TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 396/2021/HSPT NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Vào ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 327/2021/TLPT-HS ngày 18 tháng 5 năm 2021 đối với cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2021/HS-ST ngày 13/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Các bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:
1. Nguyễn Văn K, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1998, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Nguyễn L và à Phạm Th T; Tiền án, tiền sự: Không; b tạm giữ ngày 25/8/2020, tạm giam ngày 03/9/2020, có mặt
2. Nguyễn L, sinh năm 1978, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Nuôi trồng thủy sản; Trình độ văn hóa: Không iết chữ; Con ông Nguyễn H (đã chết) và à Trần Th O; có vợ Phạm Th T và 04 con; Tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 25/8/2020, tạm giam ngày 03/9/2020, có mặt
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn K. Ông Hoàng Xuân T, luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế. Đ a chỉ: tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn L: Bà Nguyễn Anh T, luật sư, Công ty luật TNHH MTV Công K thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế. Đ a chỉ: tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt 1 - Bị hại: Anh Đoàn T, sinh năm 1983 (chết).
- Người đại diện hợp pháp của bị hại:
1. Ông Đoàn D, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Th H, sinh năm 1952 (cha mẹ ruột của hại). Cùng trú tại: tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt
2. Bà Nguyễn Th Kim P, sinh năm 1993 (vợ của hại). N i cư trú: tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Kim P: ông Bảo C luật sư văn phòng luật sư B thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế; đ a chỉ: tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Th T, sinh năm 1975. N i cư trú: tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ s vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 24/8/2020, Nguyễn Văn K dùng xe mô tô chở Nguyễn L (cha ruột của K) đến nhà ông Nguyễn Văn N ở xóm 19, thôn Đ, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế để nói chuyện về việc lấn chiếm hồ nuôi trồng thủy sản. Hai ên lời qua tiếng lại rồi xô xát với nhau, nhưng không xảy ra hậu quả gì. Sau đó, K chở L đi ra đến cuối xóm 19, gần nhà anh Đoàn T thì gặp anh Đoàn T ra chửi ới, dẫn đến hai ên gây gỗ nhau nhưng được mọi người can ngăn. K chở L ra cách nhà anh T 32 mét dừng lại, anh T đi theo và gây gỗ nhau thì được à Nguyễn Th H và à Huỳnh Th H1 can ngăn nên K chạy xe chậm, còn L đi ộ theo.
Anh T về nhà lấy 01 cái kéo dài 22 cm đuổi theo K thì K chạy xe đến xóm 18, thôn Đ, xã P, huyện P cách chỗ gây gổ lần hai với anh T khoảng 38 mét, L nghe có người la anh T cầm kéo chạy theo nên L nói K dừng xe để quay lại gây gổ với anh T. Khi L đứng đối diện với anh T khoảng 01 mét, anh T cầm kéo gi lên dọa “Tao đâm này, tao đâm này”. L thách lại “Mi đâm đi”. Cùng lúc, K đi tới dùng tay, chân quật anh T đập đầu xuống đường bê tông. L xông đến ngồi lên bụng anh T dùng tay trái bóp cổ, tay phải giữ tay đang cầm kéo, còn K dùng tay chân đấm, đá nhiều cái vào đầu anh T. Thấy vậy, à Nguyễn Th P đến can ngăn và kéo anh T ra. Mọi người đưa anh T đi cấp cứu tại ệnh viên Trung ương Huế đến 11 giờ 35 phút ngày 25/8/2020 anh T chết.
Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 206-20/TT ngày 31/8/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế đã kết luận nguyên nhân chết của anh Đoàn T như sau:
Nạn nhân chết ngay sau chấn thương.
Chuẩn đoán pháp y: đa chấn thương, chấn thương sọ não nặng xuất huyết não gây tử vong.
Các chấn thương trên cơ thể là do vật lộn chà xát với vật tày nhám gây nên vết thương vùng trán là do tác động lực trực tiếp với vật tày cứng và có răm nhỏ tạo nên.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm 24/2021/HS-ST ngày 13/4/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quyế định:
Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm , s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 17, Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt cáo Nguyễn Văn K 11 (mười một) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ 25/8/2020.
Xử phạt cáo Nguyễn L 07 ( bảy) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ 25/8/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 26/4/2021, các cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L có đơn kháng cáo cho rằng bản án sơ thẩm xử mức án nặng xin giảm nhẹ.
