Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 341/2021/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 341/2021/HSPT NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Vào ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 255/2021/TLPT-HS ngày 15 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Quốc T và đồng phạm về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Do kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HSST ngày 02/02/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2007/2021/QĐXXPT-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021.

* B cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Quốc T (S mèo), sinh năm: 1988 tại Bình Định; nơi cư trú: Bình Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; con ông: Nguyễn Văn S và bà Huỳnh Thị Thanh L; vợ là Nguyễn Thị H, con: 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày ngày 09/5/2019 đến ngày 30/8/2019 thay thế bằng biện pháp “Bảo lĩnh”; có mặt.

2. Nguyễn T4 T1(C), sinh năm: 1992 tại Bình Định; nơi cư trú: Bình Định; nghề nghiệp: Thợ nhôm sắt; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; con ông: Nguyễn Văn M và bà Đặng Thị B; vợ là Nguyễn Thị V, con: 03 con; tiền án, tiền sự: Không; áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

3. Phan Viết D (D Đen), sinh năm: 1991 tại Bình Định; nơi cư trú: Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; con ông: Phan Viết T và bà Hồ Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo hiện đang bị tạm giam trong một vụ án khác; vắng mặt.

4. Huỳnh Văn T2 (M), sinh năm: 1992 tại Bình Định; nơi cư trú: Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; con ông: Huỳnh Văn Q và bà Đặng Thị B; vợ Nguyễn Trịnh Như Y; con: 02; tiền án, tiền sự: Không; bắt tạm giam từ ngày 31/7/2019 đến ngày 28/12/2019, áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

5. Nhan Thanh T3 (T3 be), sinh năm: 1992 tại Bình Định; nơi cư trú: Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông: Nhan Văn T và bà T11 Thị Đ; vợ con: không; tiền án: Ngày 29/11/2012 bị Tòa án tỉnh Bình Định xử phạt 08 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy, tiền sự: Không; áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

6. Hồ C T1(M), sinh năm: 1995 tại Bình Định; nơi cư trú: Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông: Hồ C T và bà Huỳnh Thị Nguyên T; vợ: Bùi Thảo N, con: Có 01 người sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bắt tạm giam từ ngày 29/7/2019 đến ngày 17/10/2019 áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

7. Lê C H (H), sinh năm: 1995 tại Bình Định; nơi cư trú: Bình Định; nghề nghiệp: Phụ xe; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông: Lê C T và bà Nguyễn Thị Kim P; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 18/12/2017 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm, xử phạt 12 tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích”, (chưa xóa án tích); tiền sự: Không; áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

8. Nguyễn Trọng T4 (T), sinh năm: 2001 tại Bình Định; nơi cư trú: Bình Định; HKTT: tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Thợ xăm; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông: Nguyễn Xuân Q (chết) và bà Ma Thị B; vợ, con: Chưa có; tiền án; tiền sự: Không; áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

9. Mai Văn T5, sinh năm: 1993 tại Bình Định; nơi cư trú: tình Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông: không rõ và bà Mai Thị H; vợ T11 Thị Kiều S, con: 01; tiền án; tiền sự: Không; bắt theo lệnh truy nã ngày 22/02/2010 đến ngày 20/7/2020, bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

* Người bào chữa:

Ông Bùi Văn P - Luật sư hoạt động tại văn phòng luật sư P thuộc đoàn luật sư tỉnh Bình Định bào chữa cho bị cáo Mai Văn T5 theo yêu cầu của bị cáo; vắng mặt có lý do và gởi Luận cứ bào chữa cho bị cáo T5.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01h30’ ngày 22/4/2019, tại ngã tư đường N- M TP. Q, giữa Đặng Trần Anh T6 với nhóm Thái Văn T7, Nguyễn Văn V, Lê C L, Nguyễn Ngọc T8 xảy ra mâu thuẫn. Nhóm T7 rượt đánh T6; T7 dùng cây kéo cắt bánh mì đâm trúng bàn tay của T6.

