TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG
Ngày 16 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2021/TLST-HS, ngày 30 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2022/HSST-QĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:
Triệu Văn P (Tên gọi khác: Triệu Văn P B), sinh ngày 01/10/1985, tại huyện Ng, tỉnh Bắc Kạn. Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn P, xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Triệu Sinh T (đã chết và bà Phùng Thị Ph (đã chết ; Vợ: Bàn Thị S và 02 con; tiền án: không; tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lý Văn Tr - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.
* Nguyên đơn dân sự:
- Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn.
+ Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đăng B - Chức vụ: Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.
Địa chỉ: Tổ z, phường Ph, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.
+ Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Mỹ H - Chức vụ: Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Kạn (Theo Quyết định ủy quyền số: 205/QĐ-UBND ngày 14/02/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn . Vắng mặt.
Địa chỉ: Số h, đường Tr, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.
- Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn.
+ Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Văn H - Chức vụ: Chủ tịch UBND xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn L, xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn.
+ Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn Đ - Công chức địa chính, đất đai, môi trường xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn (Giấy Ủy quyền ngày 30 tháng 8 năm 2021 . Có mặt.
Địa chỉ: Tiểu khu j, thị trấn Ch, huyện B, tỉnh Bắc Kạn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian từ tháng 12/2020 đến tháng 4/2021, bị cáo Triệu Văn P một mình đi lên khu vực Gi thuộc thôn P, xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn tự ý phát phá rừng với mục đích trồng cây mỡ để phát triển kinh tế. Bị cáo P đã dùng dao phát phá toàn bộ những cây bé, bụi rậm, dây leo, cỏ dại...sau đó đợi khô và đốt. Đối với những cây gỗ to, bị cáo P thuê một người đàn ông không quen biết sử dụng máy cưa để chặt hạ với số tiền 200.000 đồng; bị cáo P đợi cây khô đốt một lượt nữa rồi tiến hành trồng cây mỡ. Ngày 26/5/2021, lực lượng Kiểm lâm huyện B tuần tra đã phát hiện và lập biên bản về việc phát phá rừng trái pháp luật. Qua đo đạc sơ bộ ban đầu thì tổng diện tích bị cáo Triệu Văn P phát phá là 5.420 m2; tổng số lâm sản bị thiệt hại là 19,917 m3 gỗ từ nhóm V đến nhóm VIII.
Ngày 02/7/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành khám nghiệm hiện trường xác định diện tích và lâm sản bị thiệt hại. Khu vực rừng Triệu Văn P đã hủy hoại thuộc lô 22 và lô 24, Khoảnh 11, Tiểu khu 60 thuộc thôn P, xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn là rừng sản xuất - rừng tự nhiên, thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn và Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Diện tích rừng bị hủy hoại là 5.389 m2 (Năm nghìn ba trăm tám mươi chín mét vuông , trong đó diện tích rừng do Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn quản lý là 1.427 m2 (Một nghìn bốn trăm hai mươi bảy mét vuông ; diện tích rừng do Ủy ban nhân dân xã B, huyện B quản lý là 3.962 m2 (Ba nghìn chín trăm sáu mươi hai mét vuông). Lâm sản bị thiệt hại có tổng khối lượng là 22,303 m3 (Hai mươi hai phẩy ba trăm linh ba mét khối bao gồm các loại cây gỗ từ nhóm V đến nhóm VIII, trong đó lâm sản thiệt hại tại lô 22 do Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn quản lý bao gồm các loại cây gỗ nhóm V, VI có khối lượng: 1,099 m3 (Một phẩy không trăm chín mươi chín mét khối ; lâm sản bị thiệt hại tại lô 24 do Ủy ban nhân dân xã B quản lý bao gồm các loại cây gỗ từ nhóm V đến nhóm VIII có khối lượng 21, 204 m3 (Hai mốt phẩy hai trăm linh bốn mét khối .
