TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 97/2021/HS-ST NGÀY 29/11/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 29 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án N dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 120/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 138/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:
1/ Bùi Văn T, sinh năm 1988, tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: thị trấn Định Quán, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: thợ cơ khí; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Ngọc Sắc, sinh năm 1947 và bà Vũ Thị Cúc, sinh năm 1947; có vợ: Đoàn Thị Ngọc Trinh, sinh năm 1991; con: 02 người, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không; N thân: không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 03/4/2021 và được áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
2/ Lưu Vinh H, sinh năm 1997, tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: xã Phú Vinh, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: H; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Tư Tuyền, sinh năm 1962 và bà Chí A Mùi, sinh năm 1957; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; N thân: không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 03/4/2021 và được áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
3/ Đoàn Văn C, sinh năm 1972, tại Long An.
Nơi cư trú: huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn Triệu, sinh năm 1930 và bà Phạm Thị Mật (đã chết); có vợ: Nguyễn Thị Thanh Thuý, sinh năm 1970; con: 02; lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 03/4/2021 và được áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
4/ Phạm Hoàng P, sinh năm 1998, tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: xã Phú Vinh, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Tấn Lượm, sinh năm 1953 và bà Võ Thị Hà, sinh năm 1961; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 03/4/2021 và được áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
5/ Đoàn Thanh N, sinh năm 1987, tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: xã Phú Vinh, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn Kh, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1966; có vợ: Trang Thị Ngọc X, sinh năm 1990; con: 04; lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 03/4/2021 và được áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
6/ Lê Thị H, sinh năm 1972, tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Nơi cư trú: xã Phú Vinh, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: biết ký và ghi họ tên; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn B, sinh năm 1931 (đã chết) và bà Trương Thị Đ, sinh năm 1931 (đã chết); có cH: Lê Văn S, sinh năm 1968; con: 04; lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 03/4/2021 và được áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
7/ Nguyễn Thị Thu R, sinh năm 1982, tại Long An.
Nơi cư trú: xã Phú Vinh, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: biết ký và ghi họ tên; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị Cẩm, sinh năm 1958; có chồng: Lê Văn L, sinh năm 1978; con: 02; lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 03/4/2021 và được áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
8/ Nguyễn Thị H, sinh năm 1966, tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Nơi cư trú: xã Phú Vinh, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: biết ký và ghi họ tên; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ln, sinh năm 1936 (đã chết) và bà Trần Thị K, sinh năm 1937; có chồng: Đoàn Văn Kh, sinh năm 1966; con: 04; lớn sinh năm 1987, nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 03/4/2021 và được áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Pên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ, ngày 03/4/2021, tại nhà bà Nguyễn Thị H thuộc ấp Suối Soong 2, xã Phú Vinh, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai, các bị cáo Bùi Văn T (con rể của bà H), Đoàn Văn C (cháu cH bà H), Đoàn Thanh N (con trai bà H), Lưu Vinh H, Phạm Hoàng P, Nguyễn Thị Thu R, Lê Thị H và một số đối tượng khác không rõ N thân lai lịch, đã rủ nhau đánh bài “cào liêng” thắng thua bằng tiền.
Cách thức đánh bạc bằng bài “cào liêng” như sau: Trước mỗi ván bạc, mỗi người chơi phải bỏ ra giữa chiếu bạc số tiền 20.000 đồng gọi là tiền đường, tiền tố bài từ 20.000 đồng đến 200.000 đồng, số vòng tố không giới hạn đến khi nào những người chơi úp bài hết thì người cuối cùng thắng toàn bộ số tiền giữa chiếu bạc, hoặc những người chơi khác chỉ theo tiền tố chứ không tố thêm thì cùng lật bài xem điểm tính kết quả thắng thua. Điểm bài được tính bằng tổng số nút trên các lá bài (các lá J, Q, K được tính 10 nút tương đương 10 điểm), thứ tự bài từ thấp đến bài cao như sau: Bù (10 nút), từ 01 đến 09 nút, ảnh (03 tiên) và xam (03 lá bài giống nhau).
