TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 33/2024/HS-PT NGÀY 11/04/2024 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 11 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử phúc thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý số 194/2024/TLPT-HS ngày 08 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn Q và đồng phạm do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2023/HS-ST ngày 27 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
1. Các bị cáo có kháng cáo:
+ Nguyễn Văn Q, sinh ngày 13 tháng 5 năm 2005 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu Thường trú: Thôn C, xã Y, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Viết L và bà Nguyễn Thị H; vợ: Chưa có (Đang sống chung như vợ chồng với chị Lê Thị H), có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Quyết Đ số 1409/QĐ-XPVPHC ngày 15/5/2023 của Chủ tịch UBND huyện Yên Lạc xử phạt vi phạm hành chính Nguyễn Văn Q 7.500.000 đồng về hành vi “Tàng trữ trái phép vũ khí thô sơ”; bị cáo tại ngoại; (có mặt).
+ Nguyễn Trí T, sinh ngày 17 tháng 3 năm 2006 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu Thường trú và chỗ ở: Thôn 3 Đ, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Văn C và bà Phạm Thị N; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không;
Tiền sự: Tại Quyết Đ số 50/QĐ-XPHC ngày 14/4/2022 của Trưởng công an thành phố Vĩnh Yên xử phạt vi phạm hành chính Nguyễn Trí T hình thức cảnh cáo về hành vi đánh nhau.
Nhân thân: Tại Quyết Đ xử phạt vi phạm hành chính số 11/QĐ-XPHC ngày 01/5/2023 của công an tỉnh Vĩnh Phúc Quyết Đ xử phạt vi phạm hành chính Nguyễn Trí T về hành vi đánh nhau, hình thức xử phạt là cảnh cáo.
Bị cáo tại ngoại (có mặt).
+ Hoàng Trung K, sinh ngày 08 tháng 7 năm 2006 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu Thường trú và chỗ ở: TDP L, thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Hoàng Văn T và bà Nguyễn Thị N; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; (có mặt).
+ Nguyễn Việt H, sinh ngày 15 tháng 6 năm 2006 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu Thường trú và chỗ ở: TDP N, thị trấn K, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Cao K và bà Trần Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; (có mặt).
2. Các bị cáo khác, người bào chữa cho các bị cáo dưới 18 tuổi, người đại diện hợp pháp của các bị cáo không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị.
3. Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc có liên quan đến kháng cáo:
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trí T:
+ Ông Nguyễn Văn C (là bố của bị cáo), sinh năm 1962; (vắng mặt).
+ Bà Phạm Thị N (là mẹ của bị cáo), sinh năm 1970; (có mặt).
Đều trú tại: Thôn Đ, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Hoàng Trung K: Ông Hoàng Văn T, sinh năm 1975 (là bố của bị cáo); (có mặt).
Trú tại: TDP L, thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Việt H: Ông Nguyễn Cao K, sinh năm 1981 và bà Trần Thị H, sinh năm 1982 (là bố mẹ của bị cáo); (đều có mặt).
Đều trú tại: Thôn N, thị trấn K, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Việt H: Bà Kim Hồng T - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Vĩnh Phúc; (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Trung K là: Bà Trần Bích H- Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Vĩnh Phúc; (có mặt).
- Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Trí T và Nguyễn Văn Q:
+ Ông Nguyễn Văn T - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Vĩnh Phúc; (vắng mặt).
+ Bà Nguyễn Thị Thúy H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Vĩnh Phúc; (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 5/2022, Hà Văn N có vay của Lê Hà A, sinh năm 2006; trú tại: TDP L, phường T, thành phố Vĩnh Yên số tiền 4.000.000đ. N đã trả cho Hà A 300.000đ và còn nợ Hà A 3.700.000đ. Sau đó nhiều lần Hà A đòi nợ nhưng N không có tiền trả. Tối ngày 15/8/2022, N và Hoàng Quốc L, sinh ngày 24/4/2007, trú tại: TDP S, phường Đ, thành phố Vĩnh Yên đến nhà của Hà A để khất nợ thì gặp Hà A và Dương Thành C ( là người yêu của Hà A). Hà A đồng ý cho N khất nợ nhưng C không đồng ý. C và N có to tiếng với nhau nhưng chưa xảy ra xô xát, sau đó N và L ra về. Buổi đêm cùng ngày 15/8/2022, C và N tiếp tục nhắn tin, thách thức, chửi bới nhau. Sau đó N nói việc đang có mâu thuẫn với C cho Hoàng Quốc L biết. C cũng nói việc thách thức đánh nhau với N cho Đỗ Trung K (tức Việt con) biết nên Đỗ Trung K và Hoàng Quốc L nhắn tin chửi nhau. Do trước đó N, L và K đã có mâu thuẫn với nhau nên hai bên hẹn tối ngày 16/8/2022 tập trung tại cổng chào huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc để đánh nhau. Sau đó, Đỗ Trung K và Hoàng Quốc L rủ thêm các đối tượng đi cùng để đánh nhau cụ thể như sau:
Tối ngày 15/8/2022, Đỗ Trung K sử dụng máy tính tại quán internet Trình tại thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đăng nhập Facebook tên “Việt Con” lần lượt nhắn tin vào Facebook “Tiến C” của Dương Thành C (lúc này C đang ở quán internet thị trấn Hợp Châu, huyện Tam Đảo); Facebook “Ngoc N Nguyen” của Nguyễn Ngọc N đăng nhập trên điện thoại Iphone XS, màu vàng gắn sim 0392.001.9xx để rủ C, N hẹn tối ngày 16/8/2022 đi cổng chào huyện Yên Lạc để đánh nhau với nhóm Yên Lạc thì C, N đồng ý. Lúc này, Nguyễn Đ H, sinh ngày:
27/10/2006, trú tại: Thôn Diên L, xã D, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đang ngồi cạnh C tại quán Internet nên đọc được tin nhắn của K, H cũng đồng ý đi đánh nhau cùng K, C; Ngô Quốc Đ, sinh ngày 10/6/2007, trú tại: Thôn Diên L, xã D, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đang ngồi cạnh H nên Đ cũng đồng ý đi cùng để đánh nhau.
