Bản án về tội đánh bạc số 77/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y T - TỈNH NGHỆ AN

BẢN SỐ 77/2022/HS-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 16 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y T, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đình TH, Tên gọi khác: Không; sinh ngày 05 tháng 10 năm 1985 tại huyện Y T, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 8, xã Liên T, huyện Y T, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình Năm (đã chết) và bà Phan Thị Tam; sinh năm 1957; Vợ: Thái Thị Hiền; sinh năm 1992; Con: Có 02 người, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28/11/2017 bị Toà án nhân dân huyện Y T xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng tại Bản án số 74/HSST/2017 về tội “Đánh bạc”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/01/2022 đến ngày 22/01/2022, sau đó được thay đổi áp dụng biện pháp ngăn chăn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt,

2. Phan Trọng M, Tên gọi khác: Không, sinh ngày 24 tháng 10 năm 1983, tại huyện Y T, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm 11, xã Công T, huyện Y T, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn Đông, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị Ngọc, sinh năm 1958; vợ con: Chị Nguyễn Thị Hiền, sinh năm 1987; con: Có 04 con, con ;lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 26/8/2018 bị Công an tỉnh Nghệ An xử phạt vi phạm hành chính tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 4202 ngày 16/10/2018 về hành vi vận chuyển gỗ trái pháp luật.

Bị tạm giữ từ ngày 13/01/2022 đến ngày 16/01/2022 sau đó được thay đổi áp dụng biện pháp ngăn chăn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt,

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Quang D, sinh năm 1972, Địa chỉ: xóm 6, xã Minh C,huyện DC, tỉnh Nghệ An,Vắng mặt.

2. Chị Phạm Thị H, sinh năm 1973, Địa chỉ: xóm 5,xã Liên T,huyện Y T,tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

3. Anh Thái Văn T, sinh năm 1992, Địa chỉ: xóm 9,xã Liên T,huyện Y T,tỉnh Nghệ An. Vắng mặt, 4. Anh Hoàng Trọng V, sinh năm 1971, Địa chỉ: xóm 8,xã Liên T,huyện Y T,tỉnh Nghệ An.Vắng mặt.

5. Anh Đặng Hồng T, sinh năm 1972, Địa chỉ: xóm 9,xã Liên T,huyện Y T,tỉnh Nghệ An.Vắng mặt.

6. Chị Phan Thị H, sinh năm 1989, Địa chỉ: xóm 5,xã Liên T,huyện Y T,tỉnh Nghệ An.Vắng mặt.

Người tham gia tố tụng khác: Không.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong ngày 12/01/2022, Nguyễn Đình TH đã đánh bạc bằng hình thức mua bán số lô, số đề với một số đối tượng khác. Cách chơi được quy ước là căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng vào lúc 18 giờ 30 phút hàng cùng ngày, số đề là 02 số cuối cùng của giải đặc biệt, số lô là 02 số cuối cùng của tất cả các giải. Mỗi điểm lô có giá tiền 23.000đ (hai mươi ba nghìn đồng). Nếu số lô nào trúng thì Nguyễn Đình TH phải trả cho những người tham gia mua số lô số tiền là 80.000đ (tám mươi nghìn đồng)/1 điểm, số đề nào trúng phải trả cho người chơi gấp 70 lần, cặp lô xiên nào trúng thì phải gấp 10 lần đối với lô xiên 2, gấp 40 lần đối với lô xiên 3. Nguyễn Đình TH đã đánh bạc với các đối tượng như sau:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 12/01/2022, Phạm Thị H, sinh năm 1973, trú tại xóm 5, xã Liên T,YT gặp Nguyễn Đình TH tại khu vực Cầu Thông, xã Liên T, huyện Y T và đưa cho Nguyễn Đình TH một tờ giấy, bên trong có ghi các số lô, đề: lô 32 x 35 điểm; lô 24; 28; 82 mỗi số 25 điểm; lô xiên 3 (07; 10; 74) x 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng); lô xiên 2 (32; 24); (32; 28); (82; 32) mỗi cặp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Nguyễn Đình TH đồng ý. Tổng số tiền Phạm Thị H đánh bạc với Nguyễn Đình TH là 3.630.000 đồng (ba triệu sáu trăm ba mươi nghìn đồng). Phạm Thị H đã thanh toán cho Nguyễn Đình TH số tiền trên. Sau khi lưu các số lô, đề vào điện thoại Vivo Y12S, Thảo gặp và đưa tờ giấy ghi số lô, đề trên cho chị Phan Thị H, sinh năm 1989, trú tại xóm 5, xã Liên T,YT (bạn của Thảo) nhờ chị Hà cầm hộ.

Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, Hoàng Trọng V, sinh năm 1971, trú tại xóm 8, xã Liên T,YT đến nhà ở của Nguyễn Đình TH gặp Thảo đánh lô, đề các số: đề 06, 16, 26, 36, 46, 56, 66, 76, 86, 96 mỗi số 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng); đề 06; 46; 86 mỗi số 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng); lô 25; 97; 98 mỗi số 05 điểm Nguyễn Đình TH đồng ý. Tổng số tiền Hoàng Trọng V đánh bạc với Nguyễn Đình TH là 1.645.000 đồng (một triệu sáu trăm bốn mươi lăm nghìn đồng). Phan Trọng Vinh đã thanh toán cho Nguyễn Đình TH số tiền trên.

Đến khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày, Thái Văn T, sinh năm 1992, trú tại xóm 9, xã Liên T,YT, sử dụng số thuê bao 0976966086 gọi điện thoại đến số thuê bao 0398417693 của Nguyễn Đình TH để đánh lô, đề các số: lô 67, 76 mỗi số 50 điểm; đề (48, 44, 52, 58, 59) mỗi số 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng); lô xiên 3 (57, 59, 85) và (54, 15, 89) mỗi cặp 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng). Nguyễn Đình TH đồng ý. Tổng số tiền Thái Văn T đánh đánh bạc với Nguyễn Đình TH là 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng). Thái Văn T đã thanh toán cho Nguyễn Đình TH 3.200.000đ (ba triệu hai trăm nghìn đồng), số tiền còn lại là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) sẽ thanh toán sau.

Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, Đặng Hồng T, sinh năm 1972, trú tại xóm 5, xã Liên T,YT, gặp Nguyễn Đình TH ở khu vực xóm 5, xã Liên T, huyện Y T và đánh đề các số: đề 56 với số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng); đề 40; 65 mỗi số 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng); đề 89; 20; 28; 42;

37 mỗi số 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng). Nguyễn Đình TH đồng ý. Tổng số tiền Đặng Hồng T đánh bạc với Nguyễn Đình Thảo là 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng), nhưng chưa thanh toán số tiền trên.

Đến khoảng 17 giờ 45 phút cùng ngày, Phan Trọng M sử dụng số thuê bao 0917822263 gọi điện thoại đến số thuê bao 0398417693 của Nguyễn Đình TH đánh lô các số: lô 89; 98 mỗi số 100 điểm; lô 81; 72 mỗi số 10 điểm.

Nguyễn Đình TH đồng ý. Tổng số tiền Phan Trọng M đánh bạc với Nguyễn Đình TH là 5.060.000 đồng (năm triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng). Phan Trọng M đã thanh toán cho Nguyễn Đình TH số tiền trên.

Tổng số tiền Nguyễn Đình TH đánh bạc với Phạm Thị H, Hoàng Trọng V, Thái Văn T, Đặng Hồng T, Phan Trọng M trong ngày 12/01/2022 bằng hình thức mua bán số lô, đề là 14.335.000 đồng (mười bốn triệu ba trăm ba mươi lăm nghìn đồng).

Theo lời khai của Nguyễn Đình TH, sau khi nhận các số lô, số đề trên thì Thảo đã sử dụng tài khoản Telegram tên “AB” (đăng ký bằng số điện thoại 0398417693) nhắn tin qua Telegram cho tài khoản tên “A” (đăng ký bằng số điện thoại 0915551026) của Trần Quang D, sinh năm 1972, trú xóm 6, xã Minh Châu, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An để chuyển toàn bộ các số lô, số đề cho người này để hưởng tiền hoa hồng. Ngoài ra, Nguyễn Đình TH còn đánh số lô 89 là 300 điểm với số tiền 6.540.000đ (sáu triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng), do Thảo đánh bạc trực tiếp với Trần Quang D nên Trần Quang D tính mỗi điểm lô là 21.800đ (hai mươi mốt nghìn tám trăm đồng). Trần Quang D đồng ý. Đến khoảng 18 giờ 10 phút cùng ngày (khi chưa có kết quả mở thưởng của Xổ số kiến thiết miền Bắc), Nguyễn Đình TH đang ở nhà thì bị Công an huyện Y T phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 02 điện thoại di động nói trên sử dụng điện thoại nhãn hiệu Vivo Y12S, bên trong chứa số thuê bao 0398417693 và 0982249269, và điện thoại nhãn hiệu Iphone XS Max, bên trong chứa số thuê bao 0969885185 để (BL 169 - 256).

