TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BG
BẢN ÁN 82/2023/HS-PT NGÀY 31/05/2023 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG
Trong ngày 31/5/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh BG mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 121/2023/TLPT-HS ngày 19 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Hoàng Văn H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 14/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện LN, tỉnh BG.
* Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Hoàng Văn H; tên gọi khác: Không; sinh năm 1966, tại huyện LN, tỉnh BG; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN, tỉnh BG; nghề nghiệp: Làm ruộng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; chức vụ, đoàn thể, Đảng phái: Không; trình độ văn hoá: Lớp 2/10; con ông Hoàng Văn Nghiêm, sinh năm 1933 và bà Nguyễn Thị Quyển, sinh năm 1924 (đã chết); có vợ là Nông Thị Bằng, sinh năm 1971; bị cáo có 2 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1994; bị cáo có 10 anh em, bị cáo là thứ 05; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại địa phương. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Nguyên đơn dân sự: Ban quản lý rừng phòng hộ C, huyện LN, tỉnh BG.
Đại diện: Ông Lý Văn T - Chức vụ: Giám đốc là người đại diện theo pháp luật.
Người đại diện ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Phạm Hồng P - Phó Giám đốc Ban quản lý rừng phòng hộ C, huyện LN, tỉnh BG. Theo Giấy ủy quyền ngày 12/01/2023 (Vắng mặt).
* Trong vụ án có 3 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, 02 người làm chứng nhưng không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 11/12/2012 và ngày 13/9/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh BG có Quyết định số 429/QĐ-UBND và số 471/QĐ-UBND về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BQ814915 tại lô số 01, khoảnh 11A, tiểu khu 31 thuộc khu vực Suối Khoan, thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN, tỉnh BG, diện tích 9.571.12 ha, loại rừng tự nhiên phòng hộ, trạng thái rừng nghèo cho Ban quản lý rừng phòng hộ C, huyện LN quản lý và sử dụng.
Khoảng tháng 01/2022, Hoàng Văn H, sinh năm 1966, trú tại thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN, tỉnh BG thuê anh Lăng Văn M và 02 đàn ông ở huyện SĐ, tỉnh BG cùng Hiện dùng cưa máy cưa, phá số cây lâm sản gồm các loại cây gỗ gạo, thành ngạnh, cây leo, cây sơn và các loại cây rừng khác trên khoảnh 11A, khu vực Suối Khoan, thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN, tỉnh BG, mục đích để trồng cây keo. Từ khoảng tháng 01/2022 đến khoảng cuối tháng 3/2022, Hiện cùng những người nêu trên đã chặt, phá số cây lâm sản gồm: Chân chim, Lim vang, Lim xanh, Thẩu tấu, Kháo, Tra hươu, Vối thuốc, ... trên diện tích 3.300m2 rừng. Khoảng đầu tháng 3/2022, Nguyễn Văn T đã một mình dùng dao, cưa phát, chặt phá số cây lâm sản gồm: Chân chim, Thành ngạnh, Gạo, Nhội... trên diện tích 2.500m2 đất rừng thuộc khoảnh 11A thuộc khu Suối Khoan, thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN, mục đích để trồng cây keo.
Cuối tháng 3/2022, Trạm bảo vệ rừng SH cùng cộng đồng dân cư thôn Đấp, xã Sơn Hải đi kiểm tra rừng phòng hộ tại khu vực Suối Khoan, thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN phát hiện tại lô số 01 khoảnh 11A thuộc tiểu khu 31 đã bị chặt phá, loại rừng tự nhiên phòng hộ, trạng thái rừng nghèo. Trạm bảo vệ rừng SH đã báo cáo vụ việc đến Giám đốc Ban quản lý rừng phòng hộ C.
Ngày 25/4/2022, Ban quản lý rừng phòng hộ C có văn bản Thông báo cho Hạt kiểm lâm huyện LN tỉnh BG về sự việc nêu trên. Ngày 11/5/2022, Hạt Kiểm lâm LN chuyển hồ sơ, tài liệu đên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện LN giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 26/4/2022, Hạt kiểm lâm huyện LN phối hợp với các cơ quan chuyên môn tiến hành khám nghiệm hiện trường. Hiện trường được xác định tại khu vực rừng phòng hộ thuộc địa phận thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN, tỉnh BG. Khu vực rừng bị phá thuộc khoảnh 11A, tiểu khu 31. Hiện trường có các vị trí tiếp giáp như sau: Hướng Bắc tiếp giáp khoảnh 9A; Hướng Nam tiếp giáp với đất rừng của tỉnh Lạng Sơn; Phía Đông tiếp giáp với rừng của khoảnh 11A; Phía Tây tiếp giáp với rừng của khoảnh 11A. Tại hiện trường Tổ khám nghiệm hiện trường tiến hành kiểm tra trực tiếp và đo đạc diện tích rừng bị hủy hoại. Trên diện tích khu rừng bị hủy hoại phát hiện nhiều cây bị cưa đổ nằm trên mặt đất, số cây trong diện tích bị cắt phá có dấu hiệu bị tác động nhiệt, than hóa, cháy xém. Tổng diện tích rừng bị hủy hoại là: 30.200m2, tổng số cây gỗ bị hủy hoại là 443 cây với tổng trữ lượng nhóm cây gỗ II,V, VI, VII, VIII bị chặt phá là 46,783 m3.