Sau đó, Đỗ Trung K tiếp tục sử dụng máy tính tại quán internet Trình tại thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, đăng nhập Facebook tên “Việt Con”, sử dụng ứng dụng messenger gọi đến messenger “Nguyễn Ngoc Anh” của Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 19/11/2006, trú tại: Thôn N, xã A, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đăng nhập trên điện thoại Iphone 6, không gắn sim rủ Nguyễn Ngọc A; nhắn tin vào messenger “Lê Tiến D” của Lê Tiến D, sinh ngày 30/8/2006, trú tại: Thôn H 1, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đăng nhập trên điện thoại Iphone 11 màu đen;
nhắn tin vào messenger “Nguyễn Việt H” của Nguyễn Việt H, sinh ngày 15/6/2006, trú tại: Thôn L, thị trấn K, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, đăng nhập trên điện thoại Iphone 7, màu trắng, gắn sim 0358.617.2xx; nhắn tin vào messenger “Nguyễn Trung A” của Nguyễn Lê Thế Trung A, sinh ngày 18/3/2005, trú tại: Thôn Làng Q, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đăng nhập trên điện thoại Samsung Note 9, màu xanh, gắn sim 0869. 868.205; nhắn tin vào messenger “Phạm Việt A” của Phạm Việt A, sinh ngày 01/9/2007, trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đăng nhập trên điện thoại Iphone 7, không gắn sim; nhắn tin vào messenger “Ng Anh” của Nguyễn Việt A, sinh ngày: 06/5/2005, trú tại: Thôn N, xã A, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, sau đây gọi là Nguyễn Việt A (A) đăng nhập trên điện thoại Iphone 6, không gắn sim, lần lượt rủ Ngọc A, D, H, Trung A, Phạm Việt A, Nguyễn Việt A (An Hoà) đến tối ngày 16/8/2022 đi cổng chào huyện Yên Lạc để đánh nhau với nhóm Yên Lạc, tất cả đều đồng ý.
Lúc này, Nguyễn D T thấy Lê Tiến D được Đỗ Trung K rủ đi đánh nhau nên cũng đi cùng Lê Tiến D. Sau khi được Đỗ Trung K rủ đi đánh nhau, Nguyễn Việt H rủ Trần Trung H đi đánh nhau, H đồng ý. Nguyễn Việt A (A) nhắn tin vào messenger “K Mic” của Hoàng Trung K đăng nhập trên điện thoại Iphone 6, màu đen, gắn sim 0382.390.5xx rủ Hoàng Trung K đi đánh nhau thì Hoàng Trung K đồng ý. Hoàng Trung K nhắn tin vào messenger “PH Văn Đ” của PH Văn Đ, sinh ngày 20/12/2006, trú tại: Thôn Tân Thịnh, xã Hợp Thịnh, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đăng nhập trên điện thoại Iphone X, màu trắng gắn sim 0823.421.2xx với nội dung “tí lên cầu Đồng Tâm với tao tí”, lúc này Đ nghĩ rằng K rủ Đ đi chơi, không biết là K rủ đi đánh nhau nên Đ đồng ý. Khi đó Trần Văn H, sinh ngày 08/3/2006 và Nguyễn Đ Trung, sinh ngày 13/10/2006, cùng trú tại: Thôn Tân Thịnh, xã Hợp Thịnh, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đang ngồi chơi cùng Đ, thấy Đ bảo đi đến cầu vượt Đồng Tâm để chơi nên cũng đi cùng. Phạm Việt A nhắn tin vào messenger “Vương Văn Đ” cho Vương Văn Đ, sinh ngày 12/6/2007, trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đăng nhập trên máy tính tại quán Internet ở xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc rủ Đ đi đánh nhau, Đ đồng ý.
Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 16/8/2022, nhóm Đỗ Trung K tập trung tại quán Internet Trình tại thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc gồm có 11 người: Đỗ Trung K, Nguyễn Đ H, Nguyễn Ngọc N, Phạm Việt A, Vương Văn Đ, Dương Thành C, Hoàng Trung K, Nguyễn Việt A (A), Trần Trung H, Nguyễn Việt H, Nguyễn Ngọc A và Ngô Quốc Đ. Lúc này, Nguyễn Việt A, sinh ngày 11/11/2005, trú tại: Thôn Diên L, xã D, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, sau đây gọi là Nguyễn Việt A (D) là bạn của Đỗ Trung K đang chơi điện tử tại quán, thấy nhóm Đỗ Trung K đi đánh nhau nên cũng đi cùng.
Khi đi đến quán Internet, Nguyễn Ngọc A mang theo 02 súng bắn hơi do Ngọc A mua linh kiện trên mạng như ống nhựa, keo, đầu đánh lửa và tự lắp ráp thành 02 khẩu súng bắn đạn bi, sử dụng hơi cồn để trong bao tải đưa cho Nguyễn Ngọc N và Nguyễn Việt A (A) mỗi người 01 khẩu súng để sử dụng đi đánh nhau. Nhóm Đỗ Trung K cùng nhau đi đến khu vực bụi cây gần bờ ao nhà máy xử lý rác thải thuộc thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc lấy thêm hung khí gồm: 06 tuýp hàn dao, 01 kiếm và 01 tuýp sắt. Số hung khí này do Nguyễn Việt A (A) cất giấu trước đó để sử dụng đi đánh nhau, không nhớ của ai. Nguyễn Việt A (A) xuống rệ đường, lấy trong bụi cỏ vứt ra đường số hung khí trên thì C lấy 01 tuýp sắt và 01 kiếm. Đ, N, Nguyễn Việt A (A), Đỗ Trung K (Việt con), Ngọc A và H mỗi người cầm 01 tuýp sắt hàn dao. Nhóm Đỗ Trung K cùng nhau đến khu vực nhà máy hoa quả thuộc thôn H 1, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc thì gặp Nguyễn D T và Lê Tiến D đang chờ. Dương Thành C để kiếm trên đất thì Lê Tiến D cầm 01 kiếm. Sau đó cả nhóm di chuyển đến gầm cầu vượt Đồng Tâm, Nguyễn Việt A (An Hoà) cầm đưa cho Nguyễn Ngọc A 01 súng hơi cồn. Lúc này, Nguyễn Lê Thế Trung A, PH Văn Đ, Trần Văn H và Nguyễn Đ Trung cũng đi đến đây. Trước đó Trung A được Đỗ Trung K nhắn tin rủ đi đánh nhau, còn PH Văn Đ nghĩ rằng Hoàng Trung K rủ Đ đi chơi, khi đến đây thấy có đông người đem theo hung khí, Đ, Trung, H mới biết là nhóm K chuẩn bị đi đánh nhau. Thấy vậy, PH Văn Đ đưa cho Trần Văn H cầm hộ Đ 01 dùi cui điện màu đen để Đ ngồi trước điều khiển xe tách đoàn đi trước, mục đích tách riêng đoàn vì không muốn đi đánh nhau. Khi đi đến vòng xuyến khu dân cư tỉnh uỷ, đường Lê Hồng Phong, phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên thì Đ phát hiện nhóm Yên Lạc đang đi trên đường Lê Hồng Phong H vào thành phố Vĩnh Yên, do là bạn với Hoàng Trung K, biết nhóm K đang hẹn đánh nhau với nhóm Yên Lạc nên Đ gọi điện cho K nói Đ nhìn thấy nhóm Yên Lạc đang đi vào Vĩnh Yên. Đ không nói cho H và Trung biết việc Đ gọi điện cho K. H và Trung ngồi sau cũng không biết Đ gọi điện cho ai, nội dung cụ thể như thế nào, cũng không hỏi lại Đ về nội dung cuộc điện thoại. Nhìn thấy nhóm Yên Lạc đi đông người mang theo nhiều hung khí, do sợ đánh nhau nên Đ, Trung, H bảo nhau điều khiển xe tránh đi, không đi theo nhóm Yên Lạc, khi nhóm Yên Lạc rẽ vào đường Tô Hiến Thành đi Bệnh viện 109 thì Đ, Trung, H điều khiển xe chở nhau đi theo đường L ra H T50 để tránh va chạm đánh nhau. Khi đó nhóm Đỗ Trung K đang đi trên đường Lý T Kiệt, rẽ trái đi vào đường H Vương (QL2A), rẽ phải đi đường Tô Hiến Thành H đến vòng xuyến khu dân cư Tỉnh Uỷ để tìm đánh nhóm Hoàng Quốc L, nhóm đối tượng đi trên các phương tiện, mang theo hung khí cụ thể như sau:
Xe 1: Nguyễn Đ H điều khiển xe Wave, màu xanh, BKS 88K1-466.xx chở Dương Thành C và Nguyễn Ngọc N. N cầm theo 01 dao hàn tuýp sắt hơn 3m và 01 súng cồn; C cầm 01 tuýp sắt dài khoảng 3m.