Tại kết luận định giá tài sản số 76/KL-HĐĐG ngày 16/8/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Ba Bể kết luận: Khối lượng gỗ trên diện tích do Ủy ban nhân dân xã B quản lý khối lượng là 21,204 m3 trị giá 25.444.800đ (Hai mươi lăm triệu bốn trăm bốn mươi bốn nghìn tám trăm đồng ;
Khối lượng gỗ trên diện tích do Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn quản lý khối lượng là 1,099 m3 trị giá 1.318.800đ (Một triệu ba trăm mười tám nghìn ba trăm đồng . Tổng khối lượng gỗ bị cáo Triệu Văn P hủy hoại trị giá 26.763.600đ (Hai mươi sáu triệu bảy trăm sáu mươi ba nghìn sáu trăm đồng .
Với hành vi trên, Bản Cáo trạng số: 44/CT-VKSBB ngày 28/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Triệu Văn P về tội: “Hủy hoại rừng”, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 243 của Bộ luật Hình sự.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị cáo Triệu Văn P đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể duy trì quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo Triệu Văn P theo Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Triệu Văn P phạm tội “Hủy hoại rừng”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 65 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng.
- Về Hình phạt bổ sung: Bị cáo thuộc hộ nghèo đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự: Các Nguyên đơn dân sự không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật, cụ thể:
+ Đối với 55 cây gỗ các loại thuộc nhóm V đến VIII có tổng khối lượng là 21,204 m3. Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu hóa giá sung vào Ngân sách Nhà nước, giao cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn quản lý và xử lý theo quy định của pháp luật.
+ Đối với 03 cây gỗ các loại thuộc nhóm V, VI có tổng khối lượng 1,099 m3. Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu hóa giá sung vào Ngân sách Nhà nước, giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn quản lý và xử lý theo quy định của pháp luật.
+ Đối với 01 (một con dao quắm, làm bằng kim loại dài 30 cm, chuôi dao làm bằng gỗ dài 20 cm của bị cáo Triệu Văn P. Con dao này bị cáo P đã dùng để chặt phá rừng là công cụ phạm tội, do đó đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.
- Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí hình sự sơ thẩm nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa vắng mặt người bào chữa cho bị cáo. Tuy nhiên, người bào chữa đã gửi luận cứ bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Triệu Văn P từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với tội danh, điều luật và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đã đề nghị trong bản luận tội. Trong phần tranh luận bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo không có ý kiến gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ba Bể, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; quyết định tố tụng được ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử những người tham gia tố tụng không ai khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự - UBND tỉnh Bắc Kạn vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt , người bào chữa vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt và có gửi kèm luận cứ bào chữa, đồng thời tại phiên tòa bị cáo đồng ý về sự vắng mặt của người bào chữa. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự đã có lời khai đầy đủ và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại. Do đó, việc vắng mặt họ không ảnh hưởng đến việc xét xử của Tòa án. Căn cứ khoản 1 Điều 291, khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng Hình sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ.
[3] Về căn cứ định tội, định khung hình phạt: Lời khai nhận tội của bị cáo Triệu Văn P tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản sự việc, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường; biên bản định giá tài sản và Kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ba Bể, lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án đã thể hiện: Trong khoảng thời gian từ tháng 12/2020 đến tháng 4/2021, bị cáo Triệu Văn P đã có hành vi phát phá rừng trái phép ở khu vực Gi thuộc thôn P, xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, vị trí thuộc các lô 22 và lô 24, khoảnh 11, Tiểu khu 60 theo bản đồ quy hoạch 3 loại rừng là rừng sản xuất, rừng tự nhiên do Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn và Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn quản lý. Tổng diện tích đất rừng bị bị cáo Triệu Văn P hủy hoại là 5.389 m2; tổng số lâm sản bị thiệt hại là 22,303 m3 gỗ các loại từ nhóm V đến nhóm VIII trị giá là 26.763.600đ (Hai mươi sáu triệu bảy trăm sáu mươi ba nghìn sáu trăm đồng).
Bản thân bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Do vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Triệu Văn P phạm tội “Hủy hoại rừng”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 1 Điều 243 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:
“1. Người nào đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác hủy hoại rừng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
b) Rừng sản xuất có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 10.000 mét vuông (m2);” Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến môi trường rừng là khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến công tác bảo vệ và phát triển rừng. Bị cáo nhận thức được hành vi chặt phá rừng là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể đã căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 243 của Bộ luật Hình sự để truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cần xử lý bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung.