Ngày 12/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y T đã tiến hành kiểm tra dữ liệu điện thoại di động của Nguyễn Đình TH, phát hiện 03 bức ảnh do Nguyễn Đình TH chụp lại màn hình điện thoại từ ứng dụng Telegram, nội dung có liên quan đến số lô, số đề mà Thảo nhắn cho một tài khoản tên A của Trần Quang D. Ngày 13/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y T đã tiến hành kiểm tra điện thoại của Trần Quang D nhưng không phát hiện thông tin liên quan đến việc mua bán số lô, đề với Nguyễn Đình TH. Trần Quang D không thừa nhận hành vi đánh bạc bằng hình thức mua bán số lô, đề với Nguyễn Đình TH (BL 74 – 77; 115; 239 – 247) Đến ngày 13/01/2022, Phan Trọng M đến Công an huyện Y T xin đầu thú về hành vi “Đánh bạc” với Nguyễn Đình TH (BL 190).

* Vật chứng thu giữ:

- Thu giữ của Nguyễn Đình TH:

+ 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Vivo Y12s 2021, màu xanh, số IMEI1: 865652058285679, IMEI2: 865652058285661, bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0398417693 và 0982249269 (điện thoại đã qua sử dụng);

+ 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Iphone XS Max, màu vàng, số IMEI1: 353093102917076; IMEI2: 353093102859467, bên trong chứa sim số thuê bao 0969885185 (điện thoại đã qua sử dụng);

- Thu giữ của Phạm Thị H:

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, số Seri1:

351671340426454, Seri2: 351671345426459, bên trong chứa sim số thuê bao 0973054758 (điện thoại đã qua sử dụng);

- Thu giữ của Đặng Hồng T:

01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Nokia 150, màu đỏ, số IMEI1: 350085533166234, IMEI2: 350085533666233, bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0971589038 và 0978485819 (điện thoại đã qua sử dụng);

- Thu giữ của Phan Thị H:

+ 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, số IMEI1: 356957094290393, IMEI2: 356957099290398; bên trong chứa sim số thuê bao 0972677782, (điện thoại đã qua sử dụng);

+ 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Iphone XS Max, màu vàng, số IMEI1: 357309091472591; số IMEI2: 357309091901920 (điện thoại đã qua sử dụng), bên trong không có thẻ sim;

+ 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Sam Sung A20S, màu đỏ, số IMEI 1: 353248115525486, số IMEI 2: 353249115525483; bên trong chứa sim số thuê bao 09621766043 (điện thoại đã qua sử dụng);

+ 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Vsmart Live, màu đen, số IMEI1: 356744101506452, IMEI2: 356744101506460; bên trong không chứa thẻ sim (điện thoại đã qua sử dụng);

+ 01 (một) quyển vở bìa màu xanh “Trường tiểu học Liên T”; 01 (một) tờ giấy hoá đơn “Xưởng gỗ Ba Hương” hình chữ nhật kích thước (22 x 17) cm;

+ Số tiền 58.500.000 đồng (năm mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng);

gồm 117 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng.

- Thu giữ của Trần Quang D:

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu vàng, số IMEI 1: 868499030235779, số IMEI 2: 868499030235761; bên trong chứa sim số thuê bao 0379077941 (điện thoại đã qua sử dụng);

* Xử lý vật chứng:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu vàng, bên trong chứa sim số thuê bao 0379077941; 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, bên trong chứa sim số thuê bao 0972677782; 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Iphone XS Max, màu vàng, bên trong không có thẻ sim; 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Sam Sung A20S, màu đỏ, bên trong chứa sim số thuê bao 09621766043; 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Vsmart Live, màu đen, bên trong không chứa thẻ sim; 01 (một) quyển vở bìa màu xanh “Trường tiểu học Liên T”; 01 (một) tờ giấy hoá đơn “Xưởng gỗ Ba Hương” và Số tiền 58.500.000 đồng (năm mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng), quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y T đã trả lại cho Phan Thị H và Trần Quang D theo quy định (BL 130, 131).

