TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 38/2022/HSST NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 2 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30A/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:
LÊ THỊ C - Sinh năm 1963 tại Khánh Hòa Nơi cư trú: Thôn K, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa.
Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Lê Đ (đã mất) và bà: Nguyễn Thị A (đã mất) Chồng: Bùi L (đã mất), có 2 con sinh năm 1997 và 2002 Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên toà.
* Người đại diện hợp pháp của bị cáo:
Bà Bùi Thị H – Sinh năm: 2002 Trú tại: Thôn K, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án:
Luật sư Phan Thị Ngọc H (Công ty Luật TNHH một thành viên Vũ Như H và cộng sự), là luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa. Luật sư H có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại: Ông Bùi L - Sinh năm:1959 (đã chết)
* Người đại diện hợp pháp của bị hại:
Bà Bùi Thị L – Sinh năm: 1997 (con ruột của bị hại) Trú tại: Thôn K, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
* Người làm chứng:
1/ Bà Nguyễn Thị H – Sinh năm: 1979 Trú tại: Thôn K, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
2/ Ông Nguyễn Văn C – Sinh năm: 1964 Trú tại: Thôn K, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
3/ Ông Võ Văn T – Sinh năm: 1970 Trú tại: Thôn K, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
4/ Bà Ca Thị L – Sinh năm: 1973 Trú tại: Thôn K, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
5/ Bà Bùi Thị L1 – Sinh năm: 1956 Trú tại: Thôn T, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
6/ Ông Bùi Ch – Sinh năm: 1961 Trú tại: Thôn T, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
7/ Ông Bùi Th – Sinh năm: 1950 Trú tại: Thôn T, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Thị C và ông Bùi L là vợ chồng, cùng trú tại thôn K, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Khoảng 19 giờ ngày 04/8/2019, sau khi uống rượu tại nhà ở K, Khánh Hòa, ông Bùi L xảy ra mâu thuẫn với vợ là bà Lê Thị C. Ông L dùng tay tát 2 cái vào mặt bà C, bà C định đánh lại thì ông L bỏ chạy ra con đường trước nhà. Bà C đuổi theo khoảng 10m thì ông L vấp ngã nằm xuống mặt đường. Bà C chạy đến nhặt 1 viên đá to bằng nắm tay đánh nhiều cái vào đầu ông L rồi vứt viên đá và gọi ông L vào nhà ngủ. Sau đó bà C vào nhà ngủ và không để ý ông L đã vào nhà hay chưa. Đến sáng ngày 05/8/2019, bà C phát hiện ông L vẫn còn nằm ở vị trí cũ nên đưa ông L vào nhà, sau đó đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa, đến ngày 03/9/2019 ông L xuất viện, ngày 08/9/2019 ông L tử vong.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 555/TT-TTPY ngày 20/9/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa ghi nhận: Dấu vết thương tích:
+ Xương hộp sọ vùng trán – đỉnh – thái dương phải khuyết kích thước 14x10 cm.
+ Vùng đầu có vết mổ từ trán – đỉnh đến thái dương phải dài 32cm đã liền sẹo.
+ Vùng mông xương cùng cụt loét kích thước 10x5 cm.
+ 1/3 trên mặt ngoài cẳng chân phải xây xát da kích thước 8x5 cm đã đóng vảy.
+ 1/3 trên mặt ngoài cẳng chân trái xây xát da kích thước 5x2 cm đã đóng vảy. Dấu hiệu chính qua giám định:
Chấn thương sọ não: tụ máu dưới da đầu, khuyết xương hộp sọ, chảy máu màng mềm, não dập.
Viêm não, màng não. Viêm gan mãn.
Bệnh lý cơ tim.
- Kết luận nguyên nhân tử vong của ông Bùi L do viêm não – màng não là hậu quả chấn thương sọ não trên cơ thể bệnh lý cơ tim, viêm gan mãn.
Bản cáo trạng số 130/CT-VKSKH-P1 ngày 02/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Lê Thị C về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Lê Thị C. Sau khi phân tích các tình tiết về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết về nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lê Thị C để xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 7 đến 8 năm tù giam. Về trách nhiệm dân sự, do đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.
