Bản án về tội giết người số 299/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 299/2022/HS-PT NGÀY 12/05/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 12/5/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 141/2022/TLPT- HS ngày 24 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Thái A do có kháng cáo của bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 05/2022/HS-ST ngày 19-01-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.

- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

Nguyễn Thái A (Mười), sinh ngày 01 tháng 01 năm 1971 tại tỉnh Tiền Giang; Nơi cư trú: ấp B, xã BP, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Làm vườn; Trình độ văn hóa: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1926 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1928 (chết); Vợ: Nguyễn Thanh Th1, sinh năm 1974 và 01 con sinh năm 1998; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 18/11/2020, chuyển tạm giam từ ngày 27/11/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Trọng N - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

- Người bị hại: Lê Thị Kim C, sinh năm 1978 (chết)

- Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

1. Trần Thị N, sinh năm 1942.

Địa chỉ: Ấp 6, xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.

2. Lê Hoàng V, sinh năm 1977. (Có mặt)

3. Lê Hoàng P, sinh ngày 24/12/2007.

- Người đại diện hợp pháp của cháu Phúc: Ông Lê Hoàng V, sinh năm 1977. (có mặt)

4. Lê Hoàng Anh Th2, sinh năm 2002.

Cùng địa chỉ: số X đường T, Phường 16, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Thanh Th3, sinh năm 1974

Địa chỉ: ấp B, xã BP, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào năm 2017, chị Lê Thị Kim C, sinh năm 1978 và chồng là Lê Hoàng vt, sinh năm 1977, cùng ngụ Phường 16, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh có mua vườn và cất căn nhà trong vườn để trồng cây tại ấp Ông Non, xã Tân Trung, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Năm 2018 do quen biết bị cáo Nguyễn Thái A nên vợ chồng C thỏa thuận nhờ An chăm sóc vườn, hỗ trợ kỹ thuật để Ca lợi nhuận. Theo An trình bày, thời điểm này An và C nảy sinh tình cảm với nhau.

Khoảng 08 giờ ngày 17/11/2020 chị C đi xe mô tô biển số 54L5-6016 từ nhà đến thăm vườn ở ấp Ông Non, xã Tân Trung, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Đến khoảng 10 giờ 05 phút cùng ngày, anh Huỳnh Ngọc Tân, sinh năm 1979, cư trú phường An Lạc, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh là bạn của vợ chồng C, đến phụ chị C tưới cây. Khoảng 12 giờ 20 phút cùng ngày, An biết C về thăm vườn nên đi xe mô tô hiệu Future biển số 63B4-281.01 và mua 02 ly chè đến thì gặp C và Tân. C lấy một ly chè Ca cho Tân và C cùng ăn, Tân ăn chè xong thì ra vườn cách nhà khoảng 150 mét tưới cây. Khoảng 13 giờ 30 cùng ngày, trong nhà chỉ còn An và C, giữa An và C có lời qua tiếng lại với nhau, An tỏ thái độ ghen tức, không thích Tân đến đây và tưới cây trong vườn của C, lúc này chị C đang đứng đối diện với An nên An lấy 01 con dao nhọn (loại dao Thái Lan) để trong ống đựng dao treo trên vách nhà đâm 11 nhát vào người chị C làm chị C gục xuống, An đi ra ngoài nhà vứt con dao về phía mương nước và gọi Tân vào đưa C đi Bệnh viện cấp cứu nhưng Tân không nghe An gọi, An chạy xe mô tô 63B4-281.01 đi về, trên đường về nhà An ghé vào Cửa hàng vật tư nông nghiệp Hải Nguyên ở Khu 3, thị trấn Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang mua 01 chai thuốc trừ có hiệu GLYPHADEX 360SL uống tự vẫn nhưng được gia đình phát hiện đưa đi Bệnh viện cấp cứu và điều trị kịp thời.

Khoảng 14 giờ 10 phút cùng ngày, anh Tân tưới cây xong trở vào nhà thì phát hiện chị C nằm dưới mương nước, Tân liền xuống đưa C lên bờ và truy hô cho nhiều người đến cấp cứu nhưng chị C đã chết trước đó.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường ghi nhận: Hiện trường xảy ra vụ án giết người, tại vườn trồng cây của Lê Thị Kim C ở ấp Ông Non, xã Tân Trung, thị xã Gò Công, Tiền Giang. Hướng Tây, Nam, Bắc tiếp giáp ruộng lúa người dân, hướng Bắc cách 150 mét là đường Sơn Qui B. Hướng Đông tiếp giáp với đường bờ ruộng trải đan rộng trung bình 0,5 mét chạy theo hướng Bắc- Nam, kế tiếp là ruộng lúa.