Xe 2: Phạm Việt A điều khiển xe BKS 88K1-459.xx (nhưng tháo BKS) chở Vương Văn Đ và Ngô Quốc Đ. Đ cầm theo 01 dao hàn tuýp sắt dài 4m.
Xe 3: Hoàng Trung K điều khiển xe Honda wave màu đen, BKS 88K1- 640.xx (không gắn biển) là xe của Hoàng Trung K chở Nguyễn Việt A (A) cầm theo 01 dao hàn tuýp sắt dài 1,5m.
Xe 4: Nguyễn Việt A (D) điều khiển xe Wave, màu xanh, BKS 88F9-2xxx đimột mình, không mang theo hung khí gì.
Xe 5: Nguyễn Lê Thế Trung A điều khiển xe Wave, màu trắng, BKS 88K1-407.xx màu trắng chở Đỗ Trung K (tức Việt con) cầm 01 phóng lợn dài 1,5m và Nguyễn Ngọc A cầm 01 dao hàn tuýp sắt và 01 khẩu súng cồn.
Xe 6: Trần Trung H điều khiển xe Honda Wave màu đen, BKS 88K1- 437.xx chở Nguyễn Việt H cầm theo 01 phóng lợn dài hơn 3m.
Xe 7: Nguyễn D T điều khiển xe Honda Wave màu trắng xanh, BKS 88K1-156.xx chở Lê Tiến D cầm 01 kiếm dài 80cm, rộng 5cm.
Sau khi hẹn nhóm Đỗ Trung K đánh nhau tại cổng chào Yên Lạc thì Hoàng Quốc L gặp Trịnh Đ Dương, sinh ngày 03/12/2007, trú tại: Ngõ 5, đường Nguyễn Viết Xuân, phường Đ, thành phố Vĩnh Yên và rủ Trịnh Đ Dương đi đánh nhau thì Dương đồng ý. Sau đó Hoàng Quốc L sử dụng số điện thoại 0346.210.xxx gắn trong điện thoại Iphone 8, màu đen của Hoàng Quốc L gọi điện vào số điện thoại 0343.468.xxx gắn trong điện thoại Iphone XS, màu hồng rủ Hà Văn N; nhắn tin cho Dương Đ M, sinh ngày 16/12/2006, trú tại: Khu 2 Đ, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc qua số điện thoại 09127648xx gắn trong điện thoại Iphone XS màu hồng; Hoàng Quốc L sử dụng facebook “Hoang Quoc Lam” lần lượt nhắn tin vào facebook “Nguyên Trí T” của Nguyễn Trí T, sinh ngày 17/3/2006, trú tại: Khu 3 Đ, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; facebook “Bùi Quang T” của Bùi Quang T, sinh ngày 30/10/2006, trú tại: Thôn Cốc L, xã Bình Đ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đăng nhập trên điện thoại Iphone 12 Pro, màu tím không gắn sim; facebook “Vũ LIZ” của Hoàng M Vũ, sinh ngày 24/12/2007, trú tại: TDP Sơn Cao, phường Đ, thành phố Vĩnh Yên đăng nhập trên điện thoại Iphone 6s, màu trắng của Vũ rủ M, T, T, Vũ đi đánh nhau với nhóm Đỗ Trung K, tất cả đều đồng ý.
Dương Đ M tiếp tục nhắn tin vào messenger “Quan B” của Nguyễn Văn Q, sinh ngày 13/5/2005, trú tại: Thôn C, xã Y, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đăng nhập trên điện thoại Iphone XR, không gắn sim màu xanh; Dương Đ M tiếp tục lần lượt gọi messenger “Hứa Gia T” của Phan Đăng T, sinh ngày 30/9/2006, trú tại: Thôn Quyết Tiến, xã Chấn H, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc và Tô Thế Q, sinh ngày 15/5/2007, trú tại: Thôn Báo Vân 2, xã Đồng Văn, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc gắn trong điện thoại VsMark, màu xanh; gọi vào số điện thoại 0363.783.xxx cho Nguyễn D B, sinh ngày 6/9/2006, trú tại: Khu 2 Đ, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc gắn trong điện thoại Iphone 7, màu hồng rủ Nguyễn Văn Q, T, Tố Thế Q, B đi đánh nhau, tất cả đều đồng ý. Sau đó Nguyễn Văn Q nhắn tin vào messenger “Nguyễn Ngoc H” của Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 13/2/2005, trú tại: Thôn Trung An, xã Đại Tự, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, đăng nhập trên điện thoại Iphone X màu đen, không gắn sim rủ H đi đánh nhau, H đồng ý. Sau đó H đến đón Q ra khu vực cổng trường Trung học cơ sở Y, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Tại đây, Q, H gặp Ngô Văn T, sinh ngày 5/10/2006, trú tại: Thôn Tam Kỳ 3, xã Đại Tự, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; Nguyễn D Đ, sinh ngày 15/9/2006, Tạ Hữu K, sinh ngày: 20/10/2006, Nguyễn Đ D, sinh ngày 26/3/2006, cùng trú tại: Thôn Yên Nghiệp, xã Y, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; Đỗ Văn T, sinh ngày 25/10/2006, trú tại: Thôn Yên Đ, xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Q rủ T, Đ, T, K, D đi đánh nhau, tất cả cùng đồng ý. Nguyễn Ngọc H điều khiển xe mô tô BKS 88F1-521.xx chở Nguyễn Văn Q cùng Tạ Hữu K điều khiển xe mô tô BKS 88L1-593.xx chở Nguyễn Đ D; Nguyễn D Đ điều khiển xe chở Đỗ Văn T; Ngô Văn T điều khiển xe đi một mình đến cổng chào Yên Lạc thuộc xã Đồng Cương, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc để tập trung đi đánh nhau.