[4] Về nhân thân, tiền án, tiền sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:
- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt. Chưa có tiền án, tiền sự.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Trong các giai đoạn tố tụng bị cáo đều "Thành khẩn khai báo" về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tự nguyện trồng cây gỗ mỡ lên toàn bộ diện tích đất rừng đã bị phá, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “tự nguyện khắc phục hậu quả”. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo, bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, bị cáo thuộc hộ nghèo, là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức về pháp luật còn hạn chế, mục đích bị cáo phát phá rừng chỉ để trồng cây mỡ nhằm phát triển kinh tế phục vụ cho cuộc sống của gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà xử phạt bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo là phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự, như vậy cũng đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, thể hiện được tính nhân đạo và lượng khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta. Do đó, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể và người bào chữa cho bị cáo đề nghị là có căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 4 Điều 243 của Bộ luật hình sự. Song xét thấy bị cáo thuộc hộ nghèo nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Các nguyên đơn dân sự không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về vật chứng:
+ Đối với 55 cây gỗ các loại thuộc nhóm V đến VIII có tổng khối lượng là 21,204 m3 do bị cáo chặt phá nằm trên diện tích đất 3.962 m2 do UBND xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn quản lý. Số gỗ này cần tịch thu hóa giá để sung vào ngân sách Nhà nước, xác định Ủy ban nhân dân xã B, huyện B là cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nước đối với số gỗ trên nên giao cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn quản lý và xử lý theo quy định của pháp luật.
+ Đối với 03 cây gỗ các loại thuộc nhóm V, VI có tổng khối lượng là 1,099 m3 do bị cáo chặt phá nằm trên diện tích đất 1.427 m2 do UBND tỉnh Bắc Kạn quản lý. Số gỗ này cần tịch thu hóa giá để sung vào ngân sách Nhà nước, xác định Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn là cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nước đối với số gỗ trên nên giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn quản lý và xử lý theo quy định của pháp luật.
+ Đối với 01 (một con dao quắm, làm bằng kim loại dài 30 cm, chuôi dao làm bằng gỗ dài 20 cm của bị cáo Triệu Văn P. Hội đồng xét xử nhận thấy con dao này là công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông mà bị cáo đã thuê chặt hạ những cây gỗ to trên diện tích rừng bị hủy hoại với số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng , quá trình giải quyết vụ án không xác định được họ tên, địa chỉ của người đàn ông này nên không có căn cứ xem xét xử lý.
[8] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí hình sự sơ thẩm nên Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, các nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 243; Điều 47; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo.
1. Tuyên bố: Bị cáo Triệu Văn P (tên gọi khác: Triệu Văn P B) phạm tội "Hủy hoại rừng".
2. Xử phạt bị cáo Triệu Văn P 14 (Mười bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 28 (Hai mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Triệu Văn P cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
"Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo".
3. Về xử lý vật chứng:
* Tịch thu hóa giá sung vào Ngân sách Nhà nước 55 cây gỗ các loại thuộc nhóm V đến VIII có tổng khối lượng là 21,204 m3 do bị cáo chặt phá. Giao cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn quản lý và xử lý theo quy định của pháp luật.
(Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/7/2021 giữa Công an huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn với Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bắc Kạn).
* Tịch thu hóa giá sung vào Ngân sách Nhà nước 03 cây gỗ các loại thuộc nhóm V, VI có tổng khối lượng là 1,099 m3 do bị cáo chặt phá. Giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn quản lý và xử lý theo quy định của pháp luật.
(Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/7/2021 giữa Công an huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn với Lâm trường B).
* Tịch thu tiêu hủy 01 (một con dao quắm, làm bằng kim loại dài 30 cm, chuôi dao làm bằng gỗ dài 20 cm của bị cáo Triệu Văn P.
(Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30/11/2021 giữa Công an huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn).
4. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Triệu Văn P.
5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự - UBND xã B, huyện B báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn dân sự - UBND tỉnh Bắc Kạn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”
Bản án về tội hủy hoại rừng số 03/2022/HS-ST
Số hiệu: | 03/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/02/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về