Khu vườn của chị Lê Thị Kim C rộng 7000 m2, Ca thành 03 liếp trồng cây hướng Bắc - Nam, giữa các liếp và xung quanh các liếp là mương nước bao quanh, kế tiếp bao quanh bên ngoài là đê bao đất trồng nhiều cây ăn quả. Xung quanh khu vườn được bao bọc hàng rào lưới kẽm B40, cột xi măng, cửa rào một cánh kim loại mở trong, quay về hướng Đông sát góc Đông- Bắc khu vườn. Từ cổng về hướng Tây 05 mét là căn nhà giữ vườn, nhà có cửa chính quay về hướng Đông, với mái tôn vách tôn, cột gỗ, kèo gỗ, nền đất, kích thước (4,2 x 2,5) mét, cửa khung kim loại vừng tôn, mở trong. Bên trong nhà có kê bàn, ghế, giường ngủ gỗ (1,8 x 1,26) mét, cao 0,5 mét, lót sạp vạc tre, có nhiều vật dụng làm vườn, đồ sinh hoạt và 01 ly chè, loại ly nhựa đã ăn dở.

Từ góc Đông Nam nhà giữ vườn đi về hướng Đông Nam 5,4 mét phát hiện 01 con dao kim loại, cán gỗ dài 23 cm, phần cán dài 12 cm, phần lưỡi dài 11 cm, mũi nhọn, rộng 02 cm nằm trên mặt đất, lưỡi dao quay hướng Đông, kiểm tra dao thấy phần lưỡi dao bị cong, phần cán gỗ dính vết màu nâu, đã khô, mới, nghi máu. Cách hàng rào lưới B40 về hướng Đông 1,7 mét, cạnh dao về hướng Tây là 01 khẩu trang màu đỏ, in hình con mèo trắng, mặt trong khẩu trang màu tím, kích thước (21 x 13) cm, còn ướt, dính nhiều bùn đất. Bên dưới và xung quanh con dao phát hiện 02 vết màu nâu đỏ đã khô, mới, vết thứ nhất kích thước (1,5 x 1) cm nằm dưới con dao, vết thứ hai kích thước (9 x 5) cm nằm cạnh hướng Tây Bắc con dao, hai vết cách nhau 17 cm. Từ vết thứ 02 về hướng Tây 0,6 mét mé bờ mương phát hiện vết màu nâu đỏ thứ 3 nghi máu đã khô, mới, kích thước (1,5 x 1) cm dính trên nền đất mé mương. Từ vị trí phát hiện con dao xuống mé mương về hướng Tây phát hiện nhiều vết hằn lún dạng bàn chân người, còn mới. Từ vị trí con dao đi về hướng Bắc 2,3 mét là xe mô tô 02 bánh hiệu AIR BLADE màu đỏ, biển số 54 L5-6016 đang dựng chống, đầu xe quay về hướng Bắc, đuôi xe hướng Nam, trên xe có 02 mũ bảo hiểm, chìa khóa xe còn cắm trên ổ khóa xe. Từ xe này về hướng Bắc 1,6 mét là vị trí tử thi Lê Thị Kim C nằm trên mặt đất, tư thế nằm ngữa, đầu quay hướng Bắc, hai tay dang rộng, hai chân quay hướng Nam, co đầu gối, mặc áo thun ngắn tay, màu hồng chữ “PARIS”, mặc quần dài thun đen, hai bàn chân mang vớ đen, hai bàn tay mang bao tay, quần áo đều còn ướt, dính nhiều bùn đất, bên ngoài mặc áo khoát màu nâu dài tay. Trên người tử thi có đeo nhiều trang sức kim loại màu vàng, trắng ở cổ, hai tai, cổ tay và ngón tay trái. Kiểm tra trên áo phát hiện nhiều vết rách nằm rải rác mặt trước áo. Từ tử thi đi về hướng Đông Bắc 3,95 mét phát hiện 01 cái kéo kim loại, cán bọc cao su đen, kéo có chiều dài 24 cm, phần lưỡi dài 15 cm, mũi nhọn, phần rộng nhất 03 cm, nằm trên thân cây lúa, cách mép bờ ruộng về hướng Tây 0,4 mét.

* Kết quả khám nghiệm tử thi Lê Thị Kim C, ghi nhận:

* Khám ngoài:

- Chiều dài tử thi là 1 mét 53, mặc áo khoát ngoài màu nâu dài tay, bên trong mặc áo thun ngắn tay màu hồng có chữ “Paris”, có 07 vết rách sắc gọn, mặc quần thun đen có sọc hai bên, màu đỏ trắng, tay mang bao tay màu xám, chân mang vớ đen, áo ngực màu đỏ.

- Vết thương thứ nhất: Vùng ngực phải trên núm vú, khoảng xương sườn IV-V, kích thước (1,6 x1) cm, vết thương sắc gọn hình ô van.

