Bản án về tội giết người số 33/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 33/2022/HS-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 08/7/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lào Cai mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 19/2022/HSST ngày 12/5/ 2022. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HS ngày 22/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Thền Chẩn M; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 05/05/1962, tại: huyện K, tỉnh Lào Cai; Nơi thường trú: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Lào Cai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 1/10; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Tiền án, tiền sự: Không; Con ông: Thền Sàn M1 (đã chết); Con bà: Lù Già L (đã chết); Vợ: Vương Thị Đ (đã chết); Con: Bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh năm 1986.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/02/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. (Có mặt) - Người bào chữa cho bị cáo:

1. Ông Lê Thanh H - Luật sư, Văn phòng luật sư H1 - Đoàn luật sư tỉnh Lào Cai (Vắng mặt).

2. Bà Liệu Thị N - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai (Có mặt).

- Bị hại: Bà Nguyễn Kiều O. Địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Lào Cai. (Đã chết)

- Đại diện hợp pháp của bị hại:

+ Ông Thền Chẩn H2.

+ Chị Thền Thị C.

+ Anh Thền Duy T1.

+ Anh Thền Duy T2.

Cùng địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Lào Cai.

Người đại diện theo ủy quyền của chị C, anh T1, Anh T2: Ông Thền Chẩn H2. Địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Lào Cai. (Có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Ngô Thị N1.

+ Anh Thền Dung D.

Cùng địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Lào Cai. (Đều vắng mặt)

- Người làm chứng:

+ Chị Hoàng Thu H2 (Có mặt) + Chị Thền Thị T3 (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Lào Cai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 15/12/2021, Thền Chẩn M bị ảo giác có người đe dọa giết mình nên M cầm con dao phát bằng kim loại, dài 39cm, lưỡi dao dạng lưỡi liền có cán bằng gỗ, dài 66cm, đường kính 3,5cm dựng sẵn ở gần đầu giường ngủ rồi đi từ nhà theo đường mòn ra đường bê tông nông thôn Mã Tuyển - Dê Chú Thàng. Khi đi được khoảng 150m thì M gặp bà Nguyễn Kiều O đi bộ ngược chiều với M. Lúc này M cho rằng bà O là người đang đe dọa giết mình nên đã dùng tay phải cầm con dao phát mang theo nhằm vùng đầu của bà O chém một nhát theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái làm cán gỗ của con dao bị gãy và lưỡi dao rơi xuống đất. Bà O đi loạng choạng vài bước rồi ngã ra nền đất. Thấy bà O vẫn cử động, M tiếp tục dùng cán dao bằng gỗ đang cầm ở tay phải đập nhiều phát vào đầu bà O nhưng vẫn thấy bà O còn cử động, M thả cán dao xuống đất rồi nhặt con dao phát lên, tay phải cầm vào phần chuôi dao sau đó dùng phần sống dao đập nhiều nhát vào vùng mặt bà O. Lúc này mũ chống nắng và khẩu trang của bà O bị tuột ra nên M nhận ra người bị mình chém là em dâu mình nên M dừng lại, cầm theo con dao phát bỏ đi khỏi hiện trường. Ngày 16/12/2021, M đến Công an huyện K đầu thú về hành vi phạm tội của bản thân.

Sau khi bị đánh, bà O được ông Thền Chẩn H2 (chồng bà O) phát hiện và đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa huyện K và Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lào Cai đến ngày 21/12/2021 bà O tử vong.

Kết luận giám định số 298/TgT ngày 20/12/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai kết luận:

+ Cơ chế gây thương tích: Chấn thương trực tiếp; Vật gây thương tích: Vật cứng sắc; Tỷ lệ tổn thương sức khỏe: 99%.

- Kết luận giám định số 10/TT ngày 14/01/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai kết luận nguyên nhân Nguyễn Kiều O chết do chấn thương sọ não (vỡ nát phức tạp xương sọ, dập nát, thoát tổ chức não ra ngoài).

- Kết luận giám định số 9372/C09-TT3 ngày 24/01/2022 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:

+ Trên con dao có dính tóc người, không tiến hành giám định gen (AND) do không có gốc tóc; Trên con dao và đoạn gậy gỗ gửi giám định có bám dính máu người và đều là máu của Nguyễn Kiều O; Mẫu nghi tóc ghi thu tại hiện trường đều là tóc người, trong đó có 05 sợi là tóc của Nguyễn Kiều O, các sợi còn lại đều không có gốc không tiến hành giám định gen (AND); Mẫu nghi máu ghi thu tại hiện trường là máu người và là máu của Nguyễn Kiều O.