Khoảng 19h40’ ngày 16/8/2022, Hoàng M Vũ điều khiển xe mô tô BKS 88B1-111.5x chở Hoàng Quốc L, Bùi Quang T điều khiển xe mô tô BKS 88F1- 563.xx chở Dương Đ M đến nhà Nguyễn Trí T. Sau đó Vũ, T, L, M, T cùng nhau đi đến cổng chào Yên Lạc. Lúc sau, Nguyễn D B điểu khiển xe mô tô BKS 35K1-107.xx một mình đến cổng chào Yên Lạc gặp nhóm Hoàng Quốc L.
Lúc này, Hoàng Quốc L vào bụi cỏ ven đường lấy ra 04 hung khí gồm: 01 dao mèo dài khoảng 40 cm có bao gỗ màu vàng là của Hoàng M Vũ cất giấu trước đó sử dụng để đi đánh nhau; 01 T sắt dài khoảng 1m được hàn 01 dao, 1 lưỡi sắc, đầu nhọn dài khoảng 80cm là của Dương Đ M tự chế cất giấu trước đó sử dụng đi đánh nhau; 01 T sắt dài khoảng 2m được hàn 01 dao phay, 1 lưỡi sắc, đầu vuông dài khoảng 40cm và 01 T sắt dài khoảng 3m được hàn 01 dao phay, 1 lưỡi sắc, đầu vuông dài khoảng 40cm là của Hoàng Quốc L tự chế cất giấu trước đó sử dụng đi đánh nhau.
Lúc sau, Tô Thế Q điều khiển xe không có BKS chở Phan Đăng T cầm 01 T đinh ba dài khoảng 1,5m; 01 dao hàn tuýp sắt dài khoảng hơn 2m là của Tô Thế Q tự chế sử dụng đi đánh nhau đến gặp nhóm Hoàng Quốc L tại cổng chào huyện Yên Lạc.
Lúc này, nhóm Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Văn Q cũng đi đến. Do không đủ hung khí nên nhóm của H, Q đi lấy thêm vỏ chai bia để đi đánh nhau. Nguyễn Ngọc H điều khiển xe chở Nguyễn Văn Q đi cùng chỉ chỗ cho Tạ Hữu K, Nguyễn Đức D, Nguyễn Duy Đ, Đỗ Văn T đến vòng xuyến Yên Quán, xã Bình Đ, huyện Yên Lạc lấy 10 vỏ chai bia đã qua sử dụng (không rõ của ai) rồi quay lại cổng chào Yên Lạc gặp nhóm Hoàng Quốc L. Cùng lúc này, Trịnh Văn Dương và Hà Văn N mỗi người điều khiển 01 xe mô tô đi đến cổng chào Yên Lạc gặp nhóm Hoàng Quốc L. Hoàng M Vũ đưa dao mèo cho Hà Văn N sử dụng. Phan Đăng T đưa 01 đinh ba cho Dương Đức M sử dụng, Dương Đức M đưa cho Hoàng Quốc L sử dụng.
Nhóm Hoàng Quốc L đợi tại khu vực cồng chào Yên Lạc đến khoảng 21h00’ cùng ngày không thấy nhóm Đỗ Trung K đến đánh nhau nên cả nhóm cùng nhau đến thành phố Vĩnh Yên tìm kiếm nhóm Đỗ Trung K để đánh, đi trên các phương tiện, mang theo hung khí cụ thể như sau:
Xe 1: Bùi Quang T điều khiển xe mô tô Honda Wave, BKS 88F1-563.xx chở Dương Đ M cầm 01 T sắt dài khoảng 1m được hàn 01 dao, 1 lưỡi sắc, đầu nhọn dài khoảng 80cm.
Xe 2: Nguyễn D B cởi trần, lấy áo bịt mặt điều khiển xe mô tô Yamaha Sirius màu ghi, BKS: 35K1-107.xx chở Nguyễn Trí T cầm 01 T sắt dài khoảng 2m được hàn 01 dao phay, 1 lưỡi sắc, đầu vuông dài khoảng 40cm.
Xe 3: Hoàng M Vũ điều khiển xe mô tô Honda wave màu đen, BKS 88B1- 111.5x nhưng không gắn biển chở Hoàng Quốc L cầm theo 01 T đinh ba dài khoảng 1,5m.
Xe 4: Trịnh Đ Dương điều khiển xe mô tô Honda Wave màu xanh, BKS 88F1-474xx một mình cầm 01 vỏ chai bia.
Xe 5: Hà Văn N điều khiển xe mô tô Honda wave màu xanh than, BKS 88B1-339.xxmột mình cầm 01 dao mèo dài khoảng 60cm.
Xe 6: Tô Thế Q cởi trần, lấy áo bịt mặt điều khiển xe mô tô Honda wave màu xanh da trời không có BKS chở Phan Đăng T cởi trần, lấy áo bịt cầm 01 dao hàn tuýp sắt dài khoảng hơn 1,5m.
Xe 7: Nguyễn Ngọc H cởi trần lấy áo bịt mặt điều khiển xe mô tô Honda wave, BKS 88F1-521.xx chở theo Nguyễn Văn Q cầm 01 T sắt dài khoảng 3m được hàn 01 dao phay, 1 lưỡi sắc, đầu vuông dài khoảng 40cm.
Xe 8: Ngô Văn T cởi trần, lấy áo bịt mặt điều khiển xe mô tô Honda Wave, màu đỏ, không rõ BKS, cầm theo 01 vỏ chai bia.
Xe 9: Tạ Hữu K điều khiển xe mô tô Honda Wave, màu đen, BKS 88L1- 593.xx chở Nguyễn Đ D cầm theo 3 vỏ chai bia.