Bào chữa cho bị cáo Lê Thị C, luật sư Phan Thị Ngọc H đồng ý tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết về nhân thân của bị cáo, bị cáo là người không biết chữ, bị hạn chế khả năng nhận thức, điều khiển hành vi, bị cáo là người lo lắng việc điều trị và tổ chức đám tang cho bị hại, bị cáo và bị hại là vợ chồng, không có mâu thuẫn gì lớn đến mức phải tước đoạt mạng sống của bị hại, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo Lê Thị C xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng hình sự: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Diên Khánh, Công an tỉnh Khánh Hòa, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Theo đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 20/4/2022, người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Bùi Thị L có yêu cầu được xét xử vụ án vắng mặt bà. Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã tiến hành triệu tập hợp lệ những người làm chứng là các ông bà: Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn C, Võ Văn T, Ca Thị L, Bùi Thị L, Bùi C nhưng tất cả những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng nói trên.
[2] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Tại phiên toà, bị cáo Lê Thị C đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của đại diện hợp pháp của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo lời khai của bị cáo Lê Thị C trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, vào lúc 19 giờ ngày 4/8/2019, sau khi cãi nhau với chồng là ông Bùi L và bị ông L dùng tay tát vào mặt, vì bực tức nên bị cáo Lê Thị C đã rượt đuổi theo ông L và khi ông L bị vấp ngã xuống đường, bị cáo đã sử dụng viên đá ở gần đó đánh liên tiếp nhiều cái vào đầu ông Bùi L, sau đó bỏ mặc người bị hại nằm lại trên đường. Đến sáng ngày hôm sau 5/8/2019, anh Võ Văn T là hàng xóm của bị cáo Lê Thị C biết ông L bị thương tích nên đã thông báo cho gia đình ông L và gọi taxi đưa ông L đi cấp cứu. Đến ngày 08/9/2019 ông L tử vong, nguyên nhân tử vong do viêm não - màng não là hậu quả chấn thương sọ não trên nền cơ thể bệnh lý.
Bị cáo Lê Thị C và bị hại Bùi L có mối quan hệ là vợ chồng, nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt phát sinh trong sinh hoạt hằng ngày mà bị cáo đã sử dụng hòn đá là hung khí nguy hiểm đánh liên tiếp vào vùng đầu của bị hại với ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Hành vi của bị cáo tấn công vào vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại, sau đó bỏ mặc không đưa bị hại đi cấp cứu đã thể hiện tính chất coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, là hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng rất xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương, là hành vi phạm tội có tính chất côn đồ.
Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã nhiều lần tiến hành trả hồ sơ để điều tra bổ sung, yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa truy tố hành vi phạm tội của bị cáo Lê Thị C với tình tiết định khung “có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 nhưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa vẫn giữ nguyên nội dung của bản cáo trạng. Căn cứ quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa nhận thấy có đầy đủ cơ sở để xác định bị cáo Lê Thị C phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung “có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:
Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của người bị hại là khách thể đặc biệt được pháp luật ưu tiên bảo vệ, nên cần phải xét xử bị cáo mức án thật nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo đã chăm lo chi phí điều trị, mai táng cho người bị hại, đồng thời được đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ một phần hình phạt; bản thân bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi theo kết luận giám định của cơ quan có thẩm quyền. Mặt khác, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; hoàn cảnh gia đình bị cáo có nhiều khó khăn nên xét thấy có căn cứ áp dụng quy định tại các điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 và áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.
[4] Về trách nhiệm dân sự:
Theo hồ sơ vụ án, theo đơn xin xét xử vụ án vắng mặt của bà Bùi Thị L, đại diện hợp pháp của người bị hại là bà Bùi Thị L không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí: Bị cáo Lê Thị C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê Thị C phạm tội: “Giết người”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo LÊ THỊ C 10 (mƣời) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
t ách nhiệm d n ự: Đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.
án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Bị cáo Lê Thị C phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Lê Thị C, đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; đại diện hợp pháp của người bị hại – bà Bùi Thị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Bản án về tội giết người số 38/2022/HSST
Số hiệu: | 38/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về