- Kết luận giám định số 154/KLGĐ ngày 14/01/2022 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía Bắc kết luận: Thền Chẩn M bị bệnh rối loạn loạn thần do rượu - F10.5; Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 15/12/2021, Thền Chẩn M bị bệnh rối loạn loạn thần do rượu, hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi; Tại thời điểm kết luận giám định Thền Chẩn M bị bệnh rối loạn loạn thần do rượu, hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

Cáo trạng số 27/CT-VKS-P2 ngày 10/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Thền Chẩn M về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm.

Bị cáo Thền Chẩn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Thền Chẩn M phạm tội “Giết người”.

Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s, p, q khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 13 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Thền Chẩn M từ 18 đến 20 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 30 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 591 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho gia đình người bị hại theo quy định của pháp luật. Đề nghị xử lý vật chứng, tuyên án phí, quyền kháng cáo theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày ý kiến: Nhất trí với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, p, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 13 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Thền Chẩn M từ 12 đến 14 năm tù.

Đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày ý kiến:

- Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho gia đình tổng số tiền là 190.000.000 đồng. Xác nhận gia đình bị cáo đã bồi thường số tiền là 16.496.000 đồng. Yêu cầu bị cáo Thền Chẩn M phải bồi thường số tiền còn lại là 173.504.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa bị cáo Thền Chẩn M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở khẳng định:

Ngày 15/12/2021, mặc dù không có mâu thuẫn, thù tức gì song do bị ảo giác, hoang tưởng nên bị cáo Thền Chẩn M đã dùng 01 con dao phát có tổng chiều dài 105cm chém, vụt nhiều nhát vào vùng đầu, mặt bà Nguyễn Kiều O làm bà O bị thương nặng dẫn tới tử vong.

Xét thấy, giữa bị cáo và bị hại O không có mâu thuẫn, thù tức nhưng do uống rượu trong thời gian dài làm ảnh hưởng đến khả năng nhận thức, điều khiển hành vi nên bị cáo M đã vô cớ dùng dao phát là hung khí nguy hiểm chém liên tiếp vào đầu, vùng cổ phía sau gáy, mặt và các vị trí trọng yếu trên cơ thể của bà Nguyễn Kiều O là em dâu của bị cáo. Hành vi của bị cáo thể hiện rõ tính chất côn đồ, hung hãn, coi thường tính mạng của người khác. Hậu quả bà O bị thương nặng dẫn tới tử vong.

Vì vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Thền Chẩn M đã cấu thành tội “Giết người” với tình tiết định khung là “có tính chất côn đồ”. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai đã truy tố bị cáo Thền Chẩn M về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về năng lực chịu trách nhiệm hình sự Điều 13 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Tại kết luận giám định số 154/KLGĐ ngày 14/01/2022 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía Bắc kết luận: Thền Chẩn M bị bệnh rối loạn loạn thần do rượu - F10.5; Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 15/12/2021, Thền Chẩn M bị bệnh rối loạn loạn thần do rượu, hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

Theo kết luận giám định nêu trên, tại thời điểm phạm tội bị cáo Thền Chẩn M bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Nguyên nhân là do bị cáo sử dụng rượu trong thời gian dài dẫn đến bệnh rối loạn loạn thần do rượu. Căn cứ theo quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự, bị cáo Thền Chẩn M phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Thền Chẩn M là đặc biệt nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người là khách thể được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Do đó, phải xử lý bị cáo thật nghiêm khắc trước pháp luật và có hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Về tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã đến Cơ quan điều tra đầu thú; bị cáo tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại; khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi; bản thân bị cáo đã nhiều năm được điều trị bệnh tâm thần cộng đồng (Từ 2013 đến 2021), hiện bị cáo là đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng đối với người bị khuyết tật nặng, hưởng mức 405.000 đồng; gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo. Do vậy, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p, q, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Đối với ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Thền Chẩn M đề nghị xử phạt bị cáo Thền Chẩn M mức án từ 12 đến 14 năm tù là nhẹ, không tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, không đáp ứng được việc cải tạo giáo dục đối với bị cáo và đấu tranh, răn đe, phòng ngừa chung nên không được chấp nhận.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại ông Thền Chẩn H2 yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là 190.000.000 đồng (Một trăm chín mươi triệu đồng), trong đó: Chi phí cho việc cứu chữa bị hại là 20.000.000 đồng; Chi phí cho việc mai táng là 30.000.000 đồng; Bồi thường tổn thất tinh thần là 140.000.000 đồng.