- Ngày 19/4/2021, bà Nguyễn Th Kim P là người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn kháng cáo cho rằng các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L chưa thanh toán tiền cấp dưỡng nuôi con theo bản án sơ thẩm đã tuyên nên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L đều giữ nguyên yêu cầu kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử mức án nặng, xin giảm nhẹ hình phạt. Tại đơn kháng cáo của bà Nguyễn Th Kim P là người đại diện hợp pháp của bị hại cho rằng, các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L chưa thanh toán tiền trợ cấp nuôi con như bản án sơ thẩm đã tuyên nên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn L và kháng cáo của bà Nguyễn Th Kim P là người đại diện hợp pháp của bị hại, giữ nguyên án sơ thẩm. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn K, sửa bản án sơ thẩm giảm hình phạt cho bị cáo.
Lời bào chữa của các luật sư cho các cáo Nguyễn Văn khánh, Nguyễn L nhất trí về phần tội danh và khung hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng để xét xử đối với các cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L. Các luật sư đều cho rằng người bị hại cũng có một phần lỗi, sau khi xử sơ thẩm đã bồi thường toàn bộ số tiền 264.000.000 đồng cho gia đình hại và nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế số tiền 42.000.000 đồng để bồi thường tiền cấp dưỡng cho con của bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các cáo, giảm cho các cáo một phần hình phạt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình hại cho rằng gia đình hại có đơn kháng cáo về phần dân sự, yêu cầu các bị cáo thực hiện nghĩa vụ bồi thường tiền cấp dưỡng mà bản án sơ thẩm đã tuyên, xác nhận gia đình hại đã nhận khoản tiền trên và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về phần thủ tục tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm bà Nguyễn Th Kim P là người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn kháng cáo cho rằng các cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L chưa thanh toán tiền cấp dưỡng nuôi con theo bản án sơ thẩm đã tuyên nên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết. Đại diện VKSND cấp cao tại Đà Nẵng, các luật sư bào chữa cho các bị cáo và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình hại đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử thấy nội dung kháng cáo của bà P chỉ yêu cầu các bị cáo thực hiện nghĩa vụ bồi thường, việc vắng mặt của bà P không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cao tại Đà Nẵng và các luật sư, căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng Hình sự Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L đã khai nhận tội, đối chiếu thấy phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 24/8/2020, tại thôn Đ, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ với người bị hại anh Đoàn T mà Nguyễn Văn K đã quật ngã anh T xuống đường, Nguyễn L ngồi trên bụng và bóp cổ anh T, K dùng tay chân đấm đá nhiều cái vào đầu anh T dẫn đến anh T chết.
Hành vi nêu trên của các cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L đã Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Bản án sơ thẩm đánh giá đúng tính chất của vụ án, mức độ phạm tội của từng bị cáo, đồng thời xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho các cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L như: Các cáo có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự; thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình người bị hại. Trong vụ án này người bị hại cũng có một phần lỗi và xử phạt Nguyễn Văn K 11 năm tù, Nguyễn L 07 năm tù là hoàn toàn phù hợp. Sau khi xử sơ thẩm các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ số tiền 264.000.000 đồng mà bản án sơ thẩm đã tuyên cho gia đình hại do bà Nguyễn Th Kim P nhận được thể hiện tại đơn kháng cáo ngày 19/4/2021 của bà P đồng thời gia đình các bị cáo đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế số tiền 42.000.000 đồng để bồi thường tiền cấp dưỡng nuôi con cho gia đình bị hại. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới. Nhưng xét, đối với bị cáo Nguyễn L Tòa án cấp sơ thẩm xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định và ở mức khởi điểm của khoản 2 Điều 123 BLHS là đã chiếu cố giảm nhẹ nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn L cũng như lời bào chữa của luật sư cho cáo và giữ nguyên án sơ thẩm. Đối với bị cáo Nguyễn Văn K có cơ sở nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, lời bào chữa của luật sư cho cáo cũng như quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giảm cho bị cáo K một phần hình phạt.
[3] Đối với bà Nguyễn Th Kim P kháng cáo yêu cầu các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L phải thanh toán tiền trợ cấp nuôi con như bản sơ thẩm đã tuyên thì khi bản án có hiệu lực pháp luật bà P làm đơn yêu cầu thi hành án gửi Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế để được thi hành nên không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Th Kim P và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên cáo Nguyễn Văn K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên không xét.
Vì cá lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 BLTTHS
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn L và kháng cáo của bà Nguyễn Th Kim P là người đại diện hợp pháp của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn L phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 BLHS.
Xử phạt:
- Nguyễn Văn K 10 (mười) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/8/2020.
- Nguyễn L 07 (bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/8/2020.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn L chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Nguyễn Văn K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị .
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội giết người số 396/2021/HSPT
Số hiệu: | 396/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về