TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH T N
BẢN ÁN 83/2021/HS-PT NGÀY 20/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 20 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T N xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 07/2021/TLPT-HS ngày 11 tháng 01 năm 2021, đối với các bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2, Huỳnh Văn S do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 101/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tân C, tỉnh T N.
Bị cáo kháng cáo:
1. Đặng Tùng V (tên gọi khác: Gạt), sinh năm: 1989, tại tỉnh T N; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện N2y: Ấp Tân T, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh T N; nghề nghiệp: Công Nhân; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N2m; tôn giáo: Cao đài; quốc tịch: Việt N2m; con ông Đặng Văn L, sinh năm 1969 và bà Đinh Thị Kim C, sinh năm 1970 là bị can trong vụ án; vợ: Ngô Thị N1, sinh năm 1989; con: 01 người; tiền án, tiền sự: Không.
2. Tô Minh H1 (tên gọi khác: Xù), sinh năm: 1989, tại tỉnh T N; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện N2y: Ấp Tân T, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh T N; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N2m; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N2m; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1967 và bà Thi Thị G, sinh năm 1966; Vợ: Trần Thị Kim Y, sinh năm 1990; Con: Có 01 người; tiền án, tiền sự: Không;
3. Huỳnh Văn S (tên gọi khác: Nhóc Anh), sinh năm: 1988, tại tỉnh T N; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện N2y: Ấp Tân T, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh T N; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N2m; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N2m; con ông Huỳnh Văn D, sinh năm 1959 và bà Tô Thị L1, sinh năm 1961; vợ: Phạm Thị Kim P, sinh năm 1996; Con: Có 02 người; Tiền án, tiền sự: Không.
4. Nguyễn Văn N2 (tên gọi khác: Không), sinh năm: 1993, tại tỉnh T N; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện N2y: Ấp Tân Đ1, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh T N; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N2m; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N2m; con ông Nguyễn Văn L2 (đã chết) và bà Nguyễn Thị P2 (đã chết); Vợ: Dương Thị K, sinh năm 1989; Con: Có 02 người; Tiền án, tiền sự: Không Các bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, các bị cáo có mặt tại Tòa.
Ngoài ra trong vụ án còn có 02 bị cáo Phan Tuấn V và Đinh Thị Kim C không có kháng cáo, kháng nghị nên Tòa không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 14/6/2020, sau khi uống rượu tại nhà V xong thì V rủ Tô Minh H1, Huỳnh Văn S và Tèo (không rõ nhân thân, lai lịch) đánh bạc dưới hình thức bài xì tố được thua bằng tiền thì H1 và Tèo đồng ý còn S không có tiền nên đi về. V nhờ Đinh Thị Kim (C là mẹ ruột của Đặng Tùng V đang sống chung nhà) mua bộ bài T dùng để đánh bạc, C đồng ý và nhờ cháu C Phục Duy, sinh ngày 13/6/2005 ngụ ấp Tân T, xã Tân H, huyện Tân C đi mua 20 bộ bài T với giá tiền 120.000 đồng (giá 6.000 đồng/1 bộ), C dùng 01 tấm cH1, 01 cái mền trải dưới nền nhà của C và lấy 01 cái hộp để đựng bài, đựng tiền. C bán 01 bộ bài giá 30.000 đồng cho những người đánh bạc mua, C nhiều lần đến lấy tiền, thu lợi 480.000 đồng. Lúc này, V, H1 và Tèo tham gia đánh bạc đặt cược một ván bài, mỗi người đặt 10.000 đồng, mức tố bài từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng, mỗi ván người thắng nhất được số tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng, cụ thể: H1 dùng 2.500.000 đồng để đánh bạc, V dùng 1.002.000 đồng để đánh bạc và thắng H1 500.000 đồng, thắng Tèo 700.000 đồng, đánh bạc đến 16 giờ cùng ngày, Tèo nghỉ; V và H1 tiếp tục đánh bạc. Đến 21 giờ cùng ngày, Huỳnh Thanh S và Nguyễn Văn N2 đến, S không có tiền nên mượn H1 1.000.000 đồng dùng để đánh bạc, H1 hùn vốn với S 1.000.000 đồng để đánh bạc, N2 dùng 5.222.000 đồng đánh bạc và thắng được 3.000.000 đồng. Đến khoảng 01 giờ ngày 15/6/2020, N2 nghỉ đánh bạc về đi làm, H1 mượn N2 3.000.000 đồng để đánh bạc, S đánh bạc thua còn lại 900.000 đồng nên S mượn N2 2.000.000 đồng đưa cho H1 1.450.000 đồng (trong đó trả H1 tiền mượn trước đó 1.000.000 đồng và 450.000 đồng tiền hùn vốn) còn lại 1.450.000 đồng H1 tiếp tục đánh bạc đến khoảng 09 giờ cùng ngày, đánh bạc hết số bài T do C mua nên V tự đi mua thêm 07 bộ bài T giá 42.000 đồng (mỗi người hùn 10.000 đồng, riêng V 12.000 đồng) tiếp tục đánh bạc. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Phan Tuấn V đến nhà của C và mang theo số tiền 949.000 đồng dùng để đánh bạc cùng V, H1, S, kết quả thắng được 250.000 đồng; cùng lúc này N2 đến mang theo số tiền 3.222.000 đồng, khi H1 đi ăn mì thì N2 đánh bạc giùm cho H1 02 đến 03 ván thì H1 tiếp tục đánh bạc còn N2 nghỉ, sau đó H1 trả cho N2 tiền mượn trước đó 3.000.000 đồng. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày thì nghỉ, cH1 mền, bài T dùng để đánh bạc còn để lại, đang ngồi nói chuyện tại cH1 bạc thì bị Công an xã Tân H, huyện Tân C kiểm tra phát hiện.