Hi đồng xét xử xét thấy: các yêu cầu bồi thường trên là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Xác nhận gia đình bị cáo đã bồi thường 16.496.000 đồng (Mười sáu triệu bốn trăm chín mươi sáu nghìn đồng), số tiền còn lại buộc bị cáo phải bồi thường cho những người đại diện hợp pháp của bị hại là 173.504.000 đồng (Một trăm bảy mươi ba triệu năm trăm linh bốn nghìn đồng).

Tại thời điểm bà Nguyễn Kiều O chết, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà O gồm: Ông Thền Chẩn H2 (Chồng bị hại), chị Thền Thị C, anh Thền Duy T1, và anh Thền Duy T2 (Đều là con của bị hại). Do đó, cần buộc bị cáo Thền Chẩn M phải bồi thường cho ông Thền Chẩn H2, chị Thền Thị C, anh Thền Duy T1, và anh Thền Duy T2 mỗi người 43.376.000 đ (Bốn mươi ba triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn đồng).

Đi với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Thền Duy T2 và chị Ngô Thị N tự nguyện giúp bị cáo bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 16.496.000 đồng (Mười sáu triệu bốn trăm chín mươi sáu nghìn đồng). Anh T2 và chị N không có yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền trên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đi với những vật chứng gồm: 02 (hai) chiếc răng; 02(hai) mảnh xương;

01(Một) đoạn gỗ hình trụ, thẳng , khô, dài 66 cm, đường kính 3,5 cm; 01 (Một) đôi dép nhựa màu tím; 01 (Một) mũ chống nắng màu đen, hoa văn xanh - trắng – đỏ và 01(Một) con dao bằng kim loại, có chiều dài 39 cm, lưỡi dao có dạng lưỡi liềm, chiều dài 29 cm, mũi dao bị gãy; Mẫu tóc của Nguyễn Kiều O thu khi khám nghiệm hiện trường; mẫu tóc thu tại hiện trường; Mẫu máu thu tại hiện trường; Mẫu tóc thu giữ của Thền Chẩn M: Xét thấy đây là những vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo Thền Chẩn M bị kết án và phải bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại nên bị cáo M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Thền Chẩn M phạm tội “Giết người”.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, p, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 13 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Thền Chẩn M 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/02/2022.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 30 Bộ luật tố tụng Hình sự, Điều 591 Bộ luật dân sự:

Buộc bị cáo Thền Chẩn M phải bồi thường cho những người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Kiều O số tiền 190.000.000 đồng (Một trăm chín mươi triệu đồng). Xác nhận gia đình bị cáo đã bồi thường 16.496.000 đồng (Mười sáu triệu bốn trăm chín mươi sáu nghìn đồng). Buộc bị cáo Thền Chẩn M phải tiếp tục bồi thường cho những người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Kiều O số tiền còn lại là 173.504.000đ (Một trăm bảy mươi ba triệu năm trăm linh bốn nghìn đồng).

Quy phần cụ thể: Buộc bị cáo Thền Chẩn M bồi thường cho ông Thền Chẩn H2 43.376.000 đồng (Bốn mươi ba triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn đồng), chị Thền Thị Châu 43.376.000 đồng (Bốn mươi ba triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn đồng), anh Thền Duy Tiến 43.376.000 đồng (Bốn mươi ba triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn đồng), anh Thền Duy Thành 43.376.000 đồng (Bốn mươi ba triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 257 và Điều 468 của Bộ luật dân sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy:

- 02 (hai) chiếc răng;

- 02 (Hai) mảnh xương;

- 01(Một) đoạn gỗ hình trụ, thẳng, khô, dài 66 cm, đường kính 3,5 cm;

- 01 (Một) đôi dép nhựa màu tím;

- 01 (Một) mũ chống nắng màu đen, hoa văn xanh - trắng – đỏ;

- 01(Một) con dao bằng kim loại, có chiều dài 39 cm, lưỡi dao có dạng lưỡi liềm, chiều dài 29 cm, mũi dao bị gãy;

- Mẫu tóc của Nguyễn Kiều O thu khi khám nghiệm hiện trường;

- Mẫu tóc thu tại hiện trường;

- Mẫu máu thu tại hiện trường;

- Mẫu tóc thu giữ của Thền Chẩn M.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 38 ngày 11/5/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai với Cục thi hành án dân sự tỉnh Lào Cai).

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo Thền Chẩn M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 8.675.200 (Tám triệu sáu trăm bảy mươi lăm nghìn hai trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 33/2022/HS-ST

Số hiệu:33/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;