Khoảng 21h ngày 22/4/2019, Mai Văn T5, Nguyễn Hoàng N, Đặng Trần Anh T6, Nguyễn Văn T9 (nhóm C) uống nước mía gần Quảng trường Trung tâm thành phố Q. Nguyễn Văn V biết Đặng Trần Anh T6 là đàn em của Mai Văn T5, nên V gọi điện cho Mai Văn T5 đề nghị giảng hòa và bồi thường về việc đánh T6, nhưng T5 không đồng ý việc giảng hòa. Sau khi điện thoại xong, Nguyễn Văn V nói cho Thái Văn T7 biết nội dung cuộc điện thoại giữa T5 và V. Sau đó khoảng 04 phút, Đặng Trần Anh T6 điện thoại cho Thái Văn T7 thách thức, hẹn đánh nhau nên T7 thách T6 “cạch” (nghĩa là đánh nhau tay đôi). Ngay lúc này, Nguyễn Hoàng N lấy điện thoại của T6 nói chuyện với T7 thách “cạch” thì T7 thách N “cạch dao” (tức là đánh nhau bằng dao). Nguyễn Hoàng N không đồng ý đánh nhau bằng dao, nói “đồ (nghĩa là hung khí) thằng nào thằng đó cạch”. Sau khi điện thoại thách thức, hẹn đánh nhau với Đặng Trần Anh T6 và Nguyễn Hoàng N thì Thái Văn T7 nói cho Nguyễn Văn V biết nội dung cuộc gọi giữa T7 với T6, N và rủ V đánh nhau với nhóm CA. Nguyễn Văn V đồng ý cùng T7 đánh nhau với nhóm CA tại công viên H, thuộc khu vực 8, phường Đ, thành phố Q.

Sau khi hẹn đánh nhau với nhóm CA, Nguyễn Văn V đến gặp Nguyễn Quốc T và điện thoại cho Nguyễn Hữu D, Trần Văn H12, Nhan Thanh T3 rủ đánh nhau với nhóm CA và hẹn gặp nhau tại bờ kè sông H 2, phường Đ, thành phố Q.

Thái Văn T7 điều khiển xe Exciter biển số 77L 1-922.36 đến bãi đất trống bờ kè sông H 2 gặp Trần Văn H12; T7 điện thoại cho Đào Trọng T8 rủ đánh nhau với nhóm CA và được T8 đồng ý cùng 04 - 05 người (không rõ lai lịch) đi môtô đến gặp T7. Đào Trọng T8 điện thoại rủ Phan Viết D và Nguyễn Ngọc T8 đánh nhau; T8, D đồng ý tham gia. Lúc này, Trần Văn H12 nói có việc gia đình, nên bỏ về, không tham gia. Thái Văn T7, Đào Trọng T8 đi một xe môtô đến hẻm 250 đường X, thành phố Q lấy hung khí để đánh nhau và gặp T (do T7 hẹn gặp T trước đó).

Khi được Đào Trọng T8 rủ đánh nhau, Phan Viết D đồng ý và điện thoại rủ Trần Văn C; C đồng ý và rủ Nguyễn Thụy Q đi đến bờ kè sông H gặp nhóm T7 Heo. Nguyễn Ngọc T8 cũng thuê xe taxi đến bờ kè sông H gặp nhóm T7 Heo.

Nguyễn Hữu D điều khiển xe Ablade màu trắng chở V đến bãi đất trống bờ kề sông H 2, phường Đ, TP.Q. Tại đây, V tiếp tục điện thoại rủ Đỗ Thanh L, Nguyễn T4 T10, Nguyễn Trọng T4, Huỳnh Văn T2. Nguyễn Quốc T điện thoại cho Nguyễn Hoàng H3 hỏi mượn xe ôtô biển số 77A-119.10 nhưng H3 nói đang cho Lê c H mượn và điện thoại cho H bảo chở T đi công chuyện rồi nhắn số điện thoại của T cho H để T và H tự liên lạc với nhau.

Lê C H điều khiển xe ôtô 77A-119.10 chở Hồ C T10, Đoàn Thế TI 1 và Bùi Thảo N đến đón T. Đào Trọng T8 mang một bao hung khí (trong bao có ba cây phảng bờ) đưa cho Thái Văn T7 ôm ra đường X gặp T. Sau đó, Đào Trọng T8 đi môtô đến bờ kè sông H 2. Nguyễn Ngọc T, Thái Văn T7 đem hung khí bỏ lên xe ôtô 77A-119.10 rồi cả hai cùng lên xe. Lê c H điều khiển xe ô tô chở T, T7, C T10, T11 đến nơi tập trung tại bờ kè sông H 2 (riêng Bùi Thảo N xuống xe đi về). Lê C H nói với T: “Thôi em chạy ra kia đứng chứ ở đây làm gì”, rồi H điều khiển xe ôtô đến cầu H 2, phường Đ đậu chờ nhóm T7 Heo. Tại đây, Thái Văn T7 tiếp tục điện thoại rủ Nhan Thanh T3, Lê C L đánh nhau với nhóm CA. Nhan Thanh T3 điện thoại rủ Lê T6 Anh, T11 Ngọc Bảo đi đánh nhau và được Anh, Bảo đồng ý.

