TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 392/2022/HS-PT NGÀY 14/06/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 116/2022/TLPT-HS ngày 21 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Danh Ngọc P.
Do có kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 14 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:
Danh Ngọc P, sinh năm: 1994. Nơi cư trú: Ấp V, xã V, huyện C, tỉnh K; nghề nghiệp: Ngư phủ; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Danh Ngọc C và bà Trần Thị N; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/9/2020 đến nay (có mặt).
Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Thái Đức G – Đoàn Luật sư tỉnh K (có mặt).
- Người bị hại: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1983 (chết); Nơi cư trú: Ấp 6, xã T, huyện T, tỉnh T.
Người đại diện hợp pháp của người bị hại (có kháng cáo): Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972. Nơi cư trú: Ấp 6, xã T, huyện T, tỉnh T (có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị N, sinh năm 1965;
2. Ông Danh Ngọc C, sinh năm 1967;
Nơi cư trú: Ấp V, xã V, huyện C, tỉnh K.
(Trong vụ án này, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 18/9/2020 tàu KG 94266 do Trần Văn K làm thuyền trưởng, khai thác hải sản trên vùng biển Việt Nam, đến 16 giờ thì neo đậu cho các thuyền viên ăn cơm, nghỉ ngơi. Các thuyền viên Danh Ngọc P, Nguyễn Văn Đ, Trần Văn N, Trần Hoàng N1 và Trần Văn K tổ chức uống rượu trên boong tàu, đến khoảng 19 giờ tất cả uống hết khoảng 02 lít rượu thì Đ nghỉ uống và nằm ngủ tại boong tàu, K vào trong cabin tàu ngủ, Ngọt, Nam, P tiếp tục vừa uống rượu, vừa trò chuyện. Trong lúc trò chuyện N nói: “Trên tàu này ngoài anh Ba Giò (P) với anh Ba Mù (K) ra thì tao không sợ ai hết”, P cho rằng N thiếu tôn trọng người khác vì trên tàu còn có nhiều thuyền viên là người lớn tuổi, nên P nhào qua dùng tay đánh nhiều cái vào người N, tiếp đó P cầm đũa tre đâm vào đầu N, Ngọt can ngăn không cho P đánh N. P đứng dậy đi lại trước cabin lấy vật bằng kim loại (có dạng hình chữ C) có sẵn trên tàu, cầm bằng tay phải đi đến đánh vào đầu N nhiều cái, theo hướng từ trên xuống, gây ra 3 vết thương thì được N1, Đ can ngăn, nên P không đánh nữa mà ném vật kim loại có hình chữ “C” xuống boong tàu và ngồi xuống nơi uống rượu. Ngọt, Dũng băng bó vết thương cho N. Khoảng 20 giờ, khi đang ngồi P nhớ chuyện Đ dọa khi nào tàu cập bến Đ sẽ đâm P và Đ đã từng kể chuyện tiền án về tội giết người, P đi đến chỗ Đ đang nằm ngủ, rồi dùng tay phải cầm vỏ nồi cơm điện đánh vào người Đ nhiều cái (lúc này Đ ở tư thế nằm ngửa), mọi người can ngăn, P không đánh nữa và ném vỏ nồi cơm điện xuống boong tàu rồi đi vào trong cabin tàu lấy một cây dao, có cán bằng nhựa màu vàng, mũi nhọn, dài khoảng 20cm của P mang theo để vá lưới và xẻ mực. P cầm dao bằng tay phải theo kiểu mũi dao quay lên, đi đến chỗ Đ nằm ngủ, lúc này Đ ở tư thế nằm sấp, P dùng tay trái đỡ vai, cổ Đ lên rồi tay phải cầm dao lòn vào dưới cổ cắt 02 (hai) nhát theo chiều hướng từ trái sang phải gây ra 03 vết thương (gồm: 01 vết thương vùng ngực trái từ 1/3 xương đòn phải đến trước hõm nách phải, kích thước 9cm x 1,5cm, bờ mép sắc gọn, sâu 3,5cm vào lớp cơ, đầu vết thương phía dưới sâu hơn phía trên; mặt trước cổ có 02 vết thương nằm ngang cách nhau 01cm gồm: vết thứ nhất phía trên kích thước 11cm x 2cm, bờ mép sắc gọn, sâu đứt lìa khí quản và xuyên thấu với vết thương mặt bên trái cổ; vết thương mặt bên trái cổ kích thước 2cm x 0,3cm bờ mép sắc gọn) làm Đ chết tại chỗ. Các ngư phủ trên tàu nhìn thấy truy hô nên P ném bỏ cây dao xuống biển và bị các ngư phủ bắt giữ rồi chuyển đến Đồn Biên phòng Tây Yên thuộc xã Tây Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Sau đó bị tạm giữ, khởi tố chuyển tạm giam đến nay.
Vật chứng vụ án: Không thu giữ được.