Số vật chứng còn lại gồm: 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Vivo Y12s 2021, màu xanh, bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0398417693 và 0982249269; 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Iphone XS Max, màu vàng, bên trong chứa 01 sim số thuê bao 0969885185, thu giữ của Nguyễn Đình TH;

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, bên trong chứa 01 sim số thuê bao 0973054758 thu giữ của Phạm Thị H; 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Nokia 150, màu đỏ, bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0971589038 và 0978485819 thu giữ của Đặng Hồng T, hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng Công an huyện Y T chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

trên.

Quá trình điều tra các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều vắng mặt, Hội đồng xét xử đã công bố lời khai của những người vắng mặt.

Bản cáo trạng số 61/ CT-VKSYT ngày 18 tháng 4 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Y T đã truy tố các bị cáo Nguyễn Đình TH và Phan Trọng M về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi đánh bạc của mình đúng như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y T giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội “Đánh bạc” và đề nghị Hội đồng xét xử :

Áp dụng khoản 1 Điều 321 ; điểm s khoản 1,2 Điều 51, khoản 1,2 điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình TH từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 đến 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (16/6/2022).

Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i,s khoản 1,2 điều 51; khoản 1,2 điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt Phan Trọng M từ 06 đến 07 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 đến 14 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (16/6/2022).

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số vật chứng là phương tiện phạm tội gồm:

+ 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Vivo Y12s 2021, màu xanh, bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0398417693 và 0982249269 thu của Nguyễn Đình TH.

+ 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen thu của Phạm Thị H.

- Trả lại vật chứng không phải là phương tiện phạm tội gồm:

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX thu của Nguyễn Đình TH;

01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Nokia 150, màu đỏ, bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0971589038 và 0978485819 thu giữ của Đặng Hồng T.

Truy thu sung quỹ nhà nước tổng số tiền là 13.535.000 đồng là phương tiện đánh bạc từ bị cáo Nguyễn Đình TH.

Về án phí buộc bị cáo Nguyễn Đình TH phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Đối với bị cáo Phan Trọng M có hoàn cảnh kinh tế khó khăn là hộ cận nghèo, có đơn đề nghị xem xét miễn, giảm tiền án phí theo qui định nên miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến gì. mà Các bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên Các bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng, không có ý kiến gì tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Các bị cáo nhận thức và ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình và nói lời nói sau cùng: Đều xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của các bị cáo để giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Việc xét xử vắng mặt những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Tại phiên toà vắng mặt những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Xét thấy việc vắng mặt của những người này không trở ngại, không gây ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nêu trên. Nên căn cứ vào các điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[1.2] Về các hành vi và quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y T, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện Y T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Vì vậy, có đủ cơ sở khẳng định các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố là khách quan và hợp pháp.

[2] Nội dung nhận định của Hội đồng xét xử về những vấn đề phải giải quyết trong vụ án.

[2.1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy: Các bị cáo Nguyễn Đình TH, Phan Trọng M đều đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai nhận của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, phù hợp biên bản thu giữ vật chứng, các biên bản mở niêm phong kiểm tra nội dung trong điện thoại, bản sao kê chi tiết giao dịch là phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để xác định: Trong khoảng thời gian từ 16 giờ 00 phút đến 17 giờ 45 phút, ngày 12/01/2022, tại khu vực xã Liên T, huyện Y T, Nguyễn Đình TH đã đánh bạc bằng hình thức mua bán số lô, số đề thắng thua bằng tiền mặt. Nguyễn Đình TH đánh bạc với: Phạm Thị H với số tiền 3.630.000đ (ba triệu sáu trăm ba mươi nghìn đồng), Hoàng Trọng V với số tiền 1.645.000đ (một triệu sáu trăm bốn mươi lăm nghìn đồng), Thái Văn T với số tiền 3.500.000đ (ba triệu năm trăm nghìn đồng), Đặng Hồng T với số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) và Phan Trọng M với số tiền 5.060.000đ (năm triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tổng số tiền đánh bạc mà Nguyễn Đình TH phải chịu trách nhiệm hình sự là 14.335.000đ (mười bốn triệu ba trăm ba mươi lăm nghìn đồng). Phan Trọng M phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền 5.060.000đ (năm triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng).