- Vết thương thứ hai: Nằm ở hạ sườn phải, kích thước (1,8 x 0,4) cm sâu vào trong bụng, vết thương sắc gọn.

- Vết thương thứ ba: Cách dưới vết thương thứ hai 05 cm, kích thước (1,6 x 0,3) cm, sâu vào bụng, vết thương sắc gọn.

- Vết thương thứ tư: Cách vết thương thứ ba 1,4 cm, cách rốn 05 cm, kích thước (1,5 x 0,6) cm, vết thương sắc gọn.

- Vết thương thứ năm: Hông lưng phải cách gai chậu trước trên bên phải 11 cm, cách rốn 20 cm, kích thước (1,5 x 0,4 ) cm sâu vào trong, vết thương sắc gọn.

- Vết thương thứ sáu: Vùng ngực trái, khoang liên sườn IV-V đường nách giữa, cách xương đòn trái 13,5 cm, cách đường giữa xương ức 16 cm, kích thước (2 x 0,5) cm sâu vào trong, vết thương sắc gọn.

- Vết thương thứ bảy: nằm ở hạ sườn trái, kích thước (1,6 x 0,4) cm, sâu vào trong bụng, vết thương sắc gọn.

- Vết thương thứ tám: Nằm ở hố chậu trái, kích thước (1,4 x 0,3) cm, vết thương sắc gọn.

- Vết thương thứ chín: Nằm ở 1/3 giữa trước đùi trái, kích thước (1,5 x 0,5) cm, sâu vào trong đùi 03 cm, vết thương sắc gọn.

- Vết thương thứ mười: Nằm ở 1/3 dưới ngoài đùi trái, cách vết thứ chín 06 cm, kích thước (1,8 x 0,7) cm, vết thương sắc gọn.

- Vết thương thứ 11: Nằm ở 1/3 dưới sau cẳng tay trái, kích thước(1,5 x 0,5) cm, sâu 2,5 cm, vết thương sắc gọn.

* Khám trong:

- Đầu: xương hộp sọ nguyên vẹn, não không tổn thương.

- Tụ máu dưới da cơ ngực phải, kích thước (9 x 8) cm, một vết thấu ngực.

Vết thương đứt đầu xương sụn II bên phải, thấu phổi phải thùy trên bờ trong, kích thước (1,2 x 0,3) cm sâu 4 cm.

- Tràn máu khoang màng phổi phải, lượng máu khoảng 01 lít máu loãng và máu cục.

- Mổ mô phổi trái: có dịch hồng lẫn bọt khí, mô phổi bên phải bình thường; Mổ khí quản có dịch bọt khí.

- Tụ máu dưới da, cơ vùng bụng, có 02 vết thương thấu bụng, máu ổ bụng khoảng 1,5 lít.

- Thủng mặt trước dạ dày 02 lỗ cách nhau 2,5 cm, mỗi vết kích thước (1,4 x 0,5) cm và (2 x 0,8) cm, lòi thức ăn. Thủng đại mạc, tụ máu đại mạc

- Vết thương bụng trái thủng đại mạc trái, kích thước (1 x 0,5) cm, thủng xuyên thấu ruột non 02 lỗ và mặt trước 01 cm, mặt sau 0,2 cm.

- Tụ máu hố thận phải, đứt cực dưới trong thận phải, kích thước 03 cm. Tụ máu quanh thận trái; vết thương thủng gan phải, kích thước (2,5 x 0,2) cm, sâu 3,2 cm, xuyên thấu gan đến thủng dạ dày.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: số 330/2020/TTh ngày 17/11/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang, kết luận: Nguyên nhân tử vong tử thi Lê Thị Kim C: Đa thương. Mất máu cấp do thủng phổi, gan, thận, dạ dày, ruột non + Ngạt nước.

* Tại bản kết luận giám định số 742/C09B ngày 08/02/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Dấu vết dính trên con dao (ký hiệu M1) và 03 dấu vết nghi máu thu tại hiện trường (ký hiệu M2, M3, M4) gửi đến giám định là máu người. Kiểu gen của các mẫu máu này trùng với kiểu gen của Lê Thị Kim C.

* Vật chứng thu giữ gồm:

+ 01 xe mô tô hiệu Future biển số 63B4-281.01;

+ 01 con dao (loại dao Thái Lan) dài 23 cm, phần cán bằng gỗ dài 12 cm, phần lưỡi bằng kim loại dài 11 cm, rộng 02 cm, mũi nhọn (phần lưỡi bị cong);

+ 01 khẩu trang màu đỏ hình mèo;

+ 01 cái kéo kim loại, cán bọc cao su màu đen;

+ 01 USB chứa đoạn Video (clip);

+ 01 USB hiệu San Disk bên trong có đoạn ghi âm cuộc gọi tên file- 20201215-175656;

+ 01 chai thuốc trừ có hiệu GLYPHADEX 360SL, thể tích 01 lít, bên trong còn nước;

+ 01 áo thun ngắn tay sọc ngang màu xanh đen trắng, túi áo có chữ A&F;

+ 01 quần Jean dài màu xanh, sau túi quần phải có chữ SINOMAL-DC .

