Bản án về tội giết người số 154/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 154/2022/HS-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 20 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 67/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 04 năm 2022 đối với các bị cáo:

Họ và tên: Đặng Văn H sinh năm 1959; Nơi đăng ký thường trú: Thôn X, xã VN, huyện PT, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 05/10; Giới tính: Nam; Dân Tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Văn X (đã chết) và bà Doãn Thị T (đã chết); Anh, chị, em ruột: Có 05 người, bị cáo là con thứ ba; Vợ là Phùng Thị T sinh năm 1959 và có 04 con, lớn sinh năm 1981, nhỏ sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 16/6/2021; Tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo: Luật sư Lưu Thị Ngọc L – Văn phòng luật sư Hà L và Cộng Sự – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Người bị hại:

Ông Đặng Quang H1 sinh năm 1953, Nơi cư trú: Thôn X, xã VN, huyện PT, thành phố Hà Nội. Có mặt.

Bà Đỗ Thị T, sinh năm 1958, Nơi cư trú: Thôn X, xã VN, huyện PT, thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Người làm chứng:

Anh Đặng Anh T sinh năm 1983, Nơi cư trú: Thôn X, xã VN, huyện PT, thành phố Hà Nội. Có mặt.

Anh Trần Văn Th, sinh năm 1976, Nơi cư trú: Thôn X, xã VN, huyện PT, thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Văn H (sinh năm 1959) và ông Đặng Quang H1 (sinh năm 1953) có quan hệ là anh em ruột; hai gia đình ở cạnh nhau tại thôn X, xã VN, huyện PT, thành phố Hà Nội. Do có nhu cầu xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Đặng Anh T (sinh năm 1983, là con trai của ông H1) nên sáng ngày 16/6/2021, ông H1 mời người đến đo thửa đất ở đầu ngõ lối đi chung vào nhà H và nhà ông H1. Khoảng 11 giờ cùng ngày, khi H đi làm ruộng về nhà thì được bà Phùng Thị T (thường gọi là Hương, sinh năm 1959; là vợ của H) kể cho biết việc nhà ông H1 mời người đến đo đất làm sổ đỏ nhưng đo cả phần lối đi chung vào nhà H. H nghĩ ông H1 có ý định lấn chiếm đường đi chung giữa hai nhà nên đi sang nhà ông H1 để hỏi rõ. Khi gặp ông H1 đang phơi rơm ở trước cổng nhà, H tiến tới nói: “Tôi đang muốn gặp ông đây, ông đo đất không báo tôi, ông đo hết cả đường đi chung vào đất nhà ông thì sau này con cháu tôi phải đóng thuế mới được đi lại chứ gì”. Ông H1 đáp trả: “Ông chửi ai đấy, đất bố mẹ chia ai cũng có mộ có phần rồi chứ ai lấy được của ai mà ông chửi”. Dẫn đến giữa H và ông H1 đã xảy ra cãi vã. Lúc này, anh Đặng Anh Tuấn đi làm về thấy ông H1 đang cãi nhau với H về chuyện tranh chấp đất nên đập mũ bảo hiểm xuống đất và nói với H: “Suốt ngày đất với cát, mệt hết cả người”. Thấy vậy, H bực tức nên bỏ về nhà. Anh T đi sang cổng nhà H, vừa đi vừa nói: “Chúng mày ra đánh tao đây này, bố tao già rồi để bố tao yên”. Bức xúc vì thấy anh T là cháu mà có thái độ hỗn láo nên H lấy 01 con dao (loại dao bầu, dài 35cm, mũi nhọn, 01 lưỡi sắc) để ở gầm bàn uống nước rồi giấu vào trong cạp quần phía hông trái với mục đích ra đánh nhau với anh T. Khi H đi ra cổng thì anh T đã đi về nhà. Lúc này, H thấy ông H1 đang đứng phơi rơm trước cổng, nên nói: “Ông không dạy được con ông, nó hỗn với tôi, thách thức tôi”. Ông H1 trả lời: “Đấy là việc của nó, tao không biết”. Bực tức vì nghĩ gia đình ông H1 muốn lấn chiếm đất đường đi chung và còn để cho anh Tuấn hỗn láo với mình nên H tiến tới, dùng tay phải rút con dao từ trong cạp quần ra đâm 01 nhát vào cánh tay trái, 01 nhát vào mạn sườn bên trái của ông H1, rồi đẩy ông H1 vào phía trong cổng. Khi ở tư thế đứng đối diện, H tiếp tục dùng dao chém 01 nhát vào vùng thái dương bên trái và đâm tiếp 01 nhát vào vùng ngực trái, 01 nhát vào vùng ngực phải của ông H1. Thấy vậy, bà Đỗ Thị T (sinh năm 1959; là vợ ông H1) từ trong nhà chạy ra can ngăn, ôm giữ tay H không để H tiếp tục đâm chém ông H1. Quá trình giằng co với bà T, H vung dao và chém 01 nhát vào thái dương trái của bà T. Thấy thái độ của H vẫn còn hung hăng nên anh Đặng Anh T chạy vào bếp lấy 01 con dao (loại dạo dựa, dài 38cm, mũi bằng, 01 lưỡi sắc) với mục đích ngăn cản H không cho đâm chém ông H1 và bà T. Cùng lúc này, anh Trần Văn T (sinh năm 1976; là hàng xóm) chạy đến ôm H can ngăn, giật lấy con dao của H vứt ra khu vườn gần đó. Ngay lúc đó, anh T chạy tới phía sau H, xoay ngang dao và đập bản dao 01 nhát vào đầu H, làm H bị đau nên bỏ chạy về nhà. Sau đó, ông H1 được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Quân Y 105 và Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức. Do được cấp cứu kịp thời nên ông H1 đã không tử vong.