Nhóm T7 Heo có chuẩn bị thêm một bao hung khí gồm nhiều đao, kiếm, phảng bờ (không xác định được người trực tiếp mang đến hiện trường).

Sau khi điện thoại thách thức đánh nhau tại công viên H giữa nhóm Chuồng gà và nhóm của T7 Heo, đến khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 22/4/20019 nhóm CA gồm: Nguyễn Hoàng N điều khiển xe môtô chở Mai Văn T5; Nguyễn Văn T9 điều khiển xe mô tô chở Đặng Trần Anh T6 cùng với nhiều đối tượng khác (chưa xác định được lai lịch) đi khoảng từ 15 đến 20 xe mô tô đến đường T thuộc công viên H, phường Đ, TP.Q. Nhóm T7 Heo gồm: T8, T, T7, T4 T10, Trọng T4, D, C T10, T8, D, T2, T6 Anh, L đều cầm hung khí (đao, kiếm, phảng bờ); V, L, Bảo, T3, C, Q đều cầm đá; cùng một số đối tượng khác (không rõ lai lịch) di chuyển ra hướng công viên H. Riêng S và T11 không cầm gì, đi sau những người trong nhóm.

Nhóm T7 Heo đi theo đường bờ kè sông H 2, đến quán Karaoke Torino rồi đi vào công viên H (riêng Lê T6 Anh điều khiển xe môtô Exciter chở Lê C L (cầm đao) đi theo đường T rồi đi vào công viên H). Trong đó, Đào Trọng T8, Thái Văn T7, Nguyễn Quốc T cùng một số người khác đi nhóm đầu. Nhóm CA đi nhiều xe máy (khoảng 15 đến 20 người) từ đường L đến đường T rồi xuống xe cầm nhiều hung khí như súng (không rõ đặc điểm), đao, kiếm, phảng bờ... xông đến đánh nhau với nhóm T7 Heo. Khi hai nhóm cách nhau khoảng 03 - 04 mét thì bên nhóm CA có người dùng súng bắn vào nhóm T7 Heo ba phát làm nhóm T7 Heo hoảng loạn quay người bỏ chạy; Nguyễn Trọng T4 bị thương ở lưng, Hồ C T1 bị thương ở chân do đạn bắn trúng. Đào Trọng T8 bị nhóm CA xông đến dùng hung khí đâm, chém nhiều nhát vào người làm T8 ngã xuống bất tỉnh và chết tại bãi cỏ trong công viên H. Sau khi chém Đào Trọng T8, nhóm CA lên xe môtô bỏ chạy khỏi hiện trường; nhóm T7 Heo phát hiện Đào Trọng T8 đang nằm bất tỉnh trên bãi cỏ công viên, nên bảo Lê C H điều khiển xe ô tô chở T8 đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định cấp cứu nhưng T8 đã chết. Sau khi sự việc xảy ra, UBND phường Đ đã có văn bản đề nghị xử lý nghiêm đối với hành vi gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

Riêng Nguyễn Trọng T4 bị nhiều vết thương do đạn bắn trúng vùng lưng chạy về nhà T4 T10, được T4 T1 và một số bạn bè đưa đến Bệnh viện đa khoa thành phố Q để sơ cứu vết thương. Tại đây, bác sĩ mổ vết thương ở lưng lấy ra 04 mảnh kim loại đưa cho T4; T4 cầm 04 mảnh kim loại rồi rời khỏi bệnh viện, cùng cả nhóm về nhà T4 T1 và làm mất 04 mảnh kim loại trên. Hồ C T1 bị thương ở chân, cùng bạn gái là Bùi Thảo N đi tỉnh Phú Yên đến nhà thuốc tư nhân (không rõ địa chỉ) sơ cứu vết thương. Nguyễn Trọng T4 và Hồ C T1 có đơn xin từ chối giám định và không yêu cầu xử lý.