Trong khi các đối tượng đánh bạc thì có Đoàn Thị Ngọc Trinh ngồi xem. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, Công an huyện Định Quán phối hợp Công an xã Phú Vinh bắt quả tang Đoàn Văn C, Lê Thị H, Lưu Vinh H, Đoàn Thanh N, Phạm Hoàng P, Nguyễn Thị Thu R, Bùi Văn T, Đoàn Thị Ngọc Trinh đang đánh bạc thắng thua bằng tiền.
Khi tham gia đánh bạc, Phạm Hoàng P mang theo 300.000 đồng dùng để đánh bạc, quá trình đánh bạc P thắng 2.080.000 đồng, khi bị bắt quả tang, Công an thu giữ tại vị trí P ngồi là 180.000 đồng và thu trong người P là 2.200.000 đồng.
Lưu Vinh H mang theo 1.970.000 đồng dùng để đánh bạc, quá trình đánh bạc, H thua 70.000 đồng, nên khi bị bắt quả tang, Công an thu giữ tại vị trí H ngồi số tiền 1.900.000 đồng.
Bùi Văn T mang theo 2.500.000 đồng, quá trình đánh bạc, T thắng 200.000 đồng, khi Công an bắt quả tang, thu giữ tại vị trí T ngồi trên chiếu bạc là 1.300.000 đồng, thu giữ trong người T 1.400.000 đồng.
Đoàn Văn C mang theo 2.000.000 đồng, nhưng chỉ sử dụng 1.000.000 đồng vào việc đánh bạc, còn lại 1.000.000 đồng dùng để sử dụng riêng. Quá trình đánh bạc, C thắng 400.000 đồng, khi Công an bắt quả tang, thu giữ tại vị trí C ngồi số tiền 1.400.000 đồng, thu giữ trong người C số tiền 1.000.000 đồng.
Đoàn Thanh N mang theo 200.000 đồng, quá trình đánh bạc N thua 100.000 đồng, khi Công an bắt quả tang, thu giữ tại vị trí N ngồi số tiền 100.000 đồng.
Lê Thị H mang theo 180.000 đồng dùng để đánh bạc, quá trình đánh bạc H thua 20.000 đồng, khi bị bắt quả tang, Công an thu giữ của H 160.000 đồng.
Lê Thị Thu R mang theo 180.000 đồng dùng để đánh bạc, quá trình đánh bạc, R thua 140.000 đồng, khi Công an bắt quả tang, thu giữ của Lê Thị Thu R số tiền 40.000 đồng tại vị trí R ngồi trên chiếu.
Nguyễn Thị H tuy không trực tiếp tham gia đánh bạc, nhưng H sử dụng nhà của mình cho các đối tượng đánh bạc, đồng thời cung cấp công cụ đánh bạc gồm bài, thảm và ca để các đối tượng đánh bạc và tiến hành thu tiền xâu, mỗi lượt 10.000 đồng đến 20.000 đồng. Tính đến khi bị Công an bắt quả tang, thu giữ trong ca nhựa số tiền xâu 80.000 đồng. Căn cứ Nghị quyết 01/2000 thì hành vi của Nguyễn Thị H đồng phạm về tội “đánh bạc” với vai trò giúp sức.
Ngoài số tiền thu giữ của các bị cáo đem theo đánh bạc là 6.410.000 đồng thì còn số tiền 2.510.000 đồng của một số đối tượng đánh bạc bỏ lại trên chiếu bạc, nhưng trước khi Công an bắt quả tang đã bỏ đi mất và không xác định được N thân lai lịch cũng như không xác định được số tiền cụ thể của đối tượng nào. Vì vậy, tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc là 8.920.000 đồng.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Định Quán, các đối tượng Nguyễn Thị H, Bùi Văn T, Đoàn Văn C, Phạm Hoàng P, Nguyễn Thị Thu R, Lê Thị H, Đoàn Thanh N, Lưu Vinh H đã khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.
