ĐS, huyện Đ4, tỉnh Đắk Nông, do ông Võ A làm chủ đại lý:
Năm 2017, Đại lý PA nhận 15 tấn hàng phân bón của Công ty N Quảng Bình, trị giá 125.250.000 đồng. Đại lý đã thanh toán đầy đủ số tiền trên cho Lã Văn T, nhưng T chỉ chuyển nộp cho công ty 49.700.000 đồng, còn giữ lại 75.550.000 đồng; năm 2018, nhận tiếp 22 tấn hàng phân bón, trị giá 155.400.000 đồng và đã thanh toán đủ số tiền hàng cho T. Ngày 05-3-2018, T chuyển nộp cho công ty 75.000.000 đồng và báo cáo với công ty đến ngày 31-7-2018, đại lý còn nợ 155.950.000 đồng, nhưng thực tế đại lý đã thành toán đủ tiền hàng cho T. Như vậy, Lã Văn T đã chiếm đoạt 155.950.000 đồng sử dụng cá nhân.
Tổng cộng Lã Văn T đã chiếm đoạt của Công ty Cổ phần Tổng Công ty N Quảng Bình là 953.475.411 đồng. Trong số tiền này, Lã Văn T khai vào năm 2016 đã sử dụng 279.000.000 đồng lấy từ Đại lý NT để trả nợ cho Đại lý LT; sử dụng 90.000.000 đồng lấy từ Đại lý MĐ để trả nợ cho Đại lý KH và sử dụng 262.000.000 đồng để mua bàn ghế cho công ty. Tuy nhiên, kết quả điều tra xác định lời khai của Lã Văn T không có căn cứ, do số tiền T chiếm đoạt được thực hiện vào năm 2017 và 2018, nhưng lại khai nhận đưa trả cho đại lý khác vào năm 2016 và thực tế từ năm 2016 đại lý LT và đại lý KH đã thanh lý hợp đồng và không bán hàng của Công ty N Quảng Bình, còn việc mua bàn ghế là do Lã Văn T tự ý mua cho cá nhân, chứ công ty không có chủ trương dùng tiền thu từ đại lý để mua sắm bàn ghế cho công ty và thực tế, bộ bàn ghế sau đó T đã bán lại cho ông Võ Xuân Dưỡng là nhân viên của công ty phụ trách bán hàng tại tỉnh Lâm Đồng.
Tại Quyết định trưng cầu giám định số 33/QĐ-PC03 ngày 29-4-2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Bình trưng cầu Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Bình giám định chữ viết, chữ ký của Lã Văn T tại các biên bản làm việc và biên bản đối chiếu công nợ gốc giữa Công ty cổ phần Tổng Công ty N Quảng Bình với các đại lý và Lã Văn T.
Tại Kết luận giám định số 676/KLGD-PC09 ngày 07-5-2021, Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Bình kết luận:
“Chữ ký, chữ viết dưới mục “ĐẠI DIỆN BÊN B” trên các mẫu cần giám định so với chữ viết, chữ ký của Lã Văn T trên các mẫu so sánh là do cùng một người ký, viết ra.
Chữ ký, chữ viết ở vị trí giữa các mục “ĐẠI DIỆN BÊN A” và “ĐẠI DIỆN BÊN B” trên các mẫu cần giám định so với chữ viết, chữ ký của Lã Văn T trên các mẫu so sánh là do cùng một người ký, viết ra”.
- Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết tin báo về tội phạm, Lã Văn T đã nhiều lần trả cho Công ty N Quảng Bình để khắc phục thiệt hại, với tổng số tiền là 940.000.000 đồng và trong quá trình điều tra, T đã nộp tại Cơ quan Cảnh sát điều tra 103.000.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2021/HS-ST ngày 26-11-2021, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình:
Áp dụng khoản 4 Điều 175; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
Lã Văn T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án (được trừ thời hạn bị tạm giam từ ngày 19-01-2021 đến ngày 17-5-2021).
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 585 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự.