Tổng số tiền dùng đánh bạc từ ngày 14/6/2020 đến khoảng 01 giờ ngày 15/6/2020, khi N2 nghỉ đánh bạc là 9.424.000 đồng; tổng số tiền dùng để đánh bạc khi V đến cùng tham gia đánh bạc từ khoảng 01 giờ ngày 15/6/2020 đến khi bị phát hiện là 7.149.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra, Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Phan Tuấn V, Đinh Thị Kim C, Huỳnh Văn S và Nguyễn Văn N2 đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 101/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tân C, tỉnh T N đã xử:
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Đặng Tùng V (tên gọi khác: Gạt) 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thụ hình.
Xử phạt bị cáo Tô Minh H1 (tên gọi khác: Xù) 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thụ hình.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N2 (tên gọi khác: Không) 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thụ hình.
Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn S (tên gọi khác: Nhóc Anh) 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thụ hình.
Phạt bổ sung đối với các bị cáo Đặng Tùng V, Nguyễn Văn N2, Huỳnh Văn S, Tô Minh H1 mỗi bị cáo 10.000.000 (mười triệu) đồng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về hình phạt đối với bị cáo Phan Tuấn V và Đinh Thị Kim C, các biện pháp tư pháp và quyền kháng cáo.
Ngày 17 tháng 12 năm 2020, bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Ngày 22 tháng 12 năm 2020, bị cáo Huỳnh Văn S có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T N đề nghị: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S. Sữa bản án sơ thẩm theo hướng xử phạt các bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ.
Lời nói sau cùng của các bị cáo:
Bị cáo Đặng Tùng V: Xin được hưởng án treo.
Bị cáo Tô Minh H1: Xin được hưởng án treo.
Bị cáo Nguyễn Văn N2: Xin được hưởng án treo.
Bị cáo Huỳnh Văn S: Xin được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Xét các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm đều hợp pháp. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S xác định trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án tại cấp sơ thẩm không có ý kiến hoặc kH1 nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S thấy rằng:
[2.1] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S thừa nhận hành vi phạm tội “Đánh bạc”. Xét lời nhận tội của các bị cáo phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của các bị cáo khác cùng các tài chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận: Ngày 14/6/2020, Đinh Thị Kim C dùng nhà của mình ở ấp Tân T, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh T N và bán 20 bộ bài T với giá là 600.000 đồng ( thu lợi 480.000 đồng) cho Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền với số tiền đánh bạc là 9.424.000 đồng. Đến ngày 15/6/2020, Phan Tuấn V đến tham gia với số tiền dùng vào việc đánh bạc là 7.149.000 đồng thì bị phát hiện.
Bản án Hình sự sơ thẩm số 101/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tân C đã xử bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S về tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[2.2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương nên phải chịu trách nhiệm hình sự. Các bị cáo biết rõ hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật nhưng nhằm thu lợi bất chính các bị cáo vẫn thực hiện.
[2.3] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét xử phạt bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S mức án 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành án phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án là tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo gây ra.
[2.4] Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm các bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S mỗi bị cáo đã nộp số tiền 10.000.000 đồng tiền phạt bổ sung của bản án sơ thẩm. Bị cáo Đặng Tùng V cung cấp chứng cứ bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, bị cáo có bà nội là Bà mẹ Việt N2m anh Hùng có ông nội được tặng huân chương kháng chiến hạng ba; Bị cáo S đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự; Bị cáo H1 đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo có địa chỉ rõ ràng nên việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Do các bị cáo không có thu nhập ổn định nên miễn việc khấu trừ một phần thu nhập của các bị cáo để sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 3 Điều 36 của Bộ luật Hình sự.
[2.5] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S; chấp nhận đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa, sửa bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S.
2. Sửa bản án Hình sự sơ thẩm số 101/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tân C, tỉnh T N.
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Đặng Tùng V 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn thi hành án tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Giao bị cáo Đặng Tùng V về Ủy ban nhân dân xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh T N giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Tô Minh H1 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn thi hành án tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Giao bị cáo Tô Minh H1 về Ủy ban nhân dân xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh T N giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn S 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn thi hành án tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Giao bị cáo Huỳnh Văn S về Ủy ban nhân dân xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh T N giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N2 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn thi hành án tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Giao bị cáo Nguyễn Văn N2 về Ủy ban nhân dân xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh T N giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Phạt bổ sung đối với các bị cáo Đặng Tùng V, Nguyễn Văn N2, Huỳnh Văn S, Tô Minh H1 mỗi bị cáo 10.000.000 (mười triệu) đồng. Ghi nhận bị cáo Đặng Tùng V đã nộp số tiền 10.000.000 đồng tiền phạt bổ sung theo biên lai thu số 0000340 ngày 18-5-2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân C, tỉnh T N. Ghi nhận bị cáo Nguyễn Văn N2 đã nộp số tiền 10.000.000 đồng tiền phạt bổ sung theo biên lai thu số 0000339 ngày 18-5-2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân C, tỉnh T N. Ghi nhận bị cáo Tô Minh H1 đã nộp số tiền 10.000.000 đồng tiền phạt bổ sung theo biên lai thu số 0000338 ngày 18-5-2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân C, tỉnh T N. Ghi nhận bị cáo Huỳnh Văn S đã nộp số tiền 10.000.000 đồng tiền phạt bổ sung theo biên lai thu số 0000342 ngày 19- 5-2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân C, tỉnh T N.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Đặng Tùng V, Tô Minh H1, Nguyễn Văn N2 và Huỳnh Văn S không phải chịu.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội đánh bạc số 83/2021/HS-PT
Số hiệu: | 83/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về