Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 68/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 68/2022/HS-PT NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 19/7/2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 50/2022/TLPT-HS ngày 06 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Trần Phước T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo:

Trần Phước T (Bé) - sinh ngày 18/7/1985 tại Đà Nẵng; nơi cư trú: Tổ 2, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần K (sinh năm 1944) và bà Lê Thị H (sinh năm 1940); vợ Võ Thị Hồng X và 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền sự: Chưa.

Tiền án: Ngày 06/01/2021, tại Bản án số 04/2021/HS-PT bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tuyên phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”;

Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Các bị cáo không có kháng cáo,không bị kháng cáo,kháng nghị: Nguyễn Lê Mai L, Nguyễn Phước Ngh, Tôn Nữ Thùy U, Nguyễn X Th, Cao Đức L, Nguyễn Văn H, Ngô Thị Thanh X, Bùi Quốc D, Đặng Quang Th và Mai Văn Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 21/10/2021, Trần Phước T gọi điện rủ một số người đến nhà riêng tại tổ 2 , phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng để đánh bạc. T chuẩn bị bàn ghế, bộ bài tây 52 lá, thức ăn, nước uống, dụng cụ thu tiền xâu và tổ chức 02 chiếu bạc với hình thức đánh “Phỏm”. Các bị cáo sử dụng bộ bài tây 52 lá để đánh bạc, mỗi nhà được chia 9 lá bài, riêng nhà đánh trước được chia 10 lá bài, số bài nọc còn lại để các nhà bốc. Số tiền thắng thua mỗi ván bài cụ thể như sau: Bị ăn gà đầu thua 50.000 đồng, bị ăn gà thứ hai thua 100.000 đồng, bị ăn gà chốt hạ thua 200.000 đồng, cháy (Không có phỏm) thua 200.000 đồng; nhà nào bị ăn gà 03 lần tạo thành ù thì đền ù thường 900.000 đồng, đền ù tròn 1.800.000 đồng, các nhà còn lại không phải chung tiền; ăn ù thường thì mỗi nhà thua chung cho nhà thắng 300.000 đồng, ăn ù tròn thì mỗi nhà thua chung cho nhà thắng 600.000 đồng; nhà nào trong những lá bài được chia có 4 con K thì thắng mỗi nhà 700.000 đồng, nếu bốc trong nọc lên được 4 lá K thì thắng mỗi nhà 500.000 đồng; sau khi kết thúc 4 lượt bốc bài, nếu không có nhà nào ù thì các nhà hạ phỏm và tính điểm trong bài rác, nhà nào có tổng điểm bài rác thấp nhất thì thắng, ba nhà còn lại theo thứ tự điểm từ thấp đến cao lần lượt thua 50.000 đồng, 100.000 đồng, 150.000 đồng; nhà không có là K thì phải chung cho người có là 200.000 đồng. Trường hợp không có phỏm thì gọi là “Cháy”, người không có phỏm phải chung cho người thắng trong ván số tiền 200.000 đồng (nếu cả bốn người chơi đều cháy thì người nào cháy trước sẽ thắng trong ván đánh). Theo quy ước trên thì số tiền thắng thua nhiều nhất trong một ván bài là 4.250.000 đồng. Các đối tượng đánh bạc bỏ xâu cho T 50.000 đồng nếu có ù thường và 100.000 đồng nếu có ù tròn.

Quá trình điều tra đã xác định:

Chiếu 1 : Các đối tượng bắt đầu đánh bạc từ 10 giờ 30 phút ngày 21/10/2021 tại phòng ngủ sát phòng thờ, tầng 2 nhà của T, tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 33.100.000 đồng, gồm có:

1. Ngô Thị Thanh X: Khoảng 10 giờ ngày 21/10/2021, X mang theo số tiền 1.060.000 đồng dùng để đánh bạc. Khi Cơ quan Công an bắt quả tang thì X thắng được 500.000 đồng, số tiền bị tạm giữ là 1.560.000 đồng.

2. Nguyễn X Th và Tôn Nữ Thùy U: Khoảng 10 giờ ngày 21/10/2021, Th mang theo 3.200.000 đồng, U mang theo 6.000.000 đồng để tham gia đánh bạc. Khi Cơ quan Công an bắt quả tang thì Th và U thắng số tiền là 1.400.000 đồng, tổng số tiền tạm giữ của Th và U là 10.600.000 đồng.