Ngày 11/5/2022, Hạt Kiểm lâm huyện LN ra Yêu cầu định giá tài sản số 01, đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện LN định giá, xác định thiệt hại đối với trữ lượng nhóm cây gỗ nhóm II,V, VI, VII, VIII bị chặt phá là 46,783m3. Tại Kết luận định giá tài sản số 61/KL-HĐ ĐGTS, ngày 13/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện LN đã kết luận: Tổng trị giá thiệt hại là 103.120.100 đồng.
Ngày 12/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện LN phối hợp với Hạt kiểm lâm huyện LN cho Hoàng Văn H và Nguyễn Văn Thăng xác định diện tích rừng mà mình đã chặt, phá tại lô 01, khoảnh 11A, tiểu khu 31 thuộc khu vực Suối Khoan, thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN, tỉnh BG, kết quả: Hoàng Văn H xác định diện tích Hiện chặt phá là 3.300m2 có trữ lượng nhóm cây gỗ nhóm II,V, VI, VII, VIII bị chặt phá là 11,319 m3. Nguyễn Văn Thăng xác định diện tích rừng Thăng chặt phá là 2.500m2, trữ lượng nhóm cây gỗ nhóm II,V, VI, VII, VIII bị chặt phá là 2,419m3.
Ngày 10/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện LN ra Yêu cầu định giá tài sản số 114, đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện LN định giá, xác định thiệt hại đối với trữ lượng nhóm cây gỗ nhóm II,V, VI, VII, VIII do Hoàng Văn Hiện chặt phá là 11,319m3; Nguyễn Văn Thăng chặt phá là 2,419m3. Tại Kết luận định giá tài sản số 114/KL-HĐ ĐGTS, ngày 12/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện LN đã kết luận: Tổng trị giá thiệt hại là 32.192.300 đồng. Trong đó thiệt hại rừng do Hiện hủy hoại là 29.624.000 đồng; thiệt hại do Thăng hủy hoại là 2.568.300 đồng.
Ngày 27/10/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện LN cho anh Lăng Văn Mến, sinh năm 1973, trú tại: thôn Cống Lầu, xã Phong Vân, huyện LN, tỉnh BG là người được Hiện thuê cưa, phát rừng xác định diện tích rừng mà mình đã chặt, phá tại lô 01, khoảnh 11A, tiểu khu 31 thuộc khu vực Suối Khoan, thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN, tỉnh BG, kết quả anh Mến xác định đúng diện tích rừng bị hủy hoại do Hiện xác định.
Đối với Nguyễn Văn T có hành vi hủy hoại 2.500m2 rừng phòng hộ nêu trên, chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện LN có công văn đề nghị Hạt kiểm lâm huyện LN, tỉnh BG ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T về hành vi phá rừng.
Đối với anh Lăng Văn M được Hoàng Văn H thuê chặt phá rừng, quá trình điều tra xác định khi thuê, H nói với anh M là rừng của nhà H, anh M không biết đó là rừng phòng hộ nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh M là có căn cứ.
Đối với 02 người đàn ông ở huyện SĐ do Hoàng Văn H thuê để chặt phá rừng, quá trình điều tra Hiện khai không biết tên, địa chỉ của những người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.
Đối với diện tích rừng thuộc lô 01, khoảnh 11A, tiểu khu 31 thuộc khu vực Suối Khoan, thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN, tỉnh BG bị huỷ hoại còn lại là 24.400m2, tổng số cây lâm sản bị hủy hoại là 354 cây với tổng trữ lượng nhóm cây gỗ II,V, VI, VII, VIII bị chặt phá là 32,964 m3. Quá trình điều tra đến nay chưa làm rõ được do ai hủy hoại, ngày 03/11/2022 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện LN ra quyết định tách vụ án số 04 để tiếp tục điều tra làm rõ, nếu có căn cứ thì xử lý sau.
Về vật chứng: Đối với chiếc cưa máy cầm tay H dùng để cắt phá rừng, quá trình điều tra Hiện xác định đã bị hư hỏng và đã bán cho người mua phế liệu, nên không thu hồi được.
Đối với số cây lâm sản bị cáo Hoàng Văn H đã chặt phá, gồm 60 cây lâm sản các loại theo phiếu đo đếm cây (Biểu tính trữ lượng, độ tàn che tại bút lục số 73, 74). Quá trình điều tra xác định toàn bộ số cây lâm sản do bị cáo H chặt phá đều bị tác động nhiệt, than hóa, cháy xém từ trước khi khám nghiệm hiện trường ngày 26/4/2022 và đến nay do thời gian đã lâu toàn bộ số cây đã bị mục nát, không còn giá trị sử dụng.
