TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 216/2022/HSPT NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 179/2022/TLPT-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Trần H về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo:
TRẦN H, sinh ngày 10/01/1998, tại thành phố Đà Nẵng; nơi ĐKHKTT: Tổ 11, phường T, quận T1, thành phố Đà Nẵng; chỗ ở hiện nay: 61 Đường T3, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần H1 và bà Nguyễn Thị H2; chưa có vợ con; tiền án: Ngày 25/6/2019 bị Tòa án nhân dân quận H3, thành phố Đà Nẵng xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. (Chấp hành xong hình phạt ngày 12/5/2020); tiền sự: Ngày 02/5/2019, bị Công an quận T1, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính về hành vi Xâm hại sức khỏe người khác; nhân thân: Ngày 22/9/2021, bị Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 10/03/2021 đến ngày 20/03/2021; bị tạm giam trong vụ án khác từ ngày 21/3/2021; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Trần H: Luật sư Nguyễn Lê V - Công ty Luật TNHH MTV N1, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng; bào chữa theo yêu cầu của gia đình bị cáo; địa chỉ: 218 đường T2, quận T1, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 01/11/2020, tại chợ Đ thuộc địa phận phường H4, quận H3, thành phố Đà Nẵng, trong quá trình làm việc bốc vác, anh Ngô Tiến Th (sinh năm 1990; trú: K264/31 đường T5, phường T, quận T1, thành phố Đà Nẵng) xảy ra mâu thuẫn, xô xát với anh Huỳnh Phan Minh H5 (sinh năm 1997; trú: Khối N, phường Đ1, thị xã Đ2, tỉnh Quảng Nam) nhưng được những người ở chợ can ngăn. Sau đó, T5 gọi điện thoại cho Trần H kể về việc T5 bị H6 đánh và nhờ H đến chợ Đ để đưa T5 về, H đồng ý. Lúc này, Trần H cùng với bạn gái là Mai Nhật p (sinh năm 2000; trú: 04 Nại Nghĩa 5, tổ 7, phường N2, quận S, thành phố Đà Nẵng) vừa về đến nhà của H tại 61 Đường T3, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng. H vào nhà lấy 01 (một) cây dao (loại dao bầu) màu đen, dài khoảng 40cm, giấu bên trong áo khoác da màu đen rồi quay ra rủ P cùng đến chợ Đ để uống cà phê, P đồng ý. H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ - đen BKS: 43E1-560.59 chờ P đến chợ Đ. Khoảng 03 giờ 50 phút cùng ngày, H và P đến nơi, P ngồi ở quán cà phê gần chợ Đ đợi, còn H mang theo cây dao đã chuẩn bị sẵn vào trong chợ. Khi đến nhà vệ sinh của chợ, H để cây dao ở sau cửa nhà vệ sinh rồi đi vào tìm T5. Lúc này, H gặp H6 đang đứng nói chuyện với anh Huỳnh H7 (sinh năm 2001; tạm trú: Chợ Đ, phường H4, quận H3, thành phố Đà Nẵng), H và H6 xảy ra cải vã, xô xát về việc H6 và T5 đánh nhau nhưng được mọi người can ngăn. Sau đó, H chạy đến nhà vệ sinh của chợ, lấy cây dao đã cất giấu từ trước chạy đến chỗ H6 đang đứng, cầm dao bằng tay phải, chém 01 (một) nhát vào vùng đầu của H6 theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái. H6 đưa tay trái lên trước mặt của mình để đỡ nên một phần lưỡi dao chém trúng vào phần đầu phía trên tai trái và một phần lưỡi dao chém trúng vào phần cẳng tay đoạn gần cổ tay trái của H6 gây thương tích. Sau đó, mọi người can ngăn và đưa H6 đi cấp cứu ở Bệnh viện đa khoa T6, Đà Nẵng, còn H cầm dao ra khỏi chợ và bảo p chở về nhà. Khi đi qua cầu Tiên Sơn, thành phố Đà Nẵng, H ngồi sau xe đang di chuyển và vứt cây dao xuống sông.
Tang vật thu giữ:
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision BKS: 43E1-560.59 thu giữ của Mai Nhật P.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 253/TgT ngày 26/11/2020 của Trung tâm pháp y thành phố Đà Nẵng, kết luận thương tích của anh Huỳnh Phan Minh H5: Vùng thái dương trái (nằm trong chân tóc) có vết rách da, bờ mép phẳng gọn, kích thước 03cm x 0,1 cm; vết thương tay trái: Đứt hoàn toàn gân cơ gấp và duỗi cổ tay trụ, mẻ xương trụ trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 12% (mười hai phần trăm).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trần H phạm tội “Giết người”.
Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 15; khoản 1, 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Trần H: 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giam trước đó 10 (mười) ngày (từ ngày 10/3/2021 đến ngày 20/3/2021). Thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại buộc bị cáo phải chấp hành là 12 (mười hai) năm 05 (năm) tháng 20 (hai mươi) ngày tù.
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt với Bản án số 64/2021/HS-ST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng (đã có hiệu lực pháp luật). Buộc bị cáo Trần H phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai Bản án là 15 (mười lăm) năm 11 (mười một) tháng 20 (hai mươi) ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/3/2021.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự; phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 13/4/2022, bị cáo Trần H có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tòa án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 12 năm 6 tháng tù về tội giết người là đúng pháp luật; bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ nhưng không có tình tiết mới, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 355 BLTTHS bác kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo H trình bày: Thống nhất về tội danh đối với bị cáo, về mức án sơ thẩm xử phạt bị cáo 12 năm 6 tháng tù là nghiêm khắc, thương tích của bị hại chỉ có 12 %, đề nghị xét giảm án cho bị cáo.
Bị cáo Trần H thống nhất với lời bào chữa của người bào chữa, đề nghị xin giảm án tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần H tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở nhận định: Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 01/11/2020, tại chợ Đ thuộc địa phận phường H4, quận H3, thành phố Đà Nẵng, Trần H đã có hành vi dùng 1 cây dao bầu dài khoảng 40cm chém một nhát vào vùng đầu anh Huỳnh Phan Minh H5, anh H6 đưa tay lên đỡ nên lưỡi dao chém trúng vào phần đầu và phần cẳng tay trái, gây thương tích 12%. Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần H, thấy: Hành vi của bị cáo thể hiện tính côn đồ, xem thường tính mạng, sức khỏe người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, ảnh hưởng xấu an ninh xã hội; phạm tội thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h Điều 52 BLHS năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả bị cáo gây ra, nhân thân của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo 12 năm 6 tháng tù về tội “giết người” là có căn cứ và đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới; do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt tù, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[2] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về tổng hợp hình phạt tù, về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3] Về án phí: Bị cáo Trần H kháng cáo nhưng không được chấp nhận; do đó phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật số tiền: 200.000, đồng (Hai trăm ngàn đồng).
Vì những lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần H và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 15; Điều 38; khoản 1, 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Trần H: 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Giết người”. Trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giam trước đó 10 (mười) ngày (từ ngày 10/3/2021 đến ngày 20/3/2021). Thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại buộc bị cáo phải chấp hành là 12 (mười hai) năm 05 (năm) tháng 20 (hai mươi) ngày tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt với Bản án số 64/2021/HS-ST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng (đã có hiệu lực pháp luật). Buộc bị cáo Trần H phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai Bản án là 15 (mười lăm) năm 11 (mười một) tháng 20 (hai mươi) ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/3/2021.
2. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí:
Bị cáo Trần H phải chịu 200.000, đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 216/2022/HSPT
Số hiệu: | 216/2022/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về