Xe 10: Nguyễn D Đ cởi trần, lấy áo bịt mặt điều khiển xe mô tô Honda Wave, màu vàng, không có BKS chở Đỗ Văn T cởi trần, lấy áo bịt mặt cầm 03 vỏ chai bia.
Nhóm Hoàng Quốc L đi trên đường Lê Hồng Phong đến vòng xuyến thuộc phường T, thành phố Vĩnh Yên thì rẽ trái đi vào đường Tô Hiến Thành H đi Cầu Oai thuộc phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên.
Nhóm Đỗ Trung K và Hoàng Quốc L đi đến ngã 3 đi Bệnh viện Q y 109 thì 02 nhóm gặp nhau. Hoàng Trung K điều khiển xe chở Nguyễn Việt A (A) và Nguyễn D T chở Lê Tiến D đi trước, các xe theo sau nhau. Nguyễn Việt A (A) chém, ném tuýp về phía xe của Tô Thế Q điều khiển chở Phan Đăng T và xe của Bùi Quang T chở Dương Đ M nhưng không trúng. Tô Thế Q điều khiển xe chở Phan Đăng T; Bùi Quang T điều khiển xe chở Dương Đ M cũng dùng hung khí là 01 T sắt dài khoảng 01m, được hàn 01 lưỡi dao sắc đầu nhọn dài khoảng 80cm, 01 dao hàn tuýp sắt dài hơn 1,5m chém về phía xe Hoàng Trung K điều khiển xe chở Nguyễn Việt A (A), Nguyễn D T điều khiển xe chở Lê Tiến D nhưng không trúng. Nhóm Hoàng Quốc L gồm: Xe của Ngô Văn T; xe của Nguyễn D Đ chở Đỗ Văn T, xe của Tạ Hữu K chở Nguyễn Đ D; xe của Trịnh Đ Dương cũng ném vỏ chai bia; xe của Nguyễn D B chở Nguyễn Trí T; xe của Nguyễn Ngọc H chở Nguyễn Văn Q, xe của Hoàng M Vũ chở Hoàng Quốc L cầm dao hàn tuýp, đinh ba chém, chọc về phía nhóm Đỗ Trung K, nhóm K bị dồn đuổi thì bỏ chạy về các H. Nguyễn Đ H điều khiển xe chở Dương Thành C cầm tuýp sắt và Nguyễn Ngọc N cầm dao hàn tuýp sắt, 01 súng cồn dồn đuổi; xe của Nguyễn Lê Thế Trung A điều khiển chở Đỗ Trung K (Việt con) cầm 01 dao hàn tuýp, Nguyễn Ngọc A cầm 01 dao hàn tuýp và 01 súng cồn nhắm bắn dồn đuổi; xe của Phạm Việt A chở Vương Văn Đ, xe của Trần Trung H chở Nguyễn Việt H dùng dao hàn tuýp cùng Nguyễn Việt A (D) dồn đuổi nhóm Hoàng Quốc L chạy về H cổng chào Yên Lạc. Hà Văn N quay xe bỏ chạy thì bị ngã nên bỏ xe chạy vào số nhà 25 đường Tô Hiến Thành, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên của anh Hoàng Anh Tú, sinh năm 1994, trú tại: TDP Đông H, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên để trốn nên C, Đ, Đỗ Trung K cầm tuýp sắt đập vào xe máy BKS 88B1-339.xx của Hà Văn N bỏ lại. Xe của Trần Trung H điều khiển chở Nguyễn Việt H đuổi theo nhóm Hoàng Quốc L một đoạn thì bị ngã xe dẫn đến tuýp hàn dao do H cầm trên tay đâm rách chân trái của H, khiến H bị thương tích. Số N giới còn lại dồn đuổi nhóm Hoàng Quốc L không kịp nên quay lại H đường đi Cầu Oai. Thấy H bị thương tích nên Trần Trung H, Lê Tiến D, Nguyễn D T đưa H đến Bệnh viện Lạc Việt cấp cứu điều trị. Khi C, Đ, Đỗ Trung K cầm tuýp sắt đập vào xe máy 88B1-339.xx của Hà Văn N bỏ lại thì lúc này gặp đồng chí Nguyễn Đ Tuân là Cán bộ công an phường Đồng Tâm đi tuần tra nên nhóm Đỗ Trung K bỏ chạy. Vương Văn Đ bỏ 01 tuýp hàn dao trên đường. Sau đó nhóm Đỗ Trung K biết H bị thương tích nên cùng nhau đến Bệnh viện Hữu nghị Lạc Việt.
Thời điểm nhóm T đuổi đánh nhau với nhóm Yên Lạc tại khu vực cổng Bệnh viện 109, thì PH Văn Đ, Nguyễn Đ Trung, Trần Văn H đang ở khu vực T50, không tham gia đánh nhau. Sau đó, được Đỗ Trung K thông báo H bị thương phải vào viện nên H, Đ, Trung cùng đi đến Bệnh viện Lạc Việt hỏi thăm tình hình của H. Từ Bệnh viện Lạc Việt, Nguyễn Đ H hô hào cả nhóm đi tìm nhóm Hoàng Quốc L để đánh tiếp nên Dương Thành C, Đỗ Trung K, Nguyễn Đ H, Nguyễn Ngọc N, Phạm Việt A, Vương Văn Đ, Nguyễn Việt A (D), Hoàng Trung K, Nguyễn Việt A (A), Nguyễn Ngọc A, Ngô Quốc Đ quay lại tìm nhóm Yên Lạc để đánh. Trần Trung H, Lê Tiến D, Nguyễn D T ở lại Bệnh viện cùng H, không tiếp tục tham gia. Lúc này, nhóm Đỗ Trung K đi trước, Nguyễn Lê Thế Trung A, PH Văn Đ, Nguyễn Đ Trung, Trần Văn H sợ tiếp tục xảy ra đánh nhau nên khi đi đến T50 thì Trung A, Đ, Trung, H đi thẳng về nhà, không tham gia tìm kiếm đánh nhóm Hoàng Quốc L. Nhóm Đỗ Trung K đi đến khu vực cổng chào Yên Lạc tìm nhóm Hoàng Quốc L nhưng không thấy ai nên quay về nhà. Nhóm Hoàng Quốc L sau khi bỏ chạy quay lại để cứu Hà Văn N nhưng gặp lực lượng công an nên ra về.