3. Nguyễn Văn H: Khoảng 10 giờ ngày 21/10/2021, H mang theo trên người số tiền 12.000.000 đồng, trong đó số tiền dùng để đánh bạc là 2.000.000 đồng. Tổng số tiền tạm giữ của H là 12.000.000 đồng.

4. Nguyễn Lê Mai L: Khoảng 10 giờ ngày 21/10/2021, L1 mang theo số tiền 50.850.000 đồng, trong đó 22.700.000 đồng là của anh Trần Thanh L gửi L1 mua hàng hóa. Số tiền 16.150.000 đồng là của Kiều Anh Đ trả nợ tiền hàng cho L1 để L1 trả tiền hàng. L1 sử dụng 12.000.000 đồng để tham gia đánh bạc. Số tiền tạm giữ của L1 là 50.700.000 đồng.

5. Nguyễn Phước Ngh: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 21/10/2021, mang theo số tiền 6.550.000 đồng dùng để đánh bạc. Số tiền tạm giữ của Ngh là 6.000.000 đồng.

6. Cao Đức L: Khoảng 11 giờ ngày 21/10/2021, L mang theo số tiền 2.290.000 đồng để đánh bạc. Khi Cơ quan Công an bắt quả tang thì L đã thua số tiền 1.700.000 đồng. Số tiền tạm giữ của L 590.000 đồng.

Chiếu 2: Các bị cáo đánh bạc từ 13 giờ 30 tại phòng khách trên tầng 2 nhà của T, tổng số tiền các đối tượng sử dụng đánh bạc là 5.670.000 đồng, gồm có:

1.Trần Phước T: Khoảng 14 giờ ngày 21/10/2021, tại phòng khách tầng 2, T trực tiếp tham gia và dùng số tiền 1.500.000 đồng để đánh bạc. Đến 15 giờ 15 phút cùng ngày, Cơ quan Công an vào bắt quả tang thì T thắng số tiền 3.500.000 đồng, qua kiểm tra tạm giữ của T 3.100.000 đồng, còn lại số tiền 1.900.000 đồng T đã dùng để chi trả tiền nợ mua cà phê, thuốc lá.

Trần Phước T thu tiền xâu trong mỗi ván “ù” từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng trong khi tổ chức đánh bạc. Trong ngày 21/10/2021, T đã thu được số tiền xâu từ 02 sòng bài tổng cộng là 600.000 đồng, số tiền này T đã sử dụng chung vào tiền đánh bạc.

2. Đặng Quang Th : Khoảng 14 giờ ngày 21/10/2021, Th sử dụng số tiền 1.500.000 đồng dùng để đánh bạc. Khi Cơ quan Công an vào bắt quả tang thì Th đã thua số tiền 1.350.000 đồng. Số tiền tạm giữ của Th là 150.000 đồng.

3. Mai Văn Đ: Sáng ngày 21/10/2021, Đ mang theo số tiền 1.020.000 đồng dùng để đánh bạc. Khi Cơ quan Công an vào bắt quả tang thì Đ đã thua số tiền 750.000 đồng. Số tiền tạm giữ của Đ là 270.000 đồng.

4. Bùi Quốc D: Khoảng 14 giờ ngày 21/10/2021, D mang theo số tiền 1.650.000 đồng dùng để đánh bạc. Khi Cơ quan Công an vào bắt quả tang thì D đã thua số tiền 1.400.000 đồng. Số tiền tạm giữ của D là 250.000 đồng.

Với nội dung trên, Bản án sơ thẩm số 22/2022/HS-ST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Căn cứ: điểm a, b, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Phước T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”.