Đến 14 giờ ngày 16/6/2021, bị cáo Đặng Văn H đến Công an huyện Phúc Thọ đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.

Nhận được tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phúc Thọ đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu thập dấu vết, chứng cứ, kết quả như sau:

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường hổi 12 giờ ngày 16/6/2021 do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phúc Thọ thực hiện, xác định:

“... Hiện trường được xác định là nhà ông Đặng Quang H1 (sinh năm 1953; trú tại thôn X, VN, PT, Hà Nội). Hiện trường được xác định có hướng Bắc giáp nhà ông Doãn Văn K, hướng Nam giáp nhà Đặng Văn H, hướng Tây giáp nhà ông Đặng Văn Hải, hướng Đông giáp nhà ông Bùi Văn Tiến.” Ngày 06/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội đã tiến hành cho bị can Đặng Văn H thực nghiệm điều tra để diễn tả lại hành vi dùng dao bầu đâm ông Đặng Quang H1 chém bà Đỗ Thị T. Kết quả việc thực nghiệm điều tra là hoàn toàn phù hợp với diễn biến của vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Văn H.

Quá trình khám nghiệm hiện trường và điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ những đồ vật, tài sản tại Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu ngày 16/6/2021.

Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 5179/C09-TT1 ngày 21/6/2021 của Viện KH học Hình sự - Bộ Công an về thương tích của ông Đặng Quang H1” và tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 6606/C09-TT1 ngày 07/9/2021 của Viện kH học hình sự - Bộ Công an, giám định bổ sung về thương tích của ông Đặng Quang H1, kết luận:

“2.1. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể bổ sung Đối chiếu Bảng 1-Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể cho từng thương tích như sau:

- Sẹo vùng trán –Thái Dương –Đỉnh trái, kích thước trung bình, không có di chứng chấn thương sọ não: 02% - Sẹo vùng đỉnh chẩm trái, kích thước nhỏ, không có di chứng chấn thương sọ não: 01% - Sẹo gò má trái, kích thước nhỏ, không ảnh hưởng chức năng: 03% - Sẹo vết thương vùng ngực phải, kích thước trung bình: 02% - Sẹo phẫu thuật dẫn lưu khoang màng phổi vùng ngực phải, kích thước nhỏ:

01% 01% - Sẹo vết thương vùng ngực trái, kích thước trung bình: 02% - Sẹo phẫu thuật dẫn lưu khoang màng phổi vùng ngực trái, kích thước nhỏ:

- Sẹo vết thương vùng mạn sườn trái, kích thước trung bình: 02% -Sẹo vết thương mặt trước tay trái, kích thước trung bình: 02% - Sẹo vết thương mặt sau ngoài tay trái, kích thước trung bình: 02% - Tổn thương khoang màng phổi hai bên đã phẫu thuật, không để lại di chứng:

mỗi bên 03% - Gãy xương sườn 2,3 bên phải, gãy xương sườn 8,9,10 bên trái: Mỗi xương 02% - Đứt động mạch cánh tay trái đã phẫu thuật ghép nối bằng tĩnh mạch hiển đùi phải, kết quả tốt (bao gồm cả sẹo phẫu thuật lấy tĩnh mạch hiển vùng bẹn đùi phải:

15% - Đứt các tĩnh mạch cánh tay trái, đã phẫu thuật khâu nối bằng tĩnh mạch hiển đùi phải: 5% - Tổn thương không hoàn toàn dây thần kinh giữa tay trái: 21% - Tổn thương bán phần thần kinh quay tay trái, đã khâu nối: 26% Áp dụng phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế, xác định tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của ông Đặng Quang H1 tại thời điểm giám định là 67%.

2.2. Cơ chế hình thành thương tích: Các thương tích của ông Đặng Quang H1 do vật sắc hoặc sắc nhọn gây ra”.

- Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 6607/C09-TT1 ngày 24/8/2021 của Viện KH học Hình sự - Bộ Công an về thương tích của bà Đỗ Thị Tuất, kết luận:

“2.1. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể: Đối chiếu Bảng 1, tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích ban hành kèm theo Thông tư số: 22/2019/TT- BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế, áp dụng nguyên tắc 1 và mục I.2. Chương, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể đối với sẹo vùng thái dương trái kích thước trung bình, không có di chứng chấn thương sọ não của bà Đỗ Thị T tại thời điểm giám định là: 02%.

2.2. Cơ chế hình thành thương tích: Thương tích vùng thái dương trái có bà Đỗ Thị Tuất do vật sắc gây ra”.

Tại bản kết luận giám định số 6114/C09-TT3 ngày 16/8/2021 của Viện KH học Hình sự - Bộ Công an giám định dấu vết trên con dao thu tại hiện trường, kết luận: “... Trên phần lưỡi dao và chuôi dao của con dao (dạng dao bầu) gửi giám định đều bám dính dấu vết máu người và đều là máu của ông Đặng Quang H1”.

Đối với việc Đặng Anh T dùng bản dao đập vào đầu Đặng Văn H chỉ bị xây sát da, mục đích để ngăn cản việc H dùng hung khí đâm chém ông H1 và bà T. Sau khi thấy anh Trần Văn T đã giật được dao của H thì anh T tự dừng lại không tiếp tục đánh H nữa. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã quyết định trưng cầu giám tỷ lệ thương tích của Đặng Văn H do anh T gây ra nhưng bị cáo H từ chối giám định và không đề nghị xử lý đối với hành vi trên của T, về dân sự H không đề nghị bồi thường. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh Tuấn.

Bản Cáo trạng số 69/CT-VKS– P2 ngày 28/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Đặng Văn H về “Tội giết người” theo điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đặng Văn H theo tội danh và điều luật như bản Cáo trạng đã công bố; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15, Điều 57, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Đặng Văn H từ 14 (Mười bốn) năm đến 15 (Mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 16/6/2021.

- Bị cáo công nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mục đích không giết người mà chỉ là dùng dao tấn công trong lúc bực tức, nóng giận, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo cũng công nhận cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh là có căn cứ, đúng pháp luật. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội đã đầu thú. Bị cáo trình độ học vấn 5/10, nhận thức pháp luật hạn chế, gia cảnh bị cáo khó khăn; Bị cáo hiện nay đã 63 tuổi, sức khoẻ yếu. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người bị hại ông Đặng Quang H1 và bà Đỗ Thị T trình bày: công nhận những nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhận dân thành phố Hà Nội là đúng với diễn biến thực tế khách quan. Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý nghiêm minh theo pháp luật, tuy nhiên người bị hại cũng xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: người bị hại trình bày gia cảnh của bị cáo khó khăn, lại là em ruột của mình nên không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự.