Sau khi xảy ra vụ án, Mai Văn T5, Nguyễn Hoàng N, Đặng Trần Anh T6, Nguyễn Văn T9 bỏ trốn. Ngày 20/5/2019, Mai Văn T5, Nguyễn Hoàng N, Đặng Trần Anh T6 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Bình Định truy nã về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Ngày 27/7/2020, Cơ quan điều tra ra Quyết định thay đổi Quyết định khởi tố bị can đối với Đặng Trần Anh T6 từ tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại Khoản 2, Điều 318 BLHS sang tội “Giết người” quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS. Ngày 29/7/2020, Cơ quan điều tra ra Quyết định truy nã bị can đối với Đặng Trần Anh T6 về tội “Giết người”. Ngày 22/02/2020, Mai Văn T5 bị bắt truy nã; Nguyễn Hoàng N và Đặng Trần Anh T6 hiện nay chưa bắt được.

Tại Bản án hình sự thẩm số 03/2021/HSST ngày 02/2/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:

* Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Quốc T, Nguyễn Trọng T4, Phan Viết D, Nguyễn T4 T10, Lê C H, Huỳnh Văn T2, Hồ C T10, Nhan Thanh T3, Mai Văn T5 đều phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

* Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS.

* Xử phạt: Bị cáo Lê C H 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Nhan Thanh T3 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

*Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc T 27 (hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Hồ C T127 (hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn T4 T124 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn T2 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Mai Văn T5 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

*Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS.

* Xử phạt: Bị cáo Phan Viết D 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

*Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91; Điều 101 của BLHS.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng T4 24 ( Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 4,5,6,8,9/02/2021, các bị cáo Nguyễn Quốc T, Nguyễn Ngọc T8, Nguyễn Trọng T4, Phan Viết D, Nguyễn T4 T10, Lê C H, Huỳnh Văn T2, Hồ C T10, Nhan Thanh T3, Mai Văn T5 kháng cáo với cùng nội dung xin giảm nhẹ hình phạt tù. Ngày 19/3/2021 bị cáo Nguyễn Ngọc T8 có đơn xin rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã có Quyết định số 08/2021/HSPT-QĐ ngày 20/5/2021 đình chỉ xét xử phúc thẩm, Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với Nguyễn Ngọc T8.

Tại phiên tòa các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đối với bị cáo Mai Văn T5 rút yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Tòa án sơ thẩm đã kết án các bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” và mức hình phạt đã tuyên là có căn cứ đúng pháp luật nên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm; đối với các bị cáo thuộc nhóm chuồng gà Mai Văn T5, Nguyễn Văn T9, Đặng Trần Anh T6, Nguyễn Hoàng N đồng phạm và có dấu hiệu tội “Giết người” nhưng cấp sơ thẩm không khởi tố điều tra đối với Mai Văn T5, Nguyễn Hoàng N và Nguyễn Văn T9 về tội “Giết người” là bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, do đó đề nghị Hội đồng xét xử hủy một phần bản án đối với bị cáo Mai Văn T5 để khởi tố điều tra các bị cáo Mai Văn T5, Nguyễn Văn T9, Đặng Trần Anh T6, Nguyễn Hoàng N về tội “Giết người” và tội“Gây rối trật tự công cộng”.

Các bị cáo Lê C H, Huỳnh Văn T2, Nhan Thanh T3, Hồ C T1 xin giảm nhẹ hình phạt; các bị cáo Nguyễn Quốc T, Nguyễn T4 T10, Nguyễn Trọng T4 xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Mai Văn T5 trình bày tại Bản luận cứ bào chữa: Bản án sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo Mai Văn T5 24 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” là không có căn cứ vì, không đủ chứng cứ buộc tội; do đó đề nghị Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.