Căn cứ: khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Phước T 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt chung của hại tội bị cáo phải chấp hành là 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt chung của bản án số 04/2021/HSPT ngày 06/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tuyên phạt Trần Phước T 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, tính đến ngày 21/10/2021 thời gian còn lại bị cáo chưa chấp hành là 04 tháng 25 ngày cải tạo không giam giữ. Áp dụng khoản 1 Điều 36 Bộ luật hình sự Trần Phước T còn phải chấp hành 01 tháng 18 ngày tù. Như vậy, bị cáo Trần Phước T phải chấp hành hình phạt là 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng 18 (mười tám) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về phần hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Lê Mai L, Nguyễn Phước Ngh, Tôn Nữ Thùy U, Nguyễn Xuân Th, Cao Đức L, Nguyễn Văn H, Ngô Thị Thanh X, Bùi Quốc D, Đặng Quang Th và Mai Văn Đ, về xử lý vật chứng, hình phạt bổ sung, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 11/5/2022, bị cáo Trần Phước T có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Phước T theo đúng thủ tục và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.

Về nội dung: Bản án sơ thẩm số 22/2022/HS-ST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a, b, c khoản 1 Điều 322 BLHS và tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật, mức án mà cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên đề nghị HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ Luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Bị cáo Trần Phước T thừa nhận hành vi phạm tội, giữ nguyên kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Trần Phước T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên HĐXX có đủ cơ sở xác định: Vào ngày 21/10/2021, bị cáo Trần Phước T đã chuẩn bị địa điểm, công cụ, gọi điện rủ rê các bị cáo khác tham gia đánh bạc với hình thức “đánh Phỏm” tại nhà của bị cáo tại địa chỉ Tổ 2, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng và thu tiền xâu mỗi ván bài ù từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng. Bị cáo đã tổ chức 02 chiếu bạc tại nhà của mình và cũng tham gia đánh bạc, cụ thể:

Chiếu 1 gồm: Nguyễn Lê Mai L, Nguyễn Phước Ngh, Tôn Nữ Thùy U, Nguyễn Xuân Th, Cao Đức L, Nguyễn Văn H và Ngô Thị Thanh X, đánh bạc tại phòng ngủ sát phòng thờ tầng 2, với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 33.100.000 đồng.

Chiếu 2 gồm: Trần Phước T, Bùi Quốc D, Đặng Quang Th và Mai Văn Đ đánh bạc tại phòng khách tầng 2, tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 5.670.000 đồng. Tổng số tiền 02 chiếu bạc tại nhà bị cáo vào ngày 21/10/2021 là 38.770.000 đồng. Quá trình tổ chức đánh bạc, bị cáo thu lợi bất chính số tiền là 600.000 đồng.

Do đó, Bản án sơ thẩm số: 22/2022/HS-ST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a, b, c khoản 1 Điều 322 BLHS và tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Trần Phước T xin giảm nhẹ hình phạt, thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực xâm hại trực tiếp đến trật tự công cộng xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Ngày 06/01/2021, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, nhưng đến ngày 21/10/2021, đang trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc, thể hiện coi thường pháp luật, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm. Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điển s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 09 tháng tù về tội: “Đánh bạc” là phù hợp, không nặng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Tại bản án số 04/2021/HSPT ngày 06/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tuyên phạt bị cáo Trần Phước T 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, tính đến ngày 21/10/2021 bị cáo đã phạm tội, nên thời gian cải tạo không giam giữ còn lại bị cáo chưa chấp hành là 04 tháng 25 ngày cải tạo không giam giữ. Áp dụng khoản 1 Điều 36 Bộ luật hình sự 04 tháng 25 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 tháng 18 ngày tù. HĐXX áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt của hai Bản án.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Phước T. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 22/2022/HS-ST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng.

2. Căn cứ: điểm a, b, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Phước T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”.

3. Căn cứ: khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Phước T 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt chung của hai tội, buộc bị cáo Trần Phước T phải chấp hành là 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù.

4. Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt chung của bản án số 04/2021/HSPT ngày 06/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt Trần Phước T 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, tính đến ngày 21/10/2021 thời gian còn lại bị cáo chưa chấp hành là 04 tháng 25 ngày cải tạo không giam giữ. Áp dụng khoản 1 Điều 36 Bộ luật hình sự được chuyển đổi thành 01(một) tháng 18 (mười tám) ngày tù.

Buộc bị cáo Trần Phước T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng 18 (mười tám) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

5. Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

6. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

472
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 68/2022/HS-PT

Số hiệu:68/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;