Vật chứng thu giữ trong vụ án:
- Tiền mặt 12.220.000 đồng. trong đó:
+ Tiền thu trên chiếu bạc là 5.160.000 đồng. Cụ thể: tại chiếu bạc 160.000 đồng chưa phân thắng thua (đây là tiền “đường”), 80.000 đồng trong ca nhựa màu trắng (đây là tiền “xâu”), vị trí của C ngồi số tiền 1.400.000 đồng, vị trí của H ngồi là 1.900.000 đồng, vị trí của P ngồi là 180.000 đồng, vị trí của N ngồi là 100.000 đồng, vị trí của T ngồi là 1.300.000 đồng và tại vị trí của R ngồi là 40.000 đồng.
+ Tiền thu giữ trong người các đối tượng là 7.060.000 đồng. Cụ thể: trong người C 1.000.000 đồng, trong người P 2.200.000 đồng, trong người H 160.000 đồng, trong người T 1.400.000 đồng, trong người Trinh 2.300.000 đồng.
- 04 điện thoại của C, N, Trinh và R.
- Dụng cụ đánh bạc gồm: 01 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 tấm thảm kích thước 40cm x 80cm, 01 ca nhựa màu trắng.
Tại Cáo trạng số 99/CT-VKSĐQ ngày 06 tháng 10 năm 2021 Viện kiểm sát N dân huyện Định Quán đã truy tố các bị cáo Bùi Văn T, Đoàn Văn C, Phạm Hoàng P, Nguyễn Thị Thu R, Lê Thị H, Đoàn Thanh N, Lưu Vinh H, Nguyễn Thị H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, Điều 321 của Bộ luật hình sự.
Tại Pên tòa, đại diện Viện kiểm sát N dân huyện Định Quán tham gia Pên tòa trình bày lời luận tội và giữ nguyên Quyết định đã truy tố; Sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều luật, mức hình phạt và các biện pháp tư pháp, cụ thể như sau:
Căn cứ khoản 1, Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 và đề nghị:
- Xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 22.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.
- Xử phạt bị cáo Đoàn Văn C từ 22.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.
- Xử phạt bị cáo Phạm Hoàng P từ 20.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu R từ 20.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng.
- Xử phạt bị cáo Lê Thị H từ 20.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng.
- Xử phạt bị cáo Đoàn Thanh N từ 20.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng.
- Xử phạt bị cáo Lưu Vinh H từ 22.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 20.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 8.920.000 đồng.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 tấm thảm kích thước 40cm x 80cm, 01 ca nhựa màu trắng.
Tại Pên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội. Các bị cáo thống nhất về tội danh, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát vừa đề nghị áp dụng đối với các bị cáo và không có ý kiến hay tranh luận gì khác.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét thấy lời khai nhận tội tại phiên tòa của các bị cáo phù hợp với vật chứng của vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Cáo trạng số 99/CT-VKSĐQ ngày 06 tháng 10 năm 2021 Viện kiểm sát N dân huyện Định Quán đã truy tố các bị cáo Bùi Văn T, Đoàn Văn C, Phạm Hoàng P, Nguyễn Thị Thu R, Lê Thị H, Đoàn Thanh N, Lưu Vinh H, Nguyễn Thị H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, Điều 321 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên N gây ra các loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội tại địa phương nói riêng, trong thời gian qua tệ nạn đánh bạc gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội nói chung. Đồng thời, các bị cáo là công dân có đủ nhận thức để hiểu được tác hại của tệ nạn cờ bạc gây ra và những quy định cấm đoán của pháp luật đối với hành vi phạm tội về đánh bạc. Song vì tham lam, vụ lợi nên các bị cáo vẫn bất chấp và cố ý thực hiện hành vi phạm tội nên cần thiết phải đưa các bị cáo ra xét xử và áp dụng hình phạt tương xứng đối với các bị cáo để răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[3] Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, các bị cáo đều có hòan cảnh kinh tế gia đình khó khăn và là lao động chính trong gia đình; các bị cáo H, R, H là phụ nữ và có trình độ học vấn thấp; bị cáo H đang nuôi con nhỏ; bị cáo H là dân tộc thiểu số; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Đây là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn, các bị cáo Bùi Văn T, Đoàn Văn C, Phạm Hoàng P, Nguyễn Thị Thu R, Lê Thị H, Đoàn Thanh N, Lưu Vinh H là người thực hành; Nguyễn Thị H là đồng phạm với vai trò giúp sức. Vì vậy mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo T, C, H là ngang nhau và cao hơn các đồng phạm còn lại; tiếp đến là các bị cáo P, R, H, N là ngang nhau và sau cùng thấp nhất là bị cáo H.