Bị cáo Mai Văn T5 đồng ý với lời bào chữa của Luật sư bào chữa và không có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xuất phát từ việc mâu thuẫn giữa Đặng Trần Anh T6(nhóm chuồng gà) và nhóm Thái Văn T7(T7 heo) nên hai nhóm hẹn đánh nhau tại địa điểm công viên H thuộc khu vực 9, phường Đ, thành phố Q, Bình Định. Khoảng 23h30 ngày 22/4/2019, Nhóm chuồng gà gồm: Đặng Trần Anh T6(T6 con), Nguyễn Hoàng N(U), Mai Văn T5, Nguyễn Văn T9(T9 đen) và nhiều đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đi trên nhiều xe mô tô đến tại công viên H; Nhóm Thái Văn T7 gồm: Thái Văn T7(T7 heo), Nguyễn Văn V(V chó), Đào Trọng T8(T8 đen), Nguyễn Quốc T(Sạn mèo), Nguyễn Trọng T4(Tít), Phan Viết D(D đen), Đỗ Thanh L(Xoài), Nguyễn T4 T10(C), Nguyễn Ngọc T8(Đô), Lê C H(Heo), Huỳnh Văn T2(mèo), Nguyễn Hữu D(Tí bà đá), Lê C L(Lụ em), Hồ C T10(út em), Trần Văn C(Bao công), Nguyễn Thụy Q(L beo), Nhan Thanh T3(Be), Lê T6 Anh(tý lắm), T11 Ngọc Bảo(Bảo đao) chuẩn bị các loại hung khí như phát lang, đao... đi nhiều xe mô tô và xe ô tô đến công viên H. Khi hai nhóm gặp nhau thì hô hào và la lớn “giết, giết” rồi xông vào đánh, chém nhau; lúc này bên nhóm T7 heo nghe tiếng súng nổ từ bên nhóm Chuồng gà nên sợ và quay đầu bỏ chạy. Đào Trọng T8(T8 đen, thuộc nhóm T7 heo) bị các đối tượng bên nhóm Chuồng gà chém nhiều nhát gục tại chỗ, nằm trên bãi cỏ công viên. Sau khi chém T8, nhóm Chuồng gà lên xe mô tô bỏ đi; nhóm T7 heo bỏ chạy tán loạn và sau đó tập trung lại phát hiện Đào Trọng T8 bị thương tích, nằm bất tỉnh, nên đưa đi cấp cứu nhưng T8 đã chết trên đường đi. Địa điểm xảy ra hành vi phạm tội của các bị cáo tại khu vực công viên H là khu vực công cộng. Tòa án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015; đối với Đặng Trân Anh T6 và Nguyên Hoàng N sau khi phạm tội đã bỏ trốn, cơ quan điều tra đã tách hành vi “Giết người ” của Đặng Trần Anh T6 để giải quyết sau.

[2] Đây là vụ án có hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo xâm hại đến tính mạng sức khỏe của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây lo sợ trong quần chúng nhân dân; chỉ vì mâu thuẫn giữa các đối tượng là thành viên của hai nhóm khác nhau là nhóm chuồng gà do Mai Văn T5 đứng đầu và nhóm T7 heo do Thái Văn T7 đứng đầu; hai nhóm đã rủ rê lôi kéo tập hợp lực lượng chuẩn bị hung khí(cả vũ khí) đến công viên là nơi công cộng trung tâm thành phố để đánh nhau giải quyết mâu thuẫn, hậu quả Đào Trọng T8 thuộc nhóm T7 heo bị chém và bắn chết. Đối với những người thuộc nhóm chuồng gà gồm bị cáo Mai Văn T5, Đặng Trần Anh T6, Nguyễn Hoàng N, Nguyễn Văn T9 cùng một số đối tượng không rõ lai lịch thuộc nhóm chuồng gà có hành vi thống nhất cùng hẹn địa điểm, thời gian, chuẩn bị hung khí và vũ khí đi đánh nhau với nhóm Thái Văn T7, tham gia đánh nhau gây mất an ninh trật tự trị an nơi công cộng và dẫn đến hậu quả Đào Trọng T8 tử vong là có dấu hiệu của tội “Giết người” và tội “Gây rối trật tự công cộng”; đối với các bị cáo thuộc nhóm T7 heo cùng thống nhất hẹn thời gian, địa điểm chuẩn bị hung khí đánh nhau nhưng chưa thực hiện được hành vi đánh nhau và chưa gây hậu quả gì đối với nhóm chuồng gà, do đó Tòa án sơ thẩm kết tội các bị cáo thuộc nhóm T7(heo) về một tội “Gây rối trật tự công cộng” là có căn cứ và đứng pháp luật. Tòa án sơ thẩm kết án các bị cáo thuộc nhóm chuồng gà gồm có Mai Văn T5 và Nguyễn Văn T9 về một tội “Gây rối trật tự công cộng” là có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội của các bị cáo về tội “Giết người” và đánh giá không đúng vai trò phạm tội của các bị cáo trong vụ án, đồng thời có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại Điều 345, 358 Bộ luật tố tụng Hình sự hủy một phần bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt của bị cáo Mai Văn T5 và Nguyễn Văn T9 đối với tội “Gây rối trật tự công cộng” để cấp sơ thẩm điều tra lại theo thủ tục chung.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù và xin hưởng án treo của các bị cáo, thấy:

[3.1] Tại phiên tòa bị cáo Mai Văn T5 đã rút yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; do đó Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu của bị cáo theo quy định tại Điều 348 BLTTHS.