Đối với số cây bạch đàn do bị cáo Hoàng Văn H trồng trái phép trên diện tích đất của Ban quản lý rừng phòng hộ Cấm Sơn. Quá trình điều tra bị cáo đề nghị giao cho Ban quản lý rừng phòng hộ Cấm Sơn quản lý, khai thác số cây này, bị cáo không yêu cầu, đề nghị gì đối với số cây bị cáo đã trồng.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại là ông Lý Văn T - Giám đốc Ban quản lý rừng phòng hộ C yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Bị cáo chưa bồi thường khắc phục hậu quả.
Đối với số tiền 10.000.000 đồng bị cáo khai đã đầu tư mua cây giống, phân bón để trồng cây trên diện tích đất của Ban quản lý rừng phòng hộ Cấm Sơn. Bị cáo xác định hành vi của bị cáo là vi phạm, nên bị cáo không yêu cầu giải quyết đối với số tiền này.
Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số: 27/2023/HS-ST ngày 14/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện LN, tỉnh BG quyết định:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 243; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 01 (một) năm tù về tội “Hủy hoại rừng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 29/3/2023, bị cáo Hoàng Văn H kháng cáo xin hưởng án treo.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo. Sau khi xét xử sơ thẩm xong bị cáo đã nộp tiền bồi thường thiệt hại cho Ban quản lý rừng phòng hộ C * Đại diện VKSND tỉnh BG thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã kết luận và đề nghị HĐXX: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, Sửa bản án sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 14/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện LN, tỉnh BG, xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 01 (một) năm tù về tội “Hủy hoại rừng” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.
Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận gì.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tội danh của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm và diễn biến của quá trình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:
Trong thời gian từ khoảng tháng 01/2022 đến cuối tháng 3/2022, tại lô số 01, khoảnh 11A, tiểu khu 31 thuộc khu vực Suối Khoan, thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN, tỉnh BG, Hoàng Văn H đã có hành vi dùng cưa máy cắt, phá các loại cây gỗ gạo, thành ngạnh, cây leo, cây sơn và các loại cây rừng khác trên diện tích 3.300m2 rừng phòng hộ, trữ lượng cây bị chặt phá là 11,319 m3, trị giá thiệt hại là 29.624.000 đồng. Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Hủy hoại rừng” theo quy định tại cứ điểm c khoản 1 Điều 243 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, không oan sai.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm rừng phòng hộ tại lô số 01, khoảnh 11A, tiểu khu 31 thuộc khu vực Suối Khoan, thôn Đồng Mậm, xã Sơn Hải, huyện LN, tỉnh BG là rừng do Ban Quản lý rừng phòng hộ C quản lý nhưng bị cáo vẫn có hành vi cắt, phá các loại cây gỗ gạo, thành ngạnh, cây leo, cây sơn và các loại cây rừng khác. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý rừng của Nhà nước, xâm hại đến sự ổn định và bền vững của môi trường sinh thái, nhưng vì lợi ích cá nhân bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, cần phải xử phạt bị cáo một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[2] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Hoàng Văn H:
Tại cơ quan điều tra cũng như phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Án sơ thẩm nhận định về tội danh, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo mức án 1 năm tù là có căn cứ. Tuy nhiên sau khi xét xử sơ thẩm xong bị cáo nộp tiền bồi thưởng thiệt hại và được Ban quản lý rừng phòng hộ C, huyện LN, tỉnh BG xác nhận đủ số tiền 29.624.000 đồng như bản án sơ thẩm đã tuyên. Do vậy có căn cứ áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình là do không hiểu biết, nhận thức pháp luật hạn chế, sống ở vùng kinh tế khó khăn, không hiểu việc làm của mình là vi phạm pháp luật. Sau khi được các cơ quan pháp luật giải thích mới hiểu nên bị cáo đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm của bản thân Đồng thời bị cáo đã có ý thức trồng lại một phần diện tích cây rừng bị chặt phá. Tại phiên tòa xuất trình thêm tình tiết mới, có địa chỉ cư trú rõ ràng nên việc không bắt bị cáo H phải chấp hành hình phạt tù cũng không gây ảnh hưởng xấu trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm, không gây nguy hiểm cho xã hội. Để đảm bảo tính nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước và tạo cơ hội cho bị cáo được tiếp tục trở thành công dân tốt, không cần bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội, phù hợp hướng dẫn tại Nghị quyết 02/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 15-4-2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 và Điều 65 Bộ luật hình sự.
Từ những nội dung trên, HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo H. Sửa bản án thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 14/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện LN, tỉnh BG theo nhận định đã nêu ở trên.
[3]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[4]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Xử:
1. Chấp nhấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn H. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 14/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện LN, tỉnh BG.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 243; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 01 (một) năm tù về tội “Hủy hoại rừng”. nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Hoàng Văn H cho UBND xã Sơn Hải, huyện LN, tỉnh BG giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc thi hành án được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 - Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
2. Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị cáo Hoàng Văn H đã bồi thường cho Ban quản lý rừng phòng hộ C, huyện LN, tỉnh BG số tiền 29.624.000 đồng (Hai mươi chín triệu, sáu trăm hai mươi tư nghìn đồng).
3. Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 82/2023/HS-PT về tội hủy hoại rừng
Số hiệu: | 82/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/05/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về