[2.2] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[2.2.1] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh và những qui tắc do nhà nước qui định. Hành vi đánh bạc của các bị cáo còn là tiền đề gây ra nhiều tệ nạn xã hội khác làm ảnh hưởng cuộc sống bình yên của nhiều gia đình và ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Các bị cáo đều là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết được Nhà nước nghiêm cấm đánh bạc dưới mọi hình thức và nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Do đó hành vi của các bị cáo Nguyên Đình Thảo và Phan Trọng M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự với mức hình phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y T, tỉnh Nghệ An truy tố các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm với các bị cáo bằng một chế tài hình sự tương xứng với hành vi phạm tội mới có tác dụng giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.

[2.2.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Các bị cáo phạm tội đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự qui định tại điều 52 Bộ luật hình sự.

[2.2.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo đều đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, biết ăn năn hối cải; đều không có tiền án,tiền sự. Bị cáo Nguyễn Đình TH có bố đẻ là ông Nguyễn Đình Năm là người có công với nước đã có thành tích phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam được Chủ tịch nước tặng thưởng huân chương, bị cáo Minh sau khi nhận thức được việc làm trái pháp luật đã đầu thú hành vi phạm tội; Bản thân bị cáo ,vợ bị cáo, bố mẹ đẻ của bị cáo bệnh tật hiểm nghèo, có hoàn cảnh khó khăn lại đông con. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Phan Trọng M phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm i khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Do đó cần cho các bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ nêu trên để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

[2.3.] Về vai trò, nhân thân của từng bị cáo:

Đây là vụ án đánh bạc có tính chất giản đơn, không có tổ chức chặt chẽ của những người cùng thực hiện tội phạm. Các bị cáo Nguyễn Đình TH và Phan Trọng M đều trực tiếp đánh bạc. Bị cáo Thảo là người bán số lô, đề; bị cáo Minh là người trực tiếp mua số lô, số đề. Xét về tang số đánh bạc thì bị cáo Thảo chịu nhiều hơn bị cáo Minh.

Xét về nhân thân thấy: Các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự, nhưng đều có lý lịch cá nhân chưa tốt, thể hiện ngoài lần phạm tội này các bị cáo chấp hành pháp luật chưa tốt đó là bị cáo Thảo đã bị xét xử về tội đánh bạc và bị cáo Minh cũng đã bị xử phạt hành chính về hành vi vận chuyển gỗ trái phép năm 2018.

[2.4.] Về hình phạt bổ sung:

Theo các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo đều là người lao động tự do, thu nhập không ổn định, hoàn cảnh còn khó khăn. Thấy cần miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với cả 2 bị cáo như đề nghị của Đại diện viện kiểm sát là có căn cứ.

[2.5.] Vật chứng và xử lý vật chứng:

Xét thấy, 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo và 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 thu giữ là những vật chứng thuộc sở hữu của Nguyễn Đình TH và Phạm Thị H đã dùng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX thu của Nguyễn Đình TH và 01 (một) điện thoại NOKIA 150, màu đỏ, thu của Đặng Hồng T cả hai chiếc điện thoại này không phải là phương tiện phạm tội nên cần trả lại cho chủ sở hữu.

[2.6.] Các biệp pháp tư pháp:

Khoản tiền 13.535.000 (Mười ba triệu năm trăm ba mươi lăm nghìn) đồng là số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc. Số tiền này những ngươi đánh bạc đã chuyển cho bị cáo Thảo, đây là phương tiện đánh bạc nên cần truy thu từ bị cáo Nguyễn Đình TH để sung quĩ nhà nước.

Đối với số tiền còn lại và số tiền bị cáo Thảo khai nhận đã đánh bạc với Trần Quang D là số tiền chưa chuyển nên không có căn cứ truy thu.