* Xử lý vật chứng: Ngày 03/02/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Tiền Giang đã xử lý giao trả 01 xe Future biển số 63 B4-281.01 cho chị Nguyễn Thanh Thương là vợ bị cáo.

* Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện hợp pháp của bị hại anh Lê Hoàng V thỏa thuận với chị Nguyễn Thanh Th3, anh V đã nhận tiền bồi thường C phí mai táng là 92.824.000 đồng. Riêng, tiền tổn thất tinh thần và tiền trợ cấp nuôi cháu Lê Hoàng Ph, sinh ngày 24/12/2007 đến 18 tuổi, anh V sẽ có yêu cầu cụ thể khi ra Tòa xét xử vụ án.

Tại bản cáo trạng số 10/CT-VKSTG-P2 ngày 07 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Thái A về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm s: 05/2022/HS-ST ngày 19-01-2022, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã tuyên xử:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thái A 18 (mười tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tạm giữ là ngày 18/11/2020.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng; trách nhiệm dân sự; án phí; quyền kháng cáo.

Ngày 31-01- 2022, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 25-01- 2022, đại diện hợp pháp của người bị hại - ông Lê Hoàng V kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện hợp pháp người bị hại - ông Lê Hoàng V đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm tăng mức án đối với bị cáo An vì hành vi của bị cáo đâm người bị hại 11 nhát là quá tàn bạo, Tòa sơ thẩm xử mức án quá nhẹ, chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, xin Hội đồng xét xử giảm án cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Bị cáo An do ghen tức mà phạm tội, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự, đã tác động gia đình bồi thường khắc phục một phần hậu quả cho bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử điểm b, S khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát: Án sơ thẩm tuyên xử bị cáo Nguyễn Thái A tội danh “Giết người” là đúng người đúng tội, hành vi của bị cáo có tính côn đồ, thực hiện tội phạm đến cùng để tước đi mạng sống của con người được pháp luật bảo vệ. Mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ đã nhận định ở bản án sơ thẩm nhưng mức phạt 18 năm tù là quá nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại, áp dụng hình phạt tù chung thân đối với bị cáo; bác kháng cáo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về sự tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự:

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử: cấp sơ thẩm đã tuân thủ đúng quy định Bộ luật tố tụng hình sự.

Đơn kháng cáo của bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại đúng hạn, nội dung kháng cáo trong phạm vi xét xử phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại:

[2.1] Xét hành vi, tội danh:

Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo phát sinh từ sự ghen tuông vô lý của bị cáo mà bị cáo thực hiện hành vi dùng con dao Thái Lan đâm 11 nhát dao vào vùng ngực, bụng, đùi, cẳng tay của người bị hại, trong đó có nhiều nhát nhằm vào vùng trọng yếu trên cơ thể, dẫn đến hậu quả người bị hại chết do mất máu cấp do thủng phổi, gan, thận, dạ dày, ruột non, ngạt nước.

Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Giết người” được quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự.

[2.2] Xét tính chất nguy hiểm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo đâm 11 nhát liên tục và quyết liệt thể hiện ý chí thực hiện tội phạm đến cùng. Xét, hành vi của bị cáo có tính chất côn đồ là tình tiết định khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự, đã tác động gia đình bồi thường khắc phục một phần hậu quả cho bị hại nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm, đã xâm phạm đến tính mạng của con người được pháp luật bảo vệ, gây nên nỗi đau mất mát cho người thân của bị hại, gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương, thể hiện bị cáo có ý thức xem thường pháp luật, cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt thật nghiêm khắc. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 18 năm tù là chưa tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả của hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo về yêu cầu tăng mức hình phạt đối với bị cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại; không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo cũng như lời bào chữa của luật sư.

Đề nghị áp dụng hình phạt tù chung thân đối với bị cáo An của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, được chấp nhận.

[3] Các nội dung không bị kháng cáo Hội đồng xét xử không xét.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do không được chấp nhận kháng cáo.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 355 và Khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự,

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại - ông Lê Hoàng V.

Sửa bản án số: 05/2022/HS-ST ngày 19-01-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thái A phạm tội “Giết người”.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, các điểm b, S khoản 1 Điều 51, Điều 39, Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thái A tù chung thân, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tạm giữ là ngày 18/11/2020.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm được giữ nguyên.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

617
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 299/2022/HS-PT

Số hiệu:299/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;