Xét thấy các bị cáo có mối quan hệ gia đình trong đó bị cáo Nguyễn Thị H là mẹ vợ bị cáo Bùi Văn T, Đoàn Thanh N là con trai bị cáo H, Đoàn Văn C là anh em chú bác ruột với bị cáo N, còn lại các bị cáo khác là bạn bè quen biết nhau ở cùng ấp. Số tiền tham gia đánh bạc không lớn, cũng chỉ vì hám lợi trước mắt mà phạm tội, nhưng các bị cáo có nhân thân tốt và phạm tội lần đầu nên còn có khả năng cải tạo giáo dục thành công dân tốt và để tạo điều kiện cho các bị cáo còn nuôi con nhỏ, bên cạnh đó cũng thể hiện sự nhân đạo của pháp luật, nên chỉ cần xử phạt các bị cáo bằng hình phạt là phạt tiền cũng đủ để răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.
[6] Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:
- Số tiền 12.220.000 đồng. Trong đó xác định số tiền 8.920.000 đồng là số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước; số tiền 2.300.000 đồng thu giữ trên người Đoàn Thị Ngọc Trinh và số tiền 1.000.000 đồng thu trên người Đoàn Văn C qua điều tra, xác định các đối tượng không sử dụng vào mục đích đánh bạc nên đã trao trả cho chủ sở hữu là có cơ sở nên không xét.
- 04 điện thoại di động các loại thu giữ của Nguyễn Thị Thu R, Đoàn Thanh N, Đoàn Văn C, Đoàn Thị Ngọc Trinh, qua điều tra xác định các đối tượng không sử dụng điện thoại vào mục đích đánh bạc nên đã trao trả cho chủ sở hữu là có cơ sở nên không xét.
- Đối với Đoàn Thị Ngọc Trinh có hành vi che giấu việc đánh bạc, Công an huyện Định Quán đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Trinh là có cơ sở.
- Đối với các đối tượng đã bỏ về trước khi Công an bắt quả tang, không xác định được N thân lai lịch nên không có cơ sở xử lý.
[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[8] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh đối với bị cáo, hình phạt, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các vấn đề khác trong vụ án.
[9] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Bùi Văn T, Đoàn Văn C, Phạm Hoàng P, Nguyễn Thị Thu R, Lê Thị H, Đoàn Thanh N, Lưu Vinh H, Nguyễn Thị H phạm tội “Đánh bạc”;
Căn cứ khoản 1, Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;
- Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Đoàn Văn C 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Phạm Hoàng P 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu R 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Lê Thị H 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Đoàn Thanh N 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Lưu Vinh H 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 8.920.000 đồng.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 tấm thảm kích thước 40cm x 80cm, 01 ca nhựa màu trắng.
(Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Định Quán để đảm bảo cho việc thi hành án theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/10/2021 và biên lai thu tiền số 0000502 ngày 14/10/2021).
Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
- Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 97/2021/HS-ST
Số hiệu: | 97/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về