- Buộc Lã Văn T bồi hoàn lại cho Công ty cổ phần Tổng Công ty N Quảng Bình số tiền còn thiếu là 13.475.411 đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu của Công ty cổ phần Tổng Công ty N Quảng Bình về việc buộc Lã Văn T trả cho công ty 200.000.000 đồng thu từ Đại lý MĐ.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp đảm bảo thi hành án (về số tiền tạm giữ), án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 30-11-2021, Lã Văn T kháng cáo kêu oan.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo kêu oan. Đơn kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại phần tranh luận, Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng: Theo Biên bản cuộc họp ngày 06-5-2018, giữa Công ty N Quảng Bình với Lã Văn T về việc xử lý toàn bộ công nợ, thì Công ty cho Lã Văn T trả nợ trong thời gian 02 năm, kể từ ngày 06-5-2018, nhưng khi chưa hết thời hạn 02 năm, Công ty đã làm đơn tố cáo Lã Văn T về hành vi chiếm đoạt tài sản là không đúng. Ngoài ra, tính đến ngày 11-4-2019, Lã Văn T đã thu hồi, xử lý tài sản, vay ngân hàng để hoàn trả cho Công ty N Quảng Bình 940.000.000 đồng và trước khi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Bình khởi tố vụ án, thì công nợ thuộc phạm vi quản lý của Lã Văn T chỉ còn 13.475.411 đồng. Do đó, không thể xem xét trách nhiệm của Lã Văn T đối với toàn bộ số tiền là 953.475.411 đồng.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại khẳng định tại Biên bản họp xử lý nợ xấu ngày 06-5-2018, thì công ty đã xác định với Lã Văn T có 03 doanh nghiệp, đại lý gồm: Doanh nghiệp tư nhân Đ6, hộ kinh doanh Ngô Văn T5 và đại lý HT1 là thuộc nợ xấu, còn 06 đại lý khác không thuộc trường hợp xử lý nợ xấu; đồng thời, cho rằng Lã Văn T quanh co, không thành khẩn nhận tội, nên cần xử lý nghiêm đối với hành vi phạm tội và hậu quả mà bị cáo đã gây ra.
[2]. Xét kháng cáo của bị cáo:
Lã Văn T là Cán bộ kinh doanh thuộc Công ty cổ phần Tổng Công ty N Quảng Bình - Chi nhánh Tây Nguyên. Theo quy định của Công ty N Quảng Bình, cán bộ kinh doanh sau khi thu được tiền hàng từ các Đại lý phải chuyển nộp ngay cho công ty trong thời gian không quá 03 ngày. Cho rằng trong quá trình bán hàng và thu tiền từ các đại lý, Lã Văn T không chuyển nộp lại tiền đã thu cho công ty theo quy định, mà dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt và sử dụng vào mục đích cá nhân, nên tại “Đơn tố cáo” ngày 16-10-2018 (bút lục số 6d, 6đ), Công ty N Quảng Bình tố cáo Lã Văn T đã lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt của công ty 1.218.375.411 đồng. Sau khi tiếp nhận giải quyết đơn tố cáo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Bình tiến hành xác minh và xác định, sau khi bị tố giác, Lã Văn T đã tự nguyện khắc phục hậu quả, thu hồi tiền của các đại lý, chuyển trả cho công ty 680.000.000 đồng, do đó ngày 24-02-2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định số 07/QĐ-PC03 (bút lục số 6e) tạm đình chỉ giải quyết nội dung đơn tố giác tội phạm của Công ty N Quảng Bình, với lý do: Công ty chưa cung cấp được các báo cáo hoạt động bán hàng, thu tiền hàng, quy trình thu nợ nộp về công ty của Lã Văn T từ năm 2017 đến nay.
Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, trước khi Công ty N Quảng Bình có đơn tố cáo, thì ngày 06-7-2017, Lã Văn T đã có Bản cam kết xử lý thu hồi công nợ (bút lục số 506, 507) cam kết thu hồi hết công nợ mùa khô trước thời điểm ngày 15-7-2017 gửi cho Ban lãnh đạo công ty qua Email của ông La Thế Phiệt (là Phó trưởng phòng Phòng Kế hoạch công ty); đồng thời, tại Biên bản làm việc ngày 14-5-2021 (bút lục số 399), ông Nguyễn Xuân K1 là Tổng Giám đốc Công ty N Quảng Bình xác nhận sau khi công ty có đơn tố cáo, từ ngày 07-01-2019 đến ngày 11-4-2019, Lã Văn T đã nộp lại cho công ty 940.000.000 đồng; tại Bản kết thúc giải quyết nguồn tin tội phạm số 36/BKT-PC03 ngày 20-11-2020 (bút lục số 09), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Bình kết luận “Lã Văn T đã khắc phục 1.030.000.000 đồng, còn 123.475.411 đồng đang chiếm đoạt”, từ đó ban hành Quyết định khởi tố vụ án số 68/QĐ-PC03 ngày 23-11-2020 (bút lục số 01) khởi tố vụ án hình sự về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 175 của Bộ luật Hình sự và ngày 17-6-2021 ban hành Bản kết luận điều tra vụ án hình sự số 29/KLĐT-PC03 (bút lục số 391), kết luận Lã Văn T chiếm đoạt của Công ty N Quảng Bình 953.457.411 đồng.