Trên đường bỏ chạy về nhà, Nguyễn Văn Q đưa Nguyễn Ngọc H 01 tuýp hàn dao trước đó cầm đánh nhau, trên đường về nhà H đã ném tuýp dao hàn nhưng không nhớ vị trí; Hoàng M Vũ vứt 01 đinh ba sử dụng để đi đánh nhau trên đường nhưng không nhớ vị trí; Dương Đ M đưa Tô Thế Q 01 tuýp hàn dao trước đó sử dụng để đi đánh nhau, Q đã làm rơi mất trên đường, không nhớ vị trí; Phan Đăng T đưa Tô Thế Q 01 tuýp hàn dao bầu trước đó sử dụng để đi đánh nhau, Q khai nhận cất giấu gần nhà nhưng sau đó bị mất không thu giữ được, Nguyễn Trí T đưa cho Nguyễn Ngọc H 01 T tuýp đường kính 2,5cm, dài 2,5m hàn với dao bầu dài 25cm, đầu nhọn T sử dụng đi đánh nhau.
Đối với 05 tuýp hàn dao và 01 kiếm trước đó Phạm Việt A, Nguyễn Việt H, Hoàng Trung K, Nguyễn Ngọc N, Lê Tiến D, Đỗ Trung K sử dụng để đi đánh nhau, các đối tượng khai nhận trên đường dồn đuổi đánh và đi về nhà đã làm rơi và không nhớ rõ vị trí.
* Vật chứng tạm giữ, thu giữ:
+ Thu giữ được tại hiện trường 01 tuýp sắt dài 2,55m, phần chuôi là 01 ống tuýp sắt đường kính 02cm, dài 2,325m, phần lưỡi là 01 con dao bằng kim loại màu đen không nhọn dài 22,5cm, phần rộng nhất lưỡi dao rộng 0,7cm do Vương Văn Đ ném lại; 01 dao nhọn dài 43cm, có phần chuôi bằng gỗ bọc kim loại màu vàng dài 15cm, phần lưỡi dao có đầu nhọn, 01 phần lưỡi sắc, phần rộng nhất lưỡi dao rộng 5cm của Hà Văn N; Thu giữ của Hà Văn N 01 xe mô tô Honda Wave, màu xanh đen, BKS 88B1-339.xx, xe không có gương chiếu hậu, phần nhựa gắn bảng điều khiển đề ở tay lái bên phải bị vỡ, N sử dụng chiếc xe trên để đi đánh nhau.
+ Nguyễn Ngọc H giao nộp 01 T tuýp đường kính 2,5cm, dài 2,5m hàn với dao bầu dài 25cm, đầu nhọn do Nguyễn Trí T sử dụng đi đánh nhau.
+ Ngoài ra, quá trình điều tra, tạm giữ của Hoàng Quốc L 01 xe mô tô Honda Wave, màu đen bạc BKS 88 B1-111.5x do Hoàng M Vũ điều khiển, tạm giữ của Nguyễn Ngọc H 01 xe mô tô Honda Wave, màu xanh- đen – bạc BKS 88F1-521.xx và 01 đăng ký xe,tạm giữ của Phan Đăng T 01 xe mô tô Honda Wave, màu xanh, không gắn BKS do Tô Thế Q điều khiển đi đánh nhau, tạm giữ của Nguyễn D B 01 xe mô tô Yamaha Sirius, màu đen đỏ, BKS: 35K1- 107.xx, tạm giữ của Bùi Quang T 01 xe mô tô Honda Wave, màu đen bạc, BKS 88F1- 563.xx và 01 đăng ký xe máy BKS 88F1-563.xx,tạm giữ của Trịnh Đ Dương 01 xe mô tô nhãn H Honda Wave, màu xanh đen bạc, BKS 88F1- 474xx, Ngô Quốc Đ giao nộp 01 mô tô Honda Wave, màu đen bạc, BKS 88K1-466.xx sử dụng đi đánh nhau.
+Tạm giữ của Hoàng Quốc L 01 điện thoại Iphone 8 plus, màu đen, Phan Đăng T giao nộp 01 điện thoại VsMart, màu xanh không gắn sim,Nguyễn D B giao nộp 01 điện thoại Iphone 7S màu đồng bị vỡ góc trên bên phải màn hình,Bùi Quang T giao nộp 01 điện thoại Iphone 12 Pro max màu xanh không gắn sim, Hà Văn N giao nộp 01 điện thoại Iphone XS, màu vàng gắn sim 0343.468.xxx,Dương Đ M giao nộp 01 điện thoại Iphone XS max màu vàng,Nguyễn Văn Q giao nộp 01 điện thoại Iphone XR, màu xanh, không gắn sim,các đối tượng sử dụng liên lạc đi đánh nhau.
+Tạm giữ của Vương Văn Đ 01 xe mô tô Honda Wave, BKS 88K1- 459.xx,Nguyễn Việt A (D) giao nộp 01 xe mô tô nhãn H Star, BKS 88F9- 2xxx,Trần Trung H giao nộp 01 xe mô tô Honda Wave, màu đen bạc, BKS 88K1-437.xx kèm theo chứng nhận đăng ký xe,Lê Tiến D giao nộp 01 xe mô tô Honda Wave, màu trắng đen BKS 88K1-156.xx, anh PH Văn Anh, sinh năm 1973, trú tại: Thôn Tân Thịnh, xã Hợp Thịnh, huyện T là bố đẻ của PH Văn Đ tự nguyện giao nộp 01 xe mô tô Honda Wave, màu đen xanh bạc BKS 88K1-439.xx kèm giấy đăng ký xe, 01 căn cước C dân của Đ,Nguyễn Lê Thế Trung A giao nộp 01 xe mô tô Honda Wave, màu trắng đen, BKS 88K1-407.xx và 01 đăng ký xe, các đối tượng sử dụng phương tiện trên để điều khiển đi đánh nhau.
+ Lê Tiến D giao nộp 01 tuýp sắt dài 3m do Dương Thành C sử dụng đập phá xe của Hà Văn N, Nguyễn Ngọc N và Nguyễn Ngọc A giao nộp 02 súng hơi cồn sử dụng đi đánh nhau.
+ Anh PH Văn Anh tự nguyện giao nộp 01 điện thoại Iphone X gắn sim 0823.421.xxx Đ sử dụng liên lạc đi đánh nhau và 01 dùi cui điện.
* Kết quả khám nghiệm phương tiện, Đ giá tài sản:
Tiến hành khám nghiệm xe mô tô nhãn H Honda wave, biển kiểm soát 88B1-339.xx: Cánh yếm phải bị nứt vỡ kích thước trên diện (20 x 30) cm, bề mặt có nhiều đám cà xước. Ốp nhựa mặt đồng hồ và cụm C tắc đều bị hư hỏng vỡ nứt. Ốp nhựa sườn xe phía bên phải, phía trên lốc máy bị vỡ nứt kích thước trên diện (15x5) cm. Vỏ yếm bị rách tạo thành lỗ thủng kích thước trên diện (10x7) cm.