[3.2] Đối với kháng cáo của các bị cáo Lê C H, Nhan Thanh T3, Huỳnh Văn T2, Phan Văn D, thấy: Tòa án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015 là có căn cứ đứng pháp luật; các bị cáo Lê C H, Nhan Thanh T3 đã có tiền án phạm tội thuộc trường hợp tái phạm; bị cáo Phan Viết D phạm tội trong vụ án khác. Hành vi của các bị cáo gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang lo sợ trong nhân dân, ảnh hưởng xấu an ninh xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự, tính chất và mức độ hành vi phạm tội, hậu quả gây ra, nhân thân của bị cáo, áp dụng đứng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo H 30 tháng tù; T3 30 tháng tù, Huỳnh Văn T2 24 tháng tù, Phan Viết D 24 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” là có căn cứ và đứng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm các bị cáo kháng cáo nhung không có tình tiết nào mới khác; do vậy, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3.3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt tù và xin được hưởng án treo của các bị cáo Hồ C T10, Nguyễn Quốc T, Nguyễn T4 T10, Nguyễn Trọng T4, thấy: Các bị cáo đều thuộc nhóm của Thái Văn T7 có Đào Trọng T8 bị bị nhóm Chuồng gà đánh chết, khi tham gia đi đánh nhóm chuồng gà chưa gây hậu quả; các bị cáo đều do Thái Văn T7 và Nguyễn Văn V rủ rê lôi kéo đi theo nhưng chưa có hành động gì(khi đến nơi nghe tiếng súng nổ đã bỏ chạy), nhân thân tốt; quá trình tố tụng thật thà khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh kinh tế gia đình các bị cáo điều khó khăn, các bị cáo đều là lao động chính trong gia đình. Tại cấp phúc thẩm bị cáo Nguyễn Quốc T có đơn gởi Tòa án phúc thẩm có nội dung bản thân bị bệnh thường xuyên chữa trị(kèm theo bệnh án) và Đơn xác nhận của công an phường Lê Hồng Phong(nơi bị cáo cư trú) với nội dung, bản thân bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương và ăn năn hối cải về hành vi đã gây ra, sau khi phạm tội ra trình diện tại c an phường; bị cáo Hồ C T1 và Nguyễn T4 T1 gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn bị cáo là trụ cột trong gia đình có chính quyền địa phương xác nhận; bị cáo Nguyễn Trọng T4 khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi gia đình khó khăn có chính quyền địa phương xác nhận. Xét thấy, mặc dù các bị cáo bị rủ rê lôi kéo và chưa có hành động gì khi tham gia phạm tội cùng với bị cáo T7 và V, nhưng hành vi của các bị cáo gây mất trật tự trị an tại địa phương, ảnh hưởng xấu an ninh xã hội do đó, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo xin được hưởng án treo, nhưng chấp nhận kháng cáo xét giảm cho các bị cáo một phần hình phạt tù.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự, về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị (trừ bị cáo Nguyễn Văn T9).

[5] Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thương vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo không được chấp nhận kháng cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, các bị cáo được chấp nhận kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 345; Điều 348; điểm a, b, c khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm c khoản 1 Điều 357; điểm a, b khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự;

1.1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm về yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo Mai Văn T5.

1.2. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Mai Văn T5:

Hủy một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HSST ngày 02/02/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về tội danh và hình phạt tù đối với bị cáo Mai Văn T5 và Nguyễn Văn T9 (tên gọi khác: T9 đen), giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định để điều tra lại theo thủ tục chung.

1.3. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê C H, Nhan Thanh T3, Huỳnh Văn T2, Phan Viết D và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HSST ngày 02/02/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm S khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Xử phạt: Bị cáo Lê C H 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Nhan Thanh T3 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn T2 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Xử phạt: Bị cáo Phan Viết D 24 ( hai mươi bốn) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

1.4. Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Hồ C T10, Nguyễn Quốc T, Nguyễn T4 T10, Nguyễn Trọng T4, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HSST ngày 02/02/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định như sau:

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Xử phạt: Bị cáo Hồ C T121 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc T 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn T4 T118 (Mười tám) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng T4 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

2. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HSST ngày 02/02/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về trách nhiệm hình sự, về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị (trừ bị cáo Nguyễn Văn T9).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Lê C H, Nhan Thanh T3, Huỳnh Văn T2, Phan Viết P, mỗi bị cáo phải chịu 200.000, đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các bị cáo Hồ C T10, Nguyễn Quốc T, Nguyễn T4 T10, Nguyễn Trọng T4, Mai Văn T5 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

913
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 341/2021/HSPT

Số hiệu:341/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;