Nhu vậy, Công ty N Quảng Bình chỉ tố cáo Lã Văn T chiếm đoạt của công ty 1.218.375.411 đồng, trước khi khởi tố vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Bình xác định Lã Văn T đã khắc phục 1.030.000.000 đồng, nhưng tại bản kết luận điều tra lại kết luận Lã Văn T chiếm đoạt của công ty 953.457.411 đồng là có sự mâu thuẫn. Ngoài ra, nếu căn cứ bản kết luận điều tra kết luận Lã Văn T chiếm đoạt của công ty 953.457.411 đồng, thì trước khi khởi tố vụ án, Lã Văn T đã tự nguyện trả cho Công ty N Quảng Bình 940.000.000 đồng, nên số tiền thực tế mà T chiếm đoạt của công ty chỉ còn 13.457.411 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ bản kết luận điều tra và cáo trạng, xác định Lã Văn T chiếm đoạt Công ty N Quảng Bình 953.457.411 đồng, từ đó kết án bị cáo về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 175 của Bộ luật Hình sự là chưa đủ căn cứ vững chắc.
Tại thời điểm chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Lã Văn T cung cấp Biên bản họp Xử lý nợ xấu trong công tác bán hàng tại Tây nguyên và Lâm Đồng ngày 06-5-2018 (bút lục số 512, 513 - Bút lục của Tòa án), trong đó có nội dung: “1. Nợ xấu liên quan đ/c Lã Văn T quản lý và bán hàng: DNTN Đ6 (nợ mùa mưa 2016) 168.000.000 đồng; HKD Ngô Văn T5 (nợ mùa khô 2016/2027) 51.200.000 đồng; Đại lý HT1 (nợ mùa khô 2016/2017) 6.250.000 đồng; tổng cộng 225.450.000 đồng. Đ/c Lã Văn T đồng ý, chấp thuận sẽ vay Ngân hàng để trả đầy đủ một lần số tiền nêu trên cho công ty chậm nhất trước ngày 20-6-2018 ...”. Mặc dù, tại “Đơn tố cáo” ngày 16-10-2018, Công ty N Quảng Bình chỉ xác định đến tháng 7-2018, Lã Văn T trực tiếp thu tiền bán hàng của 07 khách hàng không có 03 đại lý nêu trên, nhưng tại biên bản này có nội dung “Công ty hỗ trợ trả tiền lãi vay cho cán bộ theo từng năm một, trong thời gian hai năm. Sau hai năm nếu cán bộ vẫn chưa xử lý thu hồi dứt điểm toàn bộ nợ xấu từ khách hàng, thì công ty sẽ xem xét và có hưởng xử lý tiếp theo...”. Tòa án cấp sơ thẩm không trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, làm rõ nội dung công ty hỗ trợ tiền lãi vay là hỗ trợ cho khoản nợ xấu nào? có bao gồm 07 khách hàng nhu trong đơn tố cáo không? để xác định thời hạn thu hồi công nợ (sau 02 năm, kể từ ngày 06-5-2018) mà đã kết luận “... đó là việc thỏa thuận về khoản nợ xấu của DNTN Đ6, hộ kinh doanh Ngô Văn T5 và Đại Lý HT1 với Công ty N Quảng Bình, còn đối với hành vi của Lã Văn T đã lợi dụng việc thu tiền từ các đại lý MĐ, VS, NT, BC, Quốc Cường và PA, nhưng không nộp về công ty mà đưa ra thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của công ty sử dụng cá nhân...” là chưa đảm bảo được nguyên tắc “Suy đoán vô tội”.
Do việc thu thập, đánh giá chứng cứ chua đầy đủ và đây là các chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, làm rõ số tiền Lã Văn T thực tế đã chiếm đoạt Công ty N Quảng Bình? xác định rõ thời hạn Lã Văn T trả nợ cho Công ty N Quảng Bình? có như vậy vụ án mới được giải quyết đúng pháp luật.
Như vậy, kháng cáo kêu oan của Lã Văn T sẽ được xem xét, giải quyết trong quá trình điều tra, xét xử lại vụ án.
[3]. Về án phí:
Do hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, nên Lã Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355 và Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2021/HS-ST ngày 26-11-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình kết án đối với Lã Văn T.
- Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.
2. Về án phí:
Căn cứ điểm f khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Lã Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 49/2022/HSPT
Số hiệu: | 49/2022/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về