Ngày 12/9/2022, Cơ quan CSĐT công an thành phố Vĩnh Yên ra Yêu cầu Đ giá giá trị thiệt hại xe mô tô nhãn H Honda Wave, BKS 88B1-339.xx mà Hà Văn N sử dụng bị đập phá. Tại Kết luận Đ giá tài sản số 129 ngày 15/9/2022 của Hội đồng Đ giá tài sản trong Tố tụng hình sự - UBND thành phố Vĩnh Yên kết luận: Tổng giá trị thiệt hại của chiếc xe là: 1.383.000đ (một triệu ba trăm tám mươi ba nghìn đồng chẵn).
* Kết quả trưng cầu giám Đ:
- Ngày 01/9/2022, Cơ quan CSĐT công an thành phố Vĩnh Yên ra Quyết Đ trưng cầu giám Đ Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc, giám Đ, trích xuất cammera ghi lại nội dung diễn biến vụ án. Tại bản Kết luận giám Đ số 2948 ngày 01/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Trích xuất được 25 hình ảnh theo yêu cầu giám Đ, trong đó xuất hiện hình ảnh một số người ngồi trên xe hai bánh cầm theo vật dài, trong đó có 01 xe máy bị đổ ra lòng đường, một số người đi xe hai bánh tới, cầm theo vật dạng T dài, dùng T dài đập vào xe máy đang đổ trên đường, sau đó những người này rời đi.
- Ngày 19/9/2022, Cơ quan CSĐT công an thành phố Vĩnh Yên ra Quyết Đ trưng cầu giám Đ gửi Viện khoa học hình sự - Bộ C An, giám Đ tính năng, tác dụng của 02 súng cồn mà Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc A sử dụng đi đánh nhau. Tại bản Kết luận giám Đ số 6176 ngày 26/9/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận: 02 mẫu vật gửi giám Đ là súng tự chế bắn bi kim loại bằng lực đẩy của khí cồn, thuộc vũ khí có tính năng tác dụng tương tự như súng săn, không phải vũ khí Q dụng.
- Kết quả xác minh thương tích của Nguyễn Việt H: Vết thương mặt sau cẳng chân trái dài 15cm, rách da lộ gân cơ bụng chân, vết thương này là do H tự gây nên. Vì vậy, H không có yêu cầu đề nghị gì.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2023/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2023 và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số 46/2023/TB-TA ngày 16/11/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết Đ:
Tuyên bố các bị cáo Đỗ Trung K, Hà Văn N, Dương Thành C, Nguyễn Việt A (A), Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Trí T, Nguyễn Việt A (D), Hoàng Trung K, Nguyễn Việt H, Nguyễn Đ D, Nguyễn Ngọc H, Trần Trung H, Nguyễn Lê Thế Trung A, Nguyễn D T phạm tội “Gây rối trật tự C cộng”.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trí T 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Trung K 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt H 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
Ngày 29/10/2023 bị cáo Hoàng Trung K và Nguyễn Việt H có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.
Ngày 10/11/2023 bị cáo Nguyễn Văn Q có đơn kháng cáo giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 06/11/2023 bị cáo Hà Văn N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 16/3/2024 bị cáo Hà Văn N có đơn xin rút đơn kháng cáo.
Ngày 02/11/2023 bị cáo Nguyễn Trí T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Trí T xin rút đơn kháng cáo. Người đại diện hợp pháp của bị cáo T nhất trí với việc xin rút đơn kháng cáo của bị cáo T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Q, K, H giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Q phát biểu quan điểm: Bi cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, khả năng nhận thức pháp luật hạn chế nên mới phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Trung K phát biểu quan điểm: Bi cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, khả năng nhận thức pháp luật hạn chế nên mới phạm tội. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại cấp phúc thẩm bị cáo K nộp tài liệu mới là đơn xin xác nhận và nộp Huân chương kháng chiến hạng ba của ông Nguyễn Đ Thuận là ông Ngoại của bị cáo có C với cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Việt H phát biểu quan điểm: Bi cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, khả năng nhận thức pháp luật hạn chế nên mới phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo Nguyễn Việt H cũng có ông Ngoại là ông Trần Văn Thuổi có C với cách mạng là thương binh hạng ¾, ông được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì. H có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù giam bị cáo là quá nghiêm khắc. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc giữ quyền C tố tại phiên toà phúc thẩm phát biểu quan điểm:
- Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Q, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 144/2023/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đối với bị cáo Nguyễn Văn Q. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Gây rối trật tự C cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
- Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hoàng Trung K và Nguyễn Việt H, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 144/2023/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đối với hai bị cáo này. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; khoản 1, 2, 5 Điều 65; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
- Xử phạt bị cáo Hoàng Trung K 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (ba) năm 04 (bốn) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm về tội “Gây rối trật tự C cộng”. Giao bị cáo Hoàng Trung K cho cho Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt H 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (ba) năm 04 (bốn) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm về tội “Gây rối trật tự C cộng”. Giao bị cáo Nguyễn Việt H cho Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Trí T. Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2023/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc có H lực pháp luật đối với bị cáo.
- Các quyết Đ khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên không đề nghị xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ như sau:
[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong thời hạn luật Đ nên được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Ngày 06/11/2023 bị cáo Hà Văn N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 16/3/2024 bị cáo Hà Văn N có đơn xin rút đơn kháng cáo nên ngày 18/3/2024 Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết Đ đình chỉ xét xử phúc thẩm số 01/2024/HSPT-QĐ đối với kháng cáo của bị cáo Hà Văn N.
[2] Qua xét hỏi và tranh luận C khai tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận T bộ hành vi phạm tội như nội dung của bản án sơ thẩm. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn T phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận:
Xuất phát từ mâu thuẫn cá nhân giữa Hà Văn N và Dương Thành C nên Hoàng Quốc L (bạn N) và Đỗ Trung K (bạn C), sau khi được N và C kể chuyện đã hẹn nhau tối ngày 16/8/2022 tập trung tại cổng chào Yên Lạc để đánh nhau. Sau khi hẹn, cả K và L đều cùng rủ rê thêm một số đối tượng khác tham gia đánh nhau. Trong đó nhóm của L có 17 đối tượng gồm: Hoàng Quốc L, Hà Văn N, Bùi Quang T, Dương Đ M, Nguyễn D B, Nguyễn Trí T, Hoàng M Vũ, Trịnh Đ Dương, Tô Thế Q, Phan Đăng T, Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Văn Q, Ngô Văn T, Tô Hữu K, Nguyễn Đ D, Nguyễn D Đ và Đỗ Văn T; nhóm của K có 16 đối tượng, gồm: Đỗ Trung K, Dương Thành C, Nguyễn Đ H, Nguyễn Ngọc N, Phạm Việt A, Vương Văn Đ, Ngô Quốc Đ, Hoàng Trung K, Nguyễn Việt A (A), Nguyễn Việt A (D), Nguyễn Lê Thế Trung A, Nguyễn Ngọc A, Trần Trung H, Nguyễn Việt H, Nguyễn D T và Lê Tiến D.
