TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 23/2024/HS-ST NGÀY 26/04/2024 VỀ TỘI GIAO CHO NGƯỜI KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY
Ngày 26-4-2024, tại trụ sở Tòa án, Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 22/2024/TLST - HS, ngày 11-4-2024, Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2024/QĐXXST - HS ngày 15-4-2024, đối với bị cáo:
Phạm Văn U, sinh năm 1966, tại huyện A, tỉnh An Giang.
Nơi cư trú: Ấp V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Trọng Y và bà Huỳnh Thị S; anh, em ruột có 08 người, bị cáo là người thứ 03; vợ tên Trần Thị N, có 05 người con, con lớn sinh năm 1985, con nhỏ nhất sinh năm 1992; tiền án; tiền sự: không;
Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15-01-2024 đến nay, bị cáo có mặt.
Bị hại: Ông Lý Văn M, sinh năm 1965; nơi cư trú: Ấp P, xã P, thị xã T, tỉnh An Giang (đã chết);
Người đại diện hợp pháp của ông M: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1937; bà Lý Thị G, sinh năm 1979; cùng nơi cư trú: Ấp P, xã P, thị xã T, tỉnh An Giang, bà L, bà G có mặt;
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Ông Hồ Văn H, sinh năm 1956; nơi cư trú: ấp V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang, có mặt;
- Ông Nguyễn Việt Phi H1, sinh năm 1963; nơi cư trú: ấp V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ ngày 17-9-2022, Phạm Văn U điều khiển ghe không biển kiểm soát đi cùng Trần Chí T, Lý Văn M và Nguyễn Việt Phi H1 chở theo 20 đoạn cây bạch đàn tổng khối lượng 8.830kg và nhiều bao thuốc nam, lưu thông trên tuyến kênh V theo hướng từ xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang về huyện A, tỉnh An Giang. Trên đường đi, U và T ngồi trên ca bin nói chuyện, còn H1 và M nằm trong khoang ghe, lúc này T nói với U xin được điều khiển ghe, mặc dù biết T không có chứng chỉ chuyên môn điều khiển ghe theo quy định nhưng U vẫn đồng ý giao cho T điều khiển. Do trời mưa, T nhiều lần tăng ga chạy nhanh làm nước tràn vào ghe, khi đến đoạn sông thuộc khu vực ấp V, xã V, huyện T thì ghe bị chìm, U cùng T lặn xuống khoang ghe cứu được ông H1, còn M bị kẹt trong khoang ghe tử vong.
Ngày 15-01-2024, U bị khởi tố để điều tra và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
Vật chứng thu giữ:
- Chiếc ghe bằng gỗ, dài 18,95m; chiều rộng nhất 3,3m; chiều cao mạn ghe 01m, trên ghe có lắp máy nổ ISUZU 6BD1 công suất 115 sức ngựa, số máy 548864 theo mác máy (đã trả cho bị cáo);
- Gỗ bạch đàn, tổng trọng lượng 8.830kg (đã trả cho Hội chữ thập đỏ xã V do ông H đại diện nhận).
Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 256 ngày 17-8-2022 của Trung tâm pháp y tỉnh A, kết luận: Nguyên nhân chết của Lý Văn M do ngạt nước.
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn U khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định.
Bản cáo trạng số 22/CT-VKSTT-HS ngày 11-4-2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tri Tôn đã truy tố Phạm Văn U về tội “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy” theo điểm a khoản 1 Điều 276 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy” theo điểm a khoản 1 Điều 276 Bộ luật hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 276; điểm b, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Phạm Văn U từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù cho hưởng án treo về tội “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy”. Thời gian thử thách từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại bà Nguyễn Thị L và Lý Thị G đã nhận tiền bồi thường thiệt hại 16.000.000 đồng, bà L, bà G không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét.
Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp nên không đặt ra xem xét.
Đối với Trần Chí T có hành vi điều khiển ghe gỗ gây tai nạn làm chết người. Ngày 15-3-2023, T bị Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện A khởi tố, bắt tạm giam về hành vi “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, đến ngày 30-8-2023 T chết do bệnh lý nên Cơ quan điều tra - Công an huyện T không khởi tố đối với T là có căn cứ.
Bị cáo không tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tri Tôn, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung Tại phiên tòa, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai mà bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, cũng phù hợp với lời khai của đại diện bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cũng như biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám phương tiện, kết luận giám định tử thi và các chứng cứ khác thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.
Từ đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 02 giờ ngày 17-9-2022, bị cáo Phạm Văn U điều khiển ghe không biển kiểm soát chở theo 20 đoạn cây bạch đàn và nhiều bao thuốc nam lưu thông trên tuyến kênh V, trên đường đi, Trần Chí T xin được điều khiển ghe, mặc dù biết T không có chứng chỉ chuyên môn điều khiển ghe theo quy định nhưng bị cáo vẫn đồng ý giao cho T điều khiển. Khi đến đoạn sông thuộc khu vực ấp V, xã V, huyện T do T tăng ga chạy nhanh nên ghe bị chìm làm ông M tử vong. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy” theo điểm a khoản 1 Điều 276 Bộ luật hình sự.
[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi phạm tội khi có ý thức rõ ràng, dù biết rằng hành vi giao cho người không có chứng chỉ chuyên môn theo quy định điều khiển phương tiện giao thông đường thủy là xâm phạm đến trật tự an toàn trong hoạt động giao thông đường thủy, đồng thời sẽ xâm phạm đến tính mạng, tài sản của người khác, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, nhưng bị cáo vẫn tự tin rằng T sẽ điều khiển được, từ đó dẫn đến tai nạn, hậu quả làm ông M tử vong. Cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho đại diện bị hại, đại diện bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, hơn nữa việc vận chuyển gỗ chỉ vì mục đích thực hiện thiện nguyện. Vì vậy, bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Do đó, thấy không cần áp dụng hình phạt cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội cũng đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa tội phạm.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, gia đình khó khăn về kinh tế nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại bà Nguyễn Thị L và Lý Thị G không có yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét.
[6] Về vật chứng vụ án: Đối với chiếc ghe cùng máy nổ và 8.830kg gỗ bạch đàn đã thu giữ, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là đúng quy định nên không xem xét giải quyết tiếp.
Đối với Trần Chí T có hành vi điều khiển ghe gỗ gây tai nạn làm chết người, đến ngày 30-8-2023 T chết do bệnh lý nên Cơ quan điều tra - Công an huyện T không khởi tố đối với T là có căn cứ.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn U phạm tội “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy” Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 276; điểm b, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Phạm Văn U 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án 26-4-2024 (ngày hai mươi sáu tháng tư năm hai nghìn không trăm hai mươi bốn).
Giao bị cáo Phạm Văn U cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện A, tỉnh An Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Phạm Văn U phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo. Trường hợp vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy số 23/2024/HS-ST
Số hiệu: | 23/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về