[2.7.] Về những vấn đề khác:

Về hành vi bị cáo Thảo khai đã chuyển số tiền bán đánh lô, đề nêu trên và bản thân bị cáo tự nhận đánh số lô 89 là 300 điểm có giá 6.540.000 đông cho Trần Quang D thông qua số tin nhắn Telegram tài khoản “A” của Diệp để hưởng tiền hoa hồng. Do chưa có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Quang D nên khi nào có đủ căn cứ sẽ tiến hành xử lý theo qui định của pháp luật.

Đối với Phan Thị H có hành vi cầm giữ hộ tờ giấy gấp gọn và nhận tin nhắn hình ảnh có những con số do bị cáo Thảo gửi, quá trình điều tra Phan Thị H không biết nên không có căn cứ xử lý theo qui định pháp luật.

[2.8.] Về mức hình phạt dành cho các bị cáo:

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, đánh giá về nhân thân, lý lịch và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy các bị cáo phạm tội đều không có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng. Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có vai trò độc lập với nhau và vai trò của bị cáo Thảo lớn hơn nên cần lên mức án đối với bị cáo Thảo cao hơn mức án với Minh mới phù hợp. Tuy nhiên thấy không nhất thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội mà cho các bị cáo được hưởng án treo theo qui định tại điều 65 của Bộ luật hình sự như đề nghị của đại diện viện kiểm sát cũng đủ răn đe giáo dục đối với các bị cáo và cũng có tác dụng phòng ngừa chung.

[3] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Đình TH phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Do bị cáo Phan Trọng M là người có điều kiện hoàn cảnh rất khó khăn thuộc hộ gia đình cận nghèo, đã có đơn trình bày hoàn cảnh xin miễn tiền án phí và hình phạt bổ sung được UBND xã Công T xác nhận nên miễn tiền án phí cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo bản án sơ thẩm:

Bị cáo và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 331 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 điều 321; các điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, khoản 1,2 điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình TH 16 (mười sáu) tháng tù về tội: “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 32(Ba mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (16/6/2022).

2. Căn cứ vào khoản 1 điều 321; các điểm i,s khoản 1, khoản 2 điều 51, khoản 1,2 điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Phan Trọng M 06 (sáu) tháng tù về tội: “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (16/6/2022).

Giao bị cáo Nguyễn Đình TH cho Ủy ban nhân dân xã Liên T , huyện Y T, tỉnh Nghệ An và Giao bị cáo Phan Trọng M cho Ủy ban nhân dân xã Công T, huyện Y T, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại khoản 3 điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

4. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật hình sự.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số vật chứng là phương tiện phạm tội gồm:

+ 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Vivo Y12s 2021, màu xanh, số IMEI 1: 865652058285679; IMEI 2: 865652058285661 bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0398417693 và 0982249269 thu của Nguyễn Đình TH.

+ 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, số Seri 1: 351671340426454, Seri 2: 351671345426459, bên trong chứa một sim số thuê bao 0973054758 thu của Phạm Thị H.

- Trả lại vật chứng không phải là phương tiện phạm tội gồm:

+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đình TH 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX màu vàng, số IMEI 1: 353093102917076; IMEI 2: 8353093102859467 bên trong chứa 01 sim số thuê bao 0969885185.

+ Trả lại cho Đặng Hồng T 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu Nokia 150, màu đỏ, số IMEI 1: 350085533166234; IMEI 2: 350085533666233 bên bên trong chứa 02 sim số thuê bao 0971589038 và 0978485819.

Vật chứng đã được chuyển giao cho Chi cục thi hành án Dân sự huyện Y T quản lý. Chi tiết vật chứng thi hành án theo biên bản giao nhận vật chứng đề ngày 26/4/2022 giữa cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Y T và Chi cục thi hành án Dân sự huyện Y T.

5. Các biệp pháp tư pháp:

Truy thu sung quỹ nhà nước tổng số tiền là 13.535.000 (Mười ba triệu năm trăm ba mươi lăm nghìn) đồng từ bị cáo Nguyễn Đình TH.

6. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

điều 12; điểm a, khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Đình TH phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phan Trọng M.

7. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt, có quyền kháng cáo lên Toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt, có quyền kháng cáo lên Toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 77/2022/HS-ST

Số hiệu:77/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;