Tất cả các đối tượng trên di chuyển trên 17 xe máy, mang theo các hung khí nguy hiểm như dao hàn tuýp sắt, đinh ba, dao mèo, vỏ chai bia, súng cồn, phóng lợn, kiếm (trong đó nhóm Đỗ Trung K di chuyển trên 7 xe máy, mang theo 10 hung khí nguy hiểm; còn nhóm Hoàng Quốc L di chuyển trên 10 xe máy, mang theo 14 hung khí nguy hiểm).
Hai nhóm di chuyển từ cổng chào Yên Lạc và cầu vượt Đồng Tâm đến đường Tô Hiến Thành, gần ngã 3 Bệnh viện 109 thì gặp nhau. Khi nhìn thấy nhau, hai bên lao vào chém, ném tuýp sắt, chai bia về phía nhau nhưng không trúng. Hai nhóm dồn đuổi đánh nhau đến khi gặp đồng chí Nguyễn Đ Tuân - Cán bộ công an phường Đồng Tâm đi tuần tra nên bỏ chạy. Quá trình dồn đuổi đánh nhau, Hà Văn N bị ngã xe nên đã bỏ xe, chạy trốn; xe máy của N bị Dương Thành C, Đỗ Trung K, Vương Văn Đ cầm tuýp sắt đập làm hư hỏng, kết quả Đ giá thiệt hại 1.383.000đ; còn xe của Trần Trung H chở Nguyễn Việt H bị ngã, tuýp hàn dao do H cầm trên tay đâm rách chân trái của H, khiến H bị thương tích.
Việc các đối tượng di chuyển trên nhiều xe mô tô với tốc độ cao khoảng 60-70km/h, mang theo nhiều hung khí nguy hiểm tìm đánh nhau suốt quãng đường dài khoảng 10km, vào khoảng 20h30’ trên tuyến đường có nhiều phương tiện tham gia giao thông, có đông dân cư sinh sống đã gây hoang mang, lo sợ cho người dân, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại khu vực.
Tại phiên tòa, các bị cáo cũng hoàn T thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo tội “Gây rối trật tự C cộng”, theo quy Đ tại khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự là không oan, sai.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Trí T tự nguyện xin rút kháng cáo. Người đại diện hợp pháp của bị cáo cũng nhất trí quan điểm rút kháng cáo của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử cần đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trí T, bản án sơ thảm có H lực đối với T.
[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn Q: Bị cáo chưa đến 18 tuổi và không có tiền án, tiền sự đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy Đ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội trong vụ án này nhưng trước đó không tu dưỡng rèn luyện đã có hành vi tàng trữ trái phép vũ khí thô sơ nên đến ngày ngày 15/5/2023 Nguyễn Văn Q bị Chủ tịch UBND huyện Yên Lạc xử phạt vi phạm hành chính 7.500.000 đồng về hành vi “Tàng trữ trái phép vũ khí thô sơ” tại Quyết Đ xử phạt vi phạm hành chính số 1409/QĐ-XPVPHC. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân, vai trò, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Gây rối trật tự C cộng” là đúng pháp luật. Không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn Q, càn giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với Q.
[5] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của Hoàng Trung K và Nguyễn Việt H: Trong vụ án này các bị cáo đều Hoàng Trung K và Nguyễn Việt H đều chưa đến 18 tuổi và không có tiền án, tiền sự, đều phạm tội lần đầu, quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy Đ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo K nộp tài liệu mới là đơn xin xác nhận và nộp Huân chương kháng chiến hạng ba của ông Nguyễn Đ Thuận là ông Ngoại của bị cáo có C với cách mạng, nên bị cáo được hưởng thêm một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn Việt H cũng có ông Ngoại là ông Trần Văn Thuổi có C với cách mạng là thương binh hạng ¾, được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì nên H được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng các bị cáo K, H có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt, cho bị cáo được hưởng án treo, có thời gian thử thách có sự giám sát của chính quyền địa phương như quan điểm đề xuất của Kiểm sát viên tại phiên tòa cũng không làm ảnh hưởng đến việc đấu tranh phòng chống tội phạm và cũng đủ giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội. Cần sửa bản án sơ thẩm đối với K và H.
[6] Các quyết Đ khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có H lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. [7] Về án phí hình sự phúc thẩm:
- Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Q không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Văn Q phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
- Kháng cáo của bị cáo Hoàng Trung K và Nguyễn Việt H được chấp nhận nên các bị cáo Hoàng Trung K và Nguyễn Việt H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
- Bị cáo Nguyễn Trí T rút đơn kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Trước khi xét xử phúc thẩm, ngày 01/11/2023 mẹ bị cáo Nguyễn Trí T là bà Phạm Thị Năm nộp 200.000đ hộ bị cáo T tại Biên lại thu tiền số 0002766 ngày 01/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc, cần trừ vào tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo T.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ vào điểm a, b, đ khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trí T. Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2023/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Nguyễn Trí T kể từ ngày đình chỉ xét xử phúc thẩm (ngày 11/4/2024).
3. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Q; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Trung K và Nguyễn Việt H; sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2023/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
3.1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
3.2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; khoản 1, 2, 5 Điều 65; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
- Xử phạt bị cáo Hoàng Trung K 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (ba) năm 04 (bốn) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Giao bị cáo Hoàng Trung K cho Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt H 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (ba) năm 04 (bốn) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Giao bị cáo Nguyễn Việt H cho Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
4. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui Đ tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết Đ buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Trí T, Hoàng Trung K, Nguyễn Việt H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Xác nhận mẹ bị cáo Nguyễn Trí T là bà Phạm Thị N đã nộp hộ bị cáo Nguyễn Trí T 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tại Biên lại thu tiền số 0002766 ngày 01/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc. Bị cáo Nguyễn Trí T đã nộp đủ 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về án phí hình sự phúc thẩm:
- Bị cáo Nguyễn Văn Q phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
- Bị cáo Hoàng Trung K, Nguyễn Việt H và Nguyễn Trí T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
7. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 33/2024/HS-PT về tội gây rối trật tự công cộng
Số hiệu: | 33/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về