Tại bản kết luận giám định pháp y tử thi số: 838/KL-KTHS, ngày 23/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, đối với tử thi Nguyễn Văn Đ kết luận như sau:
1. Các kết quả chính - Trên người nạn nhân có 02 vết thương ở vùng cổ và 01 vết thương ở vùng ngực phải, bờ mép sắc gọn. Vết thương dẫn đến tử vong cho nạn nhân ở vùng cổ phải trên kích thước 11cm x 2cm, gây đứt lìa khí quản và đứt lìa động mạch cảnh chung bên trái, xuyên thấu ra mặt bên cổ trái, kích thước 2cm x 0,3cm. Hai vết thương còn lại sâu vào lớp cơ.
- 02 (hai) phổi không thấy tổn thương.
- Tim không thấy tổn thương.
- Ô bụng khung có dịch.
- Tụ máu cơ thái dương bên phải kích thước 2cm x 1,5cm.
- Xương hộp sọ không nứt, không vỡ.
2. Nguyên nhân chết: Sốc mất máu do vết thương vùng cổ gây đứt lìa khí quản và động mạch cảnh chung bên trái.
3. Cơ chế hình thành thương tích: Vết thương trên người Nguyễn Văn Đ có đặc điểm phù hợp với đặc điểm vết thương do vật sắc nhọn gây nên.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 14 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, đã quyết định: Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Danh Ngọc P phạm tội “Giết người”.
Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, c khoản 1 Điều 51 và Điều 39 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Danh Ngọc P tù chung thân. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/9/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 16/01/2022, ông Nguyễn Văn T là đại diện hợp pháp của người bị hại kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Danh Ngọc P.
Ngày 17/01/2022, bị cáo Danh Ngọc P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Danh Ngọc P tù Chung thân về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Bị cáo và đại diện hợp pháp người bị hại kháng cáo, nhưng không xuất trình được thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Luật sư bào chữa cho các bị cáo phát biểu: Tòa án sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên luật sư cho rằng sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình người bị hại và được đại diện hợp pháp của người bị hại kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó luật sư đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Lời nói sau cùng, bị cáo Danh Ngọc P trình bày, bản thân hối hận vì say rượu nên gây ra hành vi phạm tội nên mong muốn Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Kháng cáo của bị cáo Danh Ngọc P và người đại diện hợp pháp của người bị hại là đúng về hình thức, nội dung và được nộp trong hạn luật định nên được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1] Tại phiên tòa, bị cáo Danh Ngọc P khai nhận vào khoảng 20 giờ ngày 18/9/2020, trên tàu KG 94266TS khi neo đậu trên vùng biển Việt Nam. Trong lúc uống rượu Danh Ngọc P gây mâu thuẫn và đánh Trần Hoàng N, thì được mọi người can ngăn nên không đánh N nữa. Nhưng khi thấy Nguyễn Văn Đ đang nằm ngủ trên boong tàu, Danh Ngọc P đã dùng vỏ nồi cơm điện đánh Đ, sau đó lấy dao, dùng tay phải cầm dao cắt vào vùng cổ của Đ 02 nhát gây đứt lìa khí quản và đứt lìa động mạch cảnh chung bên trái, xuyên thấu ra mặt bên cổ trái làm Đ tử vong tại chỗ.
[2] Quá trình điều tra, xét xử bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, bị cáo và người bị hại là cùng đi ghe chung, không có mâu thuẫn, nhưng khi nhớ lại chuyện bị hại dọa khi nào tàu cập bến sẽ đâm bị cáo và bị hại đã từng kể chuyện có tiền án về tội giết người. Bị cáo liền đi đến chỗ bị hại đang nằm ngủ, rồi dùng tay phải cầm vỏ nồi cơm điện đánh vào người bị hại nhiều cái, mặt dù đã được can ngăn. Tuy nhiên không dừng lại ở đó, bị cáo còn lợi dụng bị hại đang trong tình trạng nằm sấp, bị hạn chế khả năng kháng cự lấy dao lòn dưới cổ cắt hai nhát vào cổ bị hại làm bị hại chết tại chỗ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giết người” với tình tiết định khung tăng nặng “có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây đau thương mất mát cho gia đình nạn nhân và làm mất trật tự trị an tại địa phương. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo tù chung thân là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, không nặng. Tại phiên tòa phúc thẩm mặc dù đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhưng với tính chất đặc biệt nghiêm trọng nêu trên và bị cáo cũng không đưa ra được chứng cứ làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt nào mới. Do đó không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại về việc xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[4] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp cho bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ. Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm (về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm) không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
1. Không chấp kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Danh Ngọc P và đại diện hợp pháp của người bị hại.
Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 14 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
2. Tuyên bố: Bị cáo Danh Ngọc P phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, c khoản 1 Điều 51 và Điều 39 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Danh Ngọc P tù Chung thân. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/9/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Danh Ngọc P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm (về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm) không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 392/2022/HS-PT
Số hiệu: | 392/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về