- Người làm chứng anh Đặng Anh T và anh Trần Văn T đều khẳng định chứng kiến bị cáo có hành vi tấn công ông H1, bà T như Cáo trạng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo và Luật sư bào chữa cho các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt:

- Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra; đối chiếu với lời khai của các bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ, Bản kết luận giám định pháp y thương tích và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, cũng như quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do có tranh chấp về phần đất là lối đi chung ở tại thôn 3, xã Vân Nam, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội giữa gia đình bị cáo Đặng Văn H và gia đình ông Đặng Quang H1 (là anh ruột của bị cáo) nên đã phát sinh mâu thuẫn, cãi chửi nhau. Khoảng 11 giờ ngày 16/6/2021, bị cáo Đặng Văn H do bực tức, không kìm chế được bản thân nên đã dùng dao bầu tấn công liên tiếp 01 nhát vào cánh tay trái, 01 nhát vào mạn sườn bên trái, chém 01 nhát vùng thái dương bên trái, đâm 01 nhát vào ngực trái, đâm 01 nhát vào ngực phải của ông Đặng Quang H1. Khi bà Đỗ Thị T (là vợ ông H1) chạy ra ôm giữ H để can ngăn, H vung dao chém 01 nhát vào vùng thái dương bên trái bà Tuất thì được anh Trần Văn T can ngăn, lấy dao của H. Do được cấp cứu kịp thời nên ông Đặng Quang H1 và bà Đỗ Thị T đã không tử vong. Hậu quả ông H1 bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 67%, bà Tuất bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 02%.

Hành vi nêu trên của bị cáo Đặng Văn H đã phạm “Tội giết người" với 02 tình tiết tăng nặng định khung “Giết 02 người trở lên” và “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã viện dẫn để truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội; nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Văn H có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt nghiêm trọng; hành vi đó đã xâm phạm sức khỏe, tính mạng của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội nghiêm trọng tại địa phương. Bị cáo và bị hại còn có quan hệ là anh em ruột nhưng vì sự ích kỷ, bực tức nhỏ nhặt mà có hành vi phạm tội.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo chưa tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội, đã đầu thú. Gia đình bị cáo cũng tự nguyện bồi thường 50 triệu để khắc phục hậu quả. Tại phiên toà, người bị hại có xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt: Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự; sau khi đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử lý nghiêm minh về hành vi phạm tội của bị cáo, tuy nhiên do hậu quả chết người chưa xảy ra nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 15 và Điều 57 của Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo trong trường hợp phạm tội chưa đạt.

[3] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Người bị hại ông Đặng Quang H1 và bà Đỗ Thị T tự nguyện không yêu cầu bị cáo bồi thường và từ chối nhận 50 triệu đồng tiền bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm bồi thường dân sự của bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy vật chứng thu giữ.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt:

Tuyên bố: bị cáo Đặng Văn H phạm tội “Giết người”. Áp dụng: điểm a, n, khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Văn H 14 (Mười bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 16/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 con dao bầu (loại dao chọc tiết lợn), phần lưỡi bằng kim loại dài 23cm, có đầu nhọn và cạnh sắc, bản rộng nhất lưỡi dao 7cm, phần chuôi dao bằng gỗ dài 12cm. 01 chiếc áo sơ mi dài tay màu trắng, nhãn hiệu gắn mác APOLLO. 01 con dao dựa bằng kim loại dài 38cm, phần chuôi dài 12cm, bản rộng nhất 05cm.

Tình trạng vật chứng như Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/4/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội và Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội tại Kho vật chứng Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 59/QĐ-VKS-P2 ngày 21/2/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Đặng Văn H phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, án xử công khai bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 154/2022/HS-ST

Số hiệu:154/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;