TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 399/2020/HSPT NGÀY 10/06/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 6 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/HSPT ngày 06 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo: Nguyễn Đắc L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 120/2019/HSST ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Bị cáo kháng cáo: Nguyễn Đắc L, sinh năm 1987, tại Hà Nội. Nơi đăng ký HKTT: thôn Đồi 1, xã Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đắc Lập và bà Đỗ Thị Thê; Có vợ và 02 con (Con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012); Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại, có mặt.
Những tham gia tố tụng khác không có kháng cáo:
Bị hại: 1. Anh Khuất Duy N, sinh năm 1983.
2. Chị Nguyễn Thị Huệ, sinh năm 1987 (vợ anh N).
Đều cư trú tại: Tổ 4, khu Đồng Vai, thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Chị Nguyễn Thị Nguyệt, sinh năm 1984 - Chủ cơ sở cầm đồ Phú Lợi. Cư trú tại: thôn Đồi 2, xã Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội. Vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Văn Linh, sinh năm 1982. Cư trú tại: thôn Lũng Vị, xã Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 02/04/2018, Nguyễn Đắc L đến cửa hàng cho thuê xe ô tô của anh Khuất Duy N có địa chỉ tại: khu Đồng Vai, thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội thuê chiếc xe ô tô nhãn hiệu KIA, loại xe SPECTRA, màu đen, biển kiểm soát 30E- xxx để đi lại phục vụ công việc. Hai bên kí kết hợp đồng và thỏa thuận thời gian thuê xe là 03 ngày, từ ngày 02/4/2018 đến 04/4/2018, số tiền thuê xe là 600.000 đồng/ngày. Anh N yêu cầu L để lại sổ hộ khẩu, bằng lái xe ô tô của L (bản phô tô) và đặt cọc số tiền 20.000.000 đồng, L đồng ý. Sau đó, hai bên ký kết hợp đồng thuê xe ô tô, anh N giao chiếc xe ô tô cùng 01 giấy đăng kí xe, 01 giấy Chứng nhận bảo hiểm và 01 giấy chứng nhận đăng kiểm của xe ô tô biển kiểm soát 30E- xxx (đều là bản chính) cho L . Đến hạn trả xe như hợp đồng đã ký kết, L không trả xe cho anh N như đã thỏa thuận, anh N gọi điện thoại cho L yêu cầu L mang xe ô tô đến trả cho anh N. Lúc này, L lại thỏa thuận với anh N muốn tiếp tục thuê chiếc xe ô tô trên thêm một thời gian để làm phương tiện đi lại. L đặt vấn đề với anh N cho L thuê tiếp chiếc xe ô tô trên trong thời hạn là 30 ngày từ 04/4/2018 đến 04/5/2018. Anh N đồng ý bằng miệng cho L thuê thêm 30 ngày, nhưng với điều kiện là cứ 03 ngày L phải mang chiếc xe ô tô trên đến cửa hàng của anh N để kiểm tra và xác nhận cho thuê tiếp, L đồng ý. L sử dụng chiếc xe ô tô đã thuê để đi lại cá nhân. Đến ngày 07/4/2018, do cần tiền, L không báo với anh N nhưng đã mang chiếc xe ô tô trên đến cửa hàng cầm đồ “Phú Lợi” ở thôn đồi 3, xã Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ do chị Nguyễn Thị Nguyệt làm chủ. Tại đây, L gặp anh Nguyễn Văn Linh là nhân viên của cửa hàng cầm đồ và đề nghị anh Linh cho cầm cố chiếc xe ô tô trên. Sau khi kiểm tra chiếc xe ô tô và giấy tờ xe mang tên chị Nguyễn Thị Huệ, anh Linh Hỏi L thì L nói xe này L mua của chị Huệ nên anh Linh đồng ý nhận cầm cố chiếc xe của L với số tiền là 70.000.000 đồng. Anh Linh thỏa thuận với L để có điều kiện cầm cố được chiếc xe ô tô trên, L phải viết giấy vay tiền và viết giấy bán chiếc xe ô tô cho cửa hàng Cầm đồ “Phú Lợi”, nếu hết thời hạn vay tiền mà L không đến trả lại tiền gốc và tiền lãi theo thỏa thuận để lấy lại chiếc xe ô tô thì đồng nghĩa việc L đã bán chiếc xe ô tô trên cho cửa hàng Cầm đồ Phú Lợi với số tiền là 70.000.000 đồng. L đồng ý và viết giấy vay tiền trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày 07/4/2018, đồng thời có viết một giấy bán chiếc xe ô tô trên cho cửa hàng cầm đồ Phú Lợi. Sau khi viết các giấy tờ xong, anh Linh đưa cho L số tiền 70.000.000 đồng, L nhận tiền và để lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 30E- xxx cùng toàn bộ giấy tờ xe ô tô cho cửa hàng Cầm đồ “Phú Lợi”. Sau khi nhận số tiền trên, L sử dụng tiêu xài cá nhân hết. Cùng ngày, anh N không thấy L mang xe ô tô đến cho anh N kiểm tra và ký xác nhận vào hợp đồng cho thuê xe tiếp như đã thỏa thuận. Anh N gọi điện thoại cho L , thì L đã nói dối anh N là xe ô tô đang sử dụng để đi làm công trình, không mang xe đến được. Sau đó, anh N đã nhiều lần gọi điện thoại cho L , cũng như nhiều lần tìm gặp L để đòi xe, nhưng L vẫn nói dối xe đang đi làm công trình nên chưa trả được. Anh N biết L gian dối, lừa gạt mình nên đến ngày 25/12/2018, anh N đã làm đơn tố giác hành vi chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Đắc L.
Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm chiếc xe ô tô trên. Ngày 21/02/2019, anh Nguyễn Văn Linh biết Cơ quan Công an đang truy tìm chiếc xe ô tô trên và cũng không thấy L đến trả tiền cho Cửa hàng cầm đồ “Phú Lợi” để lấy xe ô tô như đã thỏa thuận, nên anh Linh đã tự nguyện giao nộp chiếc xe ô tô biển kiểm soát 30E- xxx cho Cơ quan điều tra - Công an huyện Chương Mỹ.
Về vật chứng vụ án: 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA, loại xe SPECTRA, màu đen, biển kiểm soát 30E- xxx, đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị Huệ. Cơ quan điều tra đã làm rõ chiếc xe ô tô trên là tài sản hợp pháp của vợ chồng anh N. Ngày 24/04/2019 Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng và trả lại cho cho vợ chồng anh Khuất Duy N.
Kết L giám định số 2209/KLGĐ- PC09 ngày 12/4/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hà Nội kết L : Phần chữ viết có nội dung: “Nguyễn Đắc L Đồi 1 xã Đông Phương Yên, Chương Mỹ - Hà Nội...11/3/2010, Hà Nội” dưới mục II. Đại diện bên thuê xe (Bên B) trong hợp đồng thuê xe ô tô; chữ ký, chữ viết dòng họ tên Nguyễn Đắc L trong giấy bán xe, giấy vay tiền với chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Đắc L trong bản tự khai, biên bản ghi lời khai Nguyễn Đắc L (mẫu so sánh) là chữ do cùng một người viết và ký ra.
Tại Kết L định giá tài sản số 44/KL - HĐĐG ngày 16/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện Chương Mỹ kết L : Giá trị còn lại của chiếc xe ô tô biển kiểm soát 30E- xxx là 110.000.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Khuất Duy N và chị Nguyễn Thị Huệ đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản nào khác.
Chị Nguyễn Thị Nguyệt yêu cầu Nguyễn Đắc L hoàn trả số tiền là 70.000.0000 đồng, do L đã trả trước số tiền 2.100.000 đồng, nên chị Nguyệt yêu cầu L hoàn trả số tiền còn lại là 67.900.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 120/2019/HSST ngày 19 tháng 11 năm 2019, Toà án nhân dân huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đắc L phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đắc L 36 tháng tù.
Buộc bị cáo phải hoàn trả chị Nguyễn Thị Nguyệt - Chủ cửa hàng Phú Lợi 67.900.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo bản án sơ thẩm xin được cải tạo tại địa phương.
Tại phiên toà phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Đắc L giữ nguyên nội dung kháng cáo; khai nhận hành vi phạm tội và xuất trình văn bản đã bồi thường đủ số tiền 67.900.000đ cho chị Nguyễn Thị Nguyệt là chủ cơ sở cầm đồ Phú Lợi.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ lời khai của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết L việc Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Đắc L về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã bồi thường đầy đủ số tiền 67.900.000đ cho chị Nguyễn Thị Nguyệt. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, sửa bản án sơ thẩm: chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, xử phạt bị cáo 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại Cơ quan điều tra, cũng như tại phiên toà sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết L :
Ngày 02/04/2018, Nguyễn Đắc L đến cửa hàng thuê xe ô tô của anh Khuất Duy N có địa chỉ tại khu Đồng Vai, thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội ký hợp đồng thuê xe ô tô biển kiểm soát 30E-xxx trị giá 110.000.000 đồng để sử dụng. Sau khi thuê được xe, đến ngày 07/4/2018 L đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe trên nên đã mang chiếc xe đến cửa hàng cầm đồ Phú Lợi cầm cố và ký giấy bán xe cho cửa hàng cầm đồ Phú Lợi lấy 70.000.000 đồng chi tiêu cá nhân. Mặc dù anh N đã nhiều lần gọi điện, tìm gặp đòi xe nhưng L tránh gặp và vẫn nói dối là đang sử dụng chiếc xe phục vụ công việc. Vì vậy, án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Đắc L về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại phiên tòa sơ và phúc thẩm bị cáo đều khai báo thành khẩn; ăn năn hối cải; tích cức bồi thường đầy đủ cho người bị hại và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã xuất trình văn bản bồi thường đầy đủ cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - Thiệt hại và hậu quả của vụ án đã được bị cáo khắc phục toàn bộ; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; có địa chỉ nơi cư trú rõ ràng. Do vậy, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, sửa án sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo của bị cáo cho bị cáo được hưởng án treo.
Ghi nhận bị cáo đã bồi thường cho chị Nguyễn Thị Nguyệt - Chủ cửa hàng Phú Lợi 67.900.000 đồng.
Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đắc L, sửa một phần bản án sơ thẩm về hình phạt. Cụ thể:
Tuyên bố: Nguyễn Đắc L phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 175; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;
Điều 38; Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Đắc L 36 (ba mươi sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Ghi nhận bị cáo đã bồi thường cho chị Nguyễn Thị Nguyệt - Chủ cửa hàng Phú Lợi 67.900.000 đồng.
Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 399/2020/HSPT
Số hiệu